Cạm Bẫy Độc Thân (The Bachelor Trap)
Chương 6
Longbury là một thị trấn nhỏ khiêm tốn nép mình trong một thung lũng trong vùng núi đồi South Downs và được thịnh vượng bởi việc buôn bán lông cừu. Nhiều thế kỷ trước, đó là nơi tọa lạc của một tu viện dòng Biển Đức [Benedictine], nhưng tất cả những gì còn lại của sự hiện diện của các nhà sư chỉ là Priory [ngôi nhà dòng] của họ, bây giờ đã là một trang viện của gia tộc FitzAlans, gia tộc đứng đầu trong khu vực này. Gia tộc của Brand.
Trang viện nằm trên một đỉnh đồi, và mặc dù Brand đã cưỡi ngựa hàng giờ trong mưa phùn triền miên, đôi mắt chàng nặng trĩu mệt nhọc, ánh mắt của chàng vẫn dán chặt không hề lay chuyển vào cái nóc nhà của ngôi Priory được khắc họa rõ nét tại chân trời.
Ngôi nhà của ông ngoại chàng, trang viện Grange, nằm đối diện trên con đường dẫn xuống mé sông. Vào thời huy hoàng của nó, trang viện Grange đã sử dụng làm một vựa lúa, trang trại, và là ngôi nhà của cha xứ trước khi một thương gia mua bán lông trừu tái thiết lại nó cho gia đình ông sinh sống.
Khi vận may của gia đình ấy bị suy sụp, đa phần đất đai đã được bán đi và ngôi nhà chính và những căn nhà phụ đã được truyền từ tay chủ này đến tay chủ khác cho đến khi được mua lại bởi gia tộc Hamilton. Grange là một trang viện khiêm tốn hai tầng xây bằng gạch nung nằm trong một khu đất rộng lớn, và một nơi cư trú phù hợp dù có phần nào đơn sơ cho người ông ngoại Thanh giáo của chàng.
Gần nhà là một dãy chuồng ngựa mà ông ngoại của chàng đã sử dụng rất ít ngoại trừ làm chỗ trú cho ngựa và xe ngựa của mình. Mặc dù chỉ vừa mới có chút ánh sáng bình minh, những cậu giữ ngựa mà Manley thuê đã tích cực làm việc, và Brand thật sự vui mừng khi để ngựa của chàng cho họ lo liệu. Sau đó, chàng lảo đảo tiến đến căn nhà, vứt áo choàng đẫm nước của mình trong đại sảnh, và leo lên cầu thang rồi vào giường.
Khi Brand thức giấc, ánh nắng mặt trời đã tràn ngập phòng ngủ của chàng. Ý nghĩ đầu tiên đến với chàng là trời đã ngừng mưa. Ý nghĩ thứ nhì là chàng cần nhớ rằng nhà của ông ngoại không có những chiếc giường lông mềm mại, chỉ có những tấm nệm mà cảm giác như thể chúng đã được nhồi bằng gạch. Trên thực tế, chúng đã được nhồi bằng lông ngựa.
Vừa ngáp vừa rên rỉ, chàng lăn xuống giường và dùng một chút thời gian để làm giãn những cơ bắp đang đau nhức của mình. Chàng đã ngủ trong bộ quần áo hôm qua và chàng không dám chắc rằng cái mùi hôi khai đến từ con ngựa chàng cưỡi hay là từ tấm nệm, hay từ bản thân. May mắn thay, chàng luôn giữ rất nhiều quần áo trong tủ xếp và tủ treo, quần áo của một nông dân không bao giờ hợp hay lỗi mốt.
Chàng thấy lò sưởi đã được đốt lên và chuyện ấy đã cho chàng hy vọng. Đến bên sợi dây chuông, chàng kéo một cái thật mạnh. Niềm hy vọng của chàng đã trở thành sự thật trong vài phút khi một cậu bé với tóc vàng rối bời khoảng mười hai tuổi bước vào buồng của chàng.
“Tên của cậu là-?” Brand hỏi.
“Sam,” cậu bé đáp. “Sam Ludlow.”
Brand nhớ mẹ của Sam rất rõ ràng. Bà ấy là đầu bếp của Edwina cũng như là một người-giúp-việc-toàn-diện. Hơn thế nữa, bà là một trong những người mà chàng muốn thẩm vấn trong cuộc hành trình bất ngờ này. Bà chính là người đã tìm thấy thi hài của Edwina. Có lẽ bà ấy biết nhiều hơn bà tưởng - nếu thật sự là có nhiều chuyện hơn để biết.
“Có cách nào cho tôi được tắm vào buổi sáng hôm nay không?” chàng hỏi cậu bé.
Sam mỉm cười. “Mẹ tôi đã bảo tôi ông sẽ nói thế, do đó, điều đầu tiên mẹ đã làm khi chúng tôi đến là nhúm lửa nấu nước.”
“Tuyệt vời”, Brand xoa tay nói.
Chưa đầy một giờ sau chàng đã tắm xong và thay quần áo, Brand bước vào bếp và cảm thấy đã trở lại bình thường. Bà Ludlow thì y như gì hầu hết mọi phụ nữ nông thôn: ngay khi bà nghe tiếng chân người đàn ông tại cửa, bà đã để sẵn phần ăn của chàng trên bàn.
“Ông sẽ phải ăn trong nhà bếp, thưa ông,” bà nói, chất món trứng rán đầy vun trên đĩa của chàng. “Tôi chưa kịp đốt lò sưởi trong các phòng khác.”
“Nhà bếp cũng được,” Brand quả quyết với bà. “Và đừng bận tâm đốt lò sưởi làm gì. Tôi sẽ ra ra vào vào khá nhiều.”
Chàng hầu như ngồi chưa ấm chỗ thì đĩa thức ăn đã được đặt trước mặt chàng - thịt cừu lạnh, thận, và trứng chiên xốp. Tiếp đến là bánh mì nướng với một bát mứt marmalade [mứt trét bánh mì với được ngâm với trái cây và một ít vỏ trái cây]. Chàng đợi cho đến khi bà ấy rót cà phê trước khi chàng mời bà ngồi với chàng.
“Để nói về nhiệm vụ của bà ở đây,” chàng nói.
Bà mỉm cười và lắc đầu. “Tôi chỉ giúp một tay cho đến khi người của ông đến đây. Ông thấy đấy, tôi đã có một chân công việc. Tôi sẽ làm việc cho tiểu thư Marion lên ở ngôi nhà nông thôn kia.”
“Ah. Tôi lẽ ra nên sớm biết. Tất cả như nhau, hãy ngồi xuống và bầu bạn với tôi một hồi đã.”
Bà nhìn chàng như thể chàng đã mất trí. Hạ nhân đâu thể bầu bạn với chủ nhân của họ.
Chàng trao cho bà một nụ cười quyến rũ nhất. “Tôi không bao giờ có cơ hội để nói với bà là Edwina cảm kích bà bao nhiêu vì những điều bà đã làm cho bà ấy. Bà ấy không bao giờ ngừng ca ngợi về bà.” Và đó là sự thật.
Bà đã khuất phục và sau đó ngồi vào chiếc ghế mà chàng đã chỉ định, đôi tay nhám rô khẽ đan lại trên đùi. Tổ tiên người Xen-to [Celtic] của bà đã được biểu hiện qua mái tóc đen tuyền của bà và đôi gò má thật cao [xương thật tốt]. Chàng đánh giá bà đang ở độ tuổi bốn mươi. Rõ ràng, cậu bé kia đã được thừa hưởng ngoại hình từ người cha.
Chàng đã nhớ lại, lúc đó, bà là một góa phụ. Còn có những đứa con khác ngoài Sam, những đứa con còn nhỏ tuổi hơn, được bà ngoại chúng chăm sóc trong khi bà Ludlow làm việc để chu cấp cho chúng. Sự tôn trọng của chàng đối với người phụ nữ này tăng thêm vài phần.
Bà đang nhìn chàng chờ đợi.
Dẫn dắt câu chuyện một cách nhẹ nhàng, chàng nói: “Bà đã làm việc với Cô Gunn được bao lâu rồi?”
“Không lâu lắm. Năm năm, sau khi tôi trở thành một góa phụ và mẹ tôi đã đến sống với chúng tôi.” Bóng dáng của một nụ cười hiện lên vành môi. “Cô Gunn luôn luôn nhớ ngày sinh nhật của lũ trẻ.”
“Đúng là phong cách của Edwina.”
Bà gật đầu. “Bà ấy luôn luôn thật tử tế, và thật rộng rãi.”
Chàng để một thoáng im lặng trôi qua và nhai miếng thịt cừu lạnh. Chàng tiếp tục một cách cẩn thận: “Tôi nghe nói rằng bà đã không dễ dàng để trải qua những tuần cuối cùng ấy. Ý của tôi là, bà ấy đã trở thành hay đãng trí và thường nghi ngờ bạn bè của mình.”Anh dừng lại khi nhìn thấy bà ấy đã sừng sộ xù bộ lông [nhím].
Lúc này chẳng còn chút nhũn nhặn hoặc tôn trọng nào trong giọng nói của bà khi bà nói. “Ông có bao giờ đã quên nơi để kính hoặc chìa khóa của ông không, Ông Hamilton? Ông có luôn nhớ tên của mọi người? Bà ấy đã không đãng trí so với bất cứ người nào, nhưng-” Bà cắn nhẹ xuống làn môi như thể bà vừa nhớ một cách muộn màng rằng bà đang nói chuyện với ai.
“Nhưng?” Brand cổ vũ bà vẫn cùng một giọng từ tốn.
Bà trút một tiếng thở dài. “Bà ấy bị phiền não về chuyện trong quá khứ, về em gái của bà, cô Hannah. Bà muốn biết những gì đã xảy ra với cô Hannah.”
“Mọi người đều tin rằng cô ta đã bỏ trốn theo trai.”
“Cô Gunn nói rằng đó là một lời nói dối và bà sẽ chứng thật điều đó.”
“Ai đã nói với bà ấy đấy là một lời nói dối?”
“Bà ấy đã không kể với tôi, và tôi đã không ép bà. Chính vì nó không phải là chuyện tôi nên xía vô, phải không? Bà ấy là cô chủ của tôi.”
“Cô Gunn đã nghĩ rằng chuyện gì đã xảy ra với cô Hannah?”
Mắt bà liếc ra cửa như thể hy vọng sẽ có người nào tiến vào để chấm dứt cuộc phỏng vấn này.
Cuối cùng, bà nói: “Bà ấy không nói.”
Chàng không muốn làm bà cảnh giác bằng cách liên tục đặt câu hỏi, nhưng chàng không tìm hiểu thêm được điều gì, ngoại trừ bà Ludlow không tin Edwina đã trở nên lú lẫn hay là suy yếu vì tuổi già. Bà ấy có lẽ đang cố bảo vệ người chủ nhân đã luôn luôn đối xử tốt với bà, nhưng Brand đã không nghĩ rằng đó là điều có khả năng. Sự phẫn nộ của bà thay cho Edwina có vẻ quá chân thành.
Chàng uống một ngụm cà phê trước khi tiếp tục một cách cẩn thận: “Bà đã không tiết lộ bất cứ chuyện đời tư nào, bà Ludlow. Edwina đã nói với tôi tất cả những điều này trong một lá thư bà ấy viết. Và tôi sẽ phải nói rằng bà ta có vẻ rất tỉnh táo [không điên rồ] như là bà hoặc là tôi.”
“Bà ấy đã viết thư cho ông?”
Chàng gật đầu.
“Chuyện này xảy ra khi nào?”
“Một vài tuần trước vụ tai nạn. Tôi đã đi công tác ngoài thành và đã không nhận được thư của bà cho đến khi sau tang lễ. Sao bà lại hỏi chuyện này?”
Niềm phấn kích chết lặng trong mắt bà. “Khi tôi tìm thấy bà ấy ở chân cầu thang, có những vết mực trên ngón tay của bà ta, nhưng không một ai trong nhóm cảnh sát cũng như tôi đã tìm thấy lá thư hay bất cứ thứ gì mà bà ấy có thể đã viết.”
Bây giờ thì đó là một điều mới mẽ, và là một dấu hiệu đầu tiên của một sự bất thường. “Chỉ còn một câu hỏi nữa,” chàng nói. Khi bà lo lắng nhìn chàng, chàng do dự. Chàng không muốn gây ra cảm giác lo sợ cho bà. Chàng muốn lấy được lòng tin của bà để bà tự tâm sự với chàng. Sẽ còn có cơ hội khác để nói chuyện với bà ấy.
Để đổi hướng của câu chuyện, chàng nói: “Làm thế nào mà bà có khiến những quả trứng được xốp như thế?”
***
Khi chàng lê bước lên cái dốc đứng để đến nhà mình, Brand không khỏi tự ngẫm nghĩ về hoàn cảnh của mình. Khi chàng đã đủ tuổi để ra ngoài tự lực cánh sinh, chàng liền rời khỏi ngôi nhà Priory và thề sẽ không bao giờ trở lại nữa. Mọi thứ đã không được tiến triển như dự kiến.
Ngay cả trong cái chết, cha của chàng cũng đã cố có lời nói cuối cùng [cho một cuộc cãi vã]. Bằng các điều khoản trong di chúc cuối của vị công tước, ông đã chỉ định Brand là người uỷ thác duy nhất để trông nom mấy anh chị em cùng cha khác mẹ của chàng. Mọi người đều nghĩ chàng sẽ thoái thác và chuyển trách nhiệm ấy cho người chú của mình, Ngài Robert. Chàng đã không làm vậy.
Ngài Robert đã không có hứng thú hoặc tài năng để quản lý sự vụ của Andrew, nhưng Brand có, và chàng đã quyết tâm để giúp người anh em cùng cha khác mẹ của mình xứng đáng với tài sản to tát của cậu ta.
Khi người quản gia mở cánh cửa trước và đưa chàng vào Đại Sảnh Đường, Brand cảm thấy như thể thời gian bị lùi lại. Khi còn là một cậu bé, chàng đã tưởng tượng ông Hartley vào khoảng tám mươi tuổi. Ông ấy đã không thay đổi chút nào. Cũng như Đại Sảnh Đường. Những bức thảm trang trí vô giá tô điểm cho tường của đại sảnh, cùng một bộ giáp hiệp sĩ ngồi trên lưng con ngựa chiến nhồi bông.
“Cậu nhìn rất khỏe, thưa cậu,” Hartley quan sát chàng với một nụ cười uể oải, sau đó thông báo với chàng rằng nhóm phụ nữ đang ăn sáng trong phòng gia đình.
“Chỉ có nhóm phụ nữ?” Brand hỏi.
Hartley gật đầu. “Ngài Robert và Phu nhân Theodora, tôi tin rằng, đã đến thăm bạn bè ở Windsor. Phu nhân đã để mắt đến một con ngựa cái.”
Điều đó nghe có vẻ giống Theodora. Ngựa và săn bắn là những thú vui của đời bà. Bà không có con cái để thu hút sự quan tâm của mình từ chuyện theo đuổi những con ngựa, và không có chồng. Ngài Robert có thể đã đi hộ tống phu nhân ông ấy đến Windsor, nhưng một khi đến đó thì họ sẽ tách ra đường ai nấy đi.
“Và Ngài Công Tước?” [12] Brand hỏi, ám chỉ Andrew.
[12] Nguyên văn là His Grace: cách gọi theo lễ nghi.
Nụ cười của Hartley làm nhăn đôi gò má gầy của ông. “Ồ, cậu công tước trẻ đang ở cùng với người cai quản trang viện, tại trang trại.”
Đó là chính xác những gì Brand muốn được nghe. Tiền tài của gia tộc FitzAlans phụ thuộc vào đất đai và trang trại của họ. Đó là điều cần thiết để một công tước trẻ hiểu rõ tất cả mọi khía cạnh của trang viện của cậu ta và bất động sản của cậu ấy được quản lý ra sao.
Đây là mùa nuôi cừu, và việc buôn bán lông cừu rất là quan trọng đối với tài chính của trang viện. Với sự giúp đỡ của Ông Terrance, người cai quản trang viện mà đích tay Brand đã chọn, quá trình huấn luyện Andrew mới vừa khởi đầu.
“Không cần phải thông báo dùm tôi,” chàng nói với Hartley, và chàng đi qua đại sảnh lát đá đi về cánh khu Tây của ngôi nhà.
Khi chàng bước vào phòng gia đình, chàng dừng lại và nhìn lướt qua quang cảnh. Công tước phu nhân, bà nội của chàng, ngồi ở đầu bàn, trông có vẻ trang nghiêm như chàng đã từng nhìn thấy bà trong bộ thời trang của thời đại cổ xưa. Không như các nữ công tước với vòng eo cao và vải gạc mỏng manh của các nàng hiện đại.
Bên phải là người bầu bạn lâu năm của bà, Cô Cutter, người mà chàng đã đặt là Cô Flutter vì theo thói quen của bà, bà luôn tung tăng từ chủ đề này qua chủ đề khác trong một cuộc trò chuyện và để mọi người trong sự mơ hồ trong lúc bà ta nói chuyện.
Bên tủ búp phê thì cô em gái cùng ca khác mẹ của chàng, Clarice, ở tuổi giáp ba mươi, đẹp đẽ, với những đường nét đẹp đậm đà của gia tộc FitzAlan và hàng chân mày đậm và đáng sợ mà cô sử dụng với hiệu quả đáng gờm.
Ý chí đáng gờm đó của gia tộc FitzAlans được chia đều trong gia tộc, bao gồm cả bản thân chàng, vì vậy khi người gia tộc FitzAlans có tranh chấp, những người khôn ngoan sẽ chạy tìm chỗ trốn.
Bà nội của chàng nhìn thấy chàng trước tiên. Bà lên tiếng: “Ôi, đừng có đứng đó như một người hầu. Hãy vào đi, vào đi.”
Brand ngoan ngoãn đến bên phu nhân và hôn lên đôi má mỏng như giấy mà bà chìa cho chàng. “Thưa phu nhân,” chàng thì thầm với một sự tôn trọng pha nhiễm một chút châm biếm. Họ đều biết chàng là một thành viên đảng cộng hòa từ trong máu.
“Cháu ngày càng nhìn giống cha cháu hơn,” phu nhân nói.
Ánh mắt của họ chạm nhau. Nó khiến chàng vô cùng ngạc nhiên vì chàng thật sự yêu thích bà già độc ác này, người đã ban cho chàng một thời niên thiếu gian nan. Tuổi tác, rõ ràng, đã khiến chàng mềm lòng.
“Nhận đòn,” [13] chàng thì thào, chấp nhận cú đánh, và thái hậu phát ra một tiếng cười giòn khe khẽ.
[13] Nguyên văn là Touché: biểu thức được sử dụng để nhận một lời nhận xét hoặc là để chỉ đã bị chạm trúng trong khi đấu kiếm.
Clarice đã ngồi xuống. Cô ta lên tiếng: “Sao, kẻ hoang đàng đã trở lại. Chuyện gì đã khiến chúng tôi có được vinh dự này?”
“Chào buổi sáng với em luôn, Clarice,” chàng đáp lời chào một cách vui vẻ, sau đó chào Cô Cutter.
Cô Cutter, đang hậm hực với giọng nói không lễ phép của Clarice, nhanh chóng xen vào: “Không một chút hoang đàng nào, Phu nhân Clarice. Brand đã rời khỏi Priory và tạo nghiệp thành công, như Ông Lewis tốt bụng người làm chủ ngôi nhà của gia tộc Sayers. Ông không phải là một người địa phương, nhưng rất văn minh lễ phép. Họ nói rằng-”
Mệnh phụ phu nhân chiếm lấy quyền ra lệnh. “Lotty”, bà nói quả quyết: “cô làm ơn kéo chuông gọi Hartley và yêu cầu ông ta mang một bình trà mới pha nhé?”
“Vẫn còn trà trong bình,” Cô Cutter đáp.
“Như vậy cũng được rồi”, Brand nói.
Phu nhân gật đầu. Ánh mắt của bà chuyển sang Brand. “Này, chuyện cả nhà nghe nói cháu dấn thân vào lĩnh vực chính trị là thế nào vậy? Hãy ngồi xuống kể với bà mọi thứ.”
Phu nhân, như chàng biết quá rõ, có cách riêng của mình trong việc tìm tòi mọi việc, nên chàng nói với bà một cách càng ngắn gọn càng tốt về những kế hoạch của chàng. Điều này nhen nhóm sự hứng thú nghiêm túc cho đến khi chàng nhắc đến việc chàng sẽ tân trang lại ngôi nhà của ông ngoại và sẽ định cư ở đó cho đến khi cuộc bầu cử kết thúc.
Bà nội chàng đã nghe nói đến chuyện xây lại ngôi nhà ra nhưng chưa nghe đến chuyện chàng có ý định ở đó một thời gian. “Priory có gì không ổn sao?” Bà đòi hỏi câu trả lời với một ánh mắt xuyên thấu.
Tách trà và đĩa để tách của chàng đã được đưa đến tận tay chàng, và Brand đã dành chút thời gian để xắp xếp trật tự suy nghĩ của mình trong khi chàng khuấy đều tách trà. Chàng không muốn ở lại Priory vì chàng thích làm chủ của căn nhà của mình, và ở đây đã có quá nhiều chủ nhân rồi.
“Cháu không muốn để mọi người bị bất tiện, thưa bà,” chàng đáp. “Có thể có các quý ông đến và đi vào mọi lúc trong ngày, họ dùng bữa vào những giờ bất thường. Cháu không phải là định thết tiệc, nhưng là xây dựng lại ngôi nhà để làm căn cứ của cháu với các đồng nghiệp. Chúng cháu muốn giành thắng lợi cuộc bầu cử.”
Clarice đột ngột cắt lời: “Ồ, làm ơn đi, tha cho chúng tôi những lời viện cớ. Anh có bao giờ nghĩ đến Priory như là nhà của anh hay là xem chúng tôi như là người nhà của anh đâu. Tại sao cha lại chọn anh làm người ủy thác với tiền nong của chúng tôi là một điều tôi không thể hiểu nổi.”
“Như vậy đủ rồi, Clarice,” bà công tước nói với một giọng khó nghe.
Brand nhìn cô em gái khác mẹ của mình và cảm thấy một cái nhói đau khó chịu, không phải với Clarice mà là với cha của chàng. Ông công tước đã nhét tất cả tiền của nàng trong một quỹ ủy thác [một loại ngân khoản được ủy thác thường là của gia tộc].
Cô ta và người phụ thuộc của cô có thể sống bằng thu nhập của ngân khoản ấy, nhưng số vốn thì được để dành cho thế hệ sau. Cô ấy không thể đâm thọc chỉ trích cựu công tước, nhưng người được ủy thác thì cô lại có toàn quyền.
Em rể của chàng đã dễ tính hơn. Oswald là một nhà nhân chủng học theo phong cách riêng cậu ta, có nghĩa là cậu ấy rất thích đi đào bới các nơi đổ nát cổ xưa, tìm các vật phẩm của những thời đại đã qua. Tiền không quan trọng với cậu ta, và cậu ấy vẫn sống hạnh phúc dù là phải sống trong một túp liều hay là trong lâu đài nguy nga của phu nhân cậu. Brand rất yêu thích Oswald.
Chàng nhẹ nhàng nói: “Anh đã không yêu cầu phải được làm người ủy thác với tài sản của em, nhưng bởi vì anh là người ủy thác, em chỉ cần có yêu cầu và anh chắc rằng sẽ có thể tìm được số tiền để trang trải các yêu cầu hợp lý.”
Nhấp nháy mắt, cô hỏi: “Anh là ai mà có thể phán xét những gì là hợp lý?” Cô đứng lên. Lòng ngực phập phồng run rẩy, cô tuyên bố: “Đây là một việc xúc phạm đến Oswald. Ồ, vâng, em biết những gì anh nghĩ về anh ấy và anh không thể nào lầm hơn.”
Một chút đắc thắng thấm vào giọng nói của cô. “Anh có thể cảm thấy hứng thú khi được biết anh ấy đang ở ngay Luân Đôn, đang đàm phán việc bán đi một trong những bản thảo của mình. Anh ấy dự kiến sẽ kiếm rất nhiều tiền qua vụ mua bán này.”
Phu nhân nói: “Bà thật không biết thi thơ lại được trả cao như thế.”
“Đó là một lịch sử, cuộc sống của Hannibal!” cô cháu gái của bà đã nhanh chóng bắt bẻ.
“Rất tốt, bà chắc như vậy.”
Cô Cutter, bao giờ vẫn là người hoà giải, lao ngay vào để dịu mọi thứ. Má cô căng phồng lên trong một nụ cười. “Tôi chắc chắn giá trị của nó không phải dùng tiền mà tính. Mà là một cảm giác thành tựu. Có bao nhiêu người có thể viết một cuốn sách chứ?”
Brand cẩn thận khuấy tách trà của mình, sau đó đặt tách và chiếc đĩa xuống.
“Em nghĩ -” Clarice nói, hơi thở của cô đang bình thường trở lại. Cô lắc đầu. “Không thể chịu đựng được!” Cuối cùng cô cũng đã thốt ra, rồi xông ra khỏi phòng.
Có một khoảng im lặng trầm lắng, sau đó phu nhân thở dài. “Nó nhớ Oswald. Bà mong muốn cậu ấy sẽ trở về nhà sớm. Nó đã khiến chúng tôi rất mỏi mệt. Tất cả như nhau, con bé cũng có lý. Andrew sẽ nắm quyền khi cậu ấy được hai mươi mốt tuổi. Giờ Clarice đã hai mươi bảy, và nó sẽ luôn là một người ngửa tay xin tiền.”
Sự kiên nhẫn của Brand đã mỏng dần. Chàng nói: “Hãy xem, Clarice không phải là một người ăn xin. Em ấy đã có nhiều tiền hơn là em ấy biết phải làm gì với chúng. Oswald lại là một trở ngại với sự nghiệp của bản thân cậu ta. Cậu ấy không muốn sống nhờ vào phu nhân mình.”
“Tôi thật ngưỡng mộ một người đàn ông có nguyên tắc”, Cô Cutter ấm áp nói. “Và tình yêu -”
Khi công tước phu nhân đưa tay lên Cô Cutter ngoan ngoãn im lặng lại. Phu nhân nói với giọng mệnh lệnh của bà: “Nếu cậu ấy có nguyên tắc, cậu ấy sẽ không có kết hôn Clarice ngay buổi đầu. Và đừng nói với tôi về tình yêu. Nó chính là cái thứ đã phá hỏng gia tộc này.” Ánh mặt đại bàng của bà kháo chặt trên người Brand. “Và chuyện này khiến bà nhớ đến tiểu thư Marion Dane. Những gì họ nói có phải là sự thật không? Cháu đã đính hôn với cô ta?”
Câu hỏi đến thật không chút bất ngờ nào. Bà nội của chàng có tai mắt ở khắp mọi nơi. “Không,” chàng nói thẳng thừng. “Đó không phải là sự thật. Cháu gặp cô ấy ở Luân Đôn khi cô ấy đang ở với bạn bè của đôi bên. Và bởi vì cô và chị em của cô là cháu gái của Edwina, cháu cảm thấy điều tối thiểu cháu có thể làm cho họ là dẫn họ đi đó đây cho biết, nhất là khi họ sẽ đến ở tại Yew Cottage và chúng ta sẽ được làm láng giềng.”
“Edwina Gunn!” phu nhân nói vẻ cộc cằn.
Bà nội của chàng đã không bao giờ chấp nhận hoặc hiểu mối quan hệ gần gũi của chàng với cô giáo cũ và chàng đã không bao giờ bận tâm giải thích gì về điều đó. Edwina đã nuông chiều chàng như một người mẹ. Cái khái niệm này quá là xa lạ đối với phu nhân. Bà không tin chuyện chiều chuộng trẻ con.
Trước khi cuộc đối thoại có thể thay đổi chiều hướng, chàng thản nhiên nói: “Edwina đã có một em gái khác, phải không? Hannah? Marion đã hỏi cháu về bà ấy”, và đó là chàng đã nói quá sự thật: “nhưng cháu không nhớ bà ấy gì cả. Bà có quen biết Hannah không, bà nội?”
“Không được thân mấy”, bà nội của chàng đáp. “Cô ấy là một nữ gia sư, phải vậy không?”
“Tôi nhớ cô ấy”, Cô Cutter nói. “Cô ấy lúc xưa thường dẫn con chó nhỏ thả bộ trong công viên nhà mình.” Chân mày của cô ta nhăn lại. “Tôi nghe nói rằng cô ấy là một cô gái cứng đầu và là một thử thách to tát với Cô Gunn.”
“Về phương diện nào vậy?”
Cô Cutter ngây người nhìn chàng. “Tôi không nhớ.”
Chàng nuốt một tiếng thở dài. Tiếp tục hỏi Cô Cutter tiếp cũng chẳng có kết quả. Chàng nhẹ nhàng nói: “Chuyện gì đã xảy ra với Hannah? Bà ấy giờ đang ở đâu?”
Phu nhân cho biết: “Bà đoán là cô ta đã tìm được một chức vị ở một nơi khác. Cô ấy có thể đang hạnh phúc trong hôn nhân với một đám con cái của mình.”
Cô Cutter lên tiếng: “Không, cô ta đã bỏ nhà theo trai. Tôi chắc rằng tôi đã nghe nói rằng cô ta đã theo trai. Ôi trời.” Mặt của Cô Cutter nhăn nhó. “Hay đó là Mary Streatham? Nó xảy ra quá lâu rồi. Tôi lại trở nên lú lẫn nữa rồi?”
“Không,” bà thái hậu khẳng định chắc chắn. “Khi chúng ta lớn tuổi hơn, chúng ta có nhiều việc để quên hơn, chỉ vậy thôi. Nào, hồi nảy chúng ta đã nói tới đâu trước khi Brand đã đến? Ồ, đúng. Cô sẽ đi nói với đầu bếp rằng sẽ có chỉ ba người dùng bữa trưa, trừ khi... “Bà nhìn Brand với một câu hỏi.
“Cảm ơn bà, nhưng cháu còn có việc cần làm tại căn nhà Grange,” chàng nói. “Nhưng cháu sẽ đòi bà dành lời mời ấy cho một ngày khác.”
“Cháu không cần một lời mời,” bà thái hậu vặn lại, sau đó bà nói thêm với một nụ cười tự mãn: “nhưng nên mời tiểu thư Marion và các em của cô ấy. Bà muốn được gặp họ. Hãy đi đi, Lotty. Hãy nhớ rằng, chỉ có ba người dùng bữa trưa.”
Cô Cutter xin phép và rời phòng.
Ngay khi cánh cửa đóng lại, nụ cười của thái hậu biến mất. Bà im lặng đôi lát, sau đó lòng nặng trĩu nói: “Không có chuyện gì gọi là già đi một cách duyên dáng, và đừng để cho người khác nói với cháu như thế. Mọi thứ đều phai mờ - vẻ đẹp, sức khỏe, khẩu vị - nhưng cái phiền não chúng tôi sợ nhất là sự mất đi đầu óc linh hoạt.”
Lời phát ngôn nho nhỏ này khiến Brand rất đỗi bất ngờ. Chàng chưa bao giờ thấy bà nội lại trông rất dễ bị tổn thương như thế. ‘Bà lão đanh thép’, chàng và Clarice đã gọi bà như thế khi họ còn là trẻ thơ. Mọi người đều bị bà khủng bố, ngoại trừ người bầu bạn trung thành của bà.
Cuối cùng chàng đã nói: “Họ nói với cháu rằng tâm trí của Edwina cũng đã bắt đầu lang thang đây đó.”
Tất cả các dấu vết của tính cánh dễ tổn thương biến mất và biểu hiện của bà trở lại kiên quyết và lanh lợi hơn bao giờ hết.
“Tầm bậy”, bà tuyên bố. “Khi bà nói chuyện với bà ấy sau khi nghe giảng kinh tại nhà thờ, bà ta vẫn lý sự hơn bao giờ hết. Nếu bà nói điều gì đó là đen, thì bà ta đã chắc chắn nói nó là trắng. Đây không phải là lần đầu tiên cháu thử bà về trạng thái của Cô Gunn. Bà đã nói với cháu tại đám tang của bà ấy và bà sẽ nói lại một lần nữa: bà ta vẫn còn miệng lưỡi và lập dị như bao giờ. Chuyện gì đang xảy ra vậy, cháu Brand?”
“Không có gì,” chàng nhẹ nhàng đáp: “không có gì cả.”
Bà trỏ ngón tay vào người chàng. “Và đừng có đi quấy rầy Lotty bởi đặt những câu hỏi mà cô ấy không thể trả lời. Nó chỉ khiến cô ta càng thêm bối rối.”
“Cháu có mơ cũng không dám.”
Khi Cô Cutter trở lại phòng gia đình thì Brand đã rời đi và phu nhân đang ngồi đấy một mình. Khi phu nhân nhìn lên, gò má của Cô Cutter hồng lên.
“Hãy đến ngồi xuống đây, Lotty,” phu nhân nói một cách dễ chịu: “và hãy xem chúng ta có thể lý giải thế nào về chuyện này.”
Cô Cutter ngồi vào bàn. “Lần này tôi không phải lẫn lộn đâu,” bà nói nghiêm túc. “Tôi đã nghĩ kỹ lại và tôi thực sự nhớ rằng Hannah Gunn đã theo trai.”
“Đó chính là điều tôi muốn nói với cô.” Một khoảnh khắc trôi qua, sau đó phu nhân nói: “Tất nhiên, nếu ai đó hỏi cô về Hannah, cô phải nói rằng cô còn nhớ cô ấy, nhưng không cần thêm mắm thêm muối về những ký ức của cô. Đó là rắc rối khi chúng ta già đến ngần này. Khi chúng ta lãng trí, trí tưởng tượng của chúng ta sẽ lấp đầy chỗ trống.”
Cô Cutter nhìn một cách kiềm chế. “Bà không thế”, cô nói. “Tâm trí của bà vẫn sắc như dao. Mọi người đều nói như vậy. Và tôi không nghĩ tôi tạo dựng câu chuyện. Nhưng... tôi biết tôi bị lẫn lộn.”
Phu nhân gật đầu thông cảm. “Là chuyện thường thôi, Lotty. Đừng lo lắng về chuyện ấy. Chỉ cần cẩn thận. Hãy uống lưỡi trước khi cô nói. Tôi nghĩ rằng tiểu thư Marion có thể sẽ cố gắng tìm Hannah, và chúng ta sẽ không tạo ra hy vọng hão huyền, phải không nào?”
Bây giờ Cô Cutter đã có vẻ thực sự lo lắng. “Nhưng tôi thật không biết gì,” bà thốt lên.
“Tất nhiên, cô không biết. Và tôi cũng không biết.”
Họ im lặng khi một người hầu tiến vào để dọn bàn. Phu nhân nhìn vào người bầu bạn của mình với một cảm giác lẫn lộn vừa thương hại lại vừa yêu mến. Họ đã được ở bên nhau kể từ khi họ là những cô gái ở tuổi dậy thì, lần đầu tiên khi Lotty đến sống với cha mẹ của Phu nhân, và sau đó, khi Phu nhân kết hôn.
Lúc đó họ có một vài điểm giống nhau, ngoại trừ việc họ có liên quan máu mủ. Lotty là một cô gái nhút nhát, ngay cả cái bóng của mình cũng sợ, trong khi Phu nhân thì lại có một chút quá cứng đầu để cha mẹ của bà được thoải mái. Bây giờ họ chậm chạp cùng nhau, lặng lẽ cống hiến vì nhau, trong một sự tồn tại có phần nào phẳng lặng và không có sự cố gì.
Phu nhân thở dài. Bà hy vọng sự cố trong quá khứ sẽ không đuổi kịp họ và phá vỡ thế giới nhỏ bé của họ.
Brand đã dành một buổi tối thú vị tại quán Hồ Ly và Chó Săn. Vào cuối ngày làm việc, đó là nơi mà hầu hết người dân địa phương tụ họp để trao đổi tin tức và gặp mặt hàng xóm láng giềng của mình trước khi về nhà với các bà vợ và gia đình của họ. Cả hai ông thẩm phán và viên cảnh sát đều có mặt, nhưng họ thấy không có gì đen tối trong những vết mực trên ngón tay của Edwina.
Bà ấy có thể đã viết một lá thư và ném nó vào lò lửa vì một số lý do nào đó. Họ đã nghe nói rằng Edwina đã có những hành động lạ mấy tuần trước khi tai nạn xảy ra, nhưng không ai trong họ có bằng chứng trực tiếp về chuyện ấy. Tên của Hannah chỉ mang đến một phản ứng nhẹ. Có vẻ như không một ai nhớ rõ về cô ấy.
Khi chàng thay quần áo chuẩn bị đi ngủ, suy nghĩ của chàng quay lại lá thư của Edwina và hoài nghi của mình khi chàng đọc nó lần đầu, một hoài nghi dựa trên những tin đồn mà chàng đã nghe về sự suy giảm khả năng trí tuệ của bà.
Buổi tiếp tân sau tang lễ đã diễn ra tại nhà của cha xứ, đó chính là nơi mà lần đầu Brand nghe nói rằng Edwina đã có chút quái lạ. Bà đã trở thành một người ẩn dật, và nghi ngờ những người hàng xóm của bà. Bà vẫn tham dự lễ nhà thờ, nhưng đã không nán lại để nói chuyện với bạn bè hoặc người quen.
Tất cả điều này chàng đã nghe từ cha xứ nên, tự nhiên, chàng đã tin, nhưng những người khác đã tô điểm thêm câu chuyện khi họ đến nói lời chia buồn, những phụ nữ trong làng mà chàng đã gặp tại các cửa hàng địa phương. Ấn tượng chàng thấy được từ họ là Edwina đã trở nên ngày càng suy yếu vì tuổi già.
Lúc ấy chính là lúc chàng đã nên nhắc đến chủ đề này với bà Ludlow, nhưng bà ấy đang sướt mướt và chàng lại không có cảm thấy có cấp bách gì. Và khi đó thì cũng còn vài tuần nữa cho đến khi lá thư của Edwina đến tay chàng. Chàng đã nhắc đến những tin đồn với bà nội của mình, và phản ứng của bà cũng vẫn như phản ứng của hôm nay, rằng Edwina Gunn vẫn còn cộc cằn hơn bao giờ hết.
Nếu có ai biết liệu Edwina đã trở thành lão suy hay không, thì đó chính là bà Ludlow. Chàng đã tin vào lời của bà hơn ai hết. Không phải là chàng nghĩ rằng cha xứ đã nói dối. Tất cả điều ông đã mô tả là một tâm trí bị xáo trộn, và không nghi ngờ rằng Edwina đã bị xáo trộn khi bà nghe rằng Hannah có thể đã bị sát hại.
Vậy ai đã bắt đầu những tin đồn này, và tại sao? Đây có phải là một nỗ lực cố ý của ai đó để khiến những lời của Edwina nói về chuyện mất tích của Hannah trở nên không đáng tin? Các tin đồn chắc chắn đã có hiệu lực với chàng.
Ý tưởng đó lại gợi lại trong tâm trí chàng về bà nội mình thêm một lần nữa. Chàng có ấn tượng rằng bà đã có thể nói với chàng thêm về Hannah Gunn nếu bà muốn. Bà đang dấu chàng chuyện gì đây?
Hình ảnh Hannah được hình thành trong tâm trí chàng đầy dãy mâu thuẫn: Cô là người em út trong ba chị em, một cô giáo, cứng đầu, một thử thách với Edwina và ngưỡng mộ bởi Marion. Tại Longbury thì mọi người đều cho rằng nàng đã bỏ nhà theo trai - hoặc đó là một tin đồn để khiến tất cả mọi người lạc lối?
Vậy thì bà ta [Hannah] đang ở nơi nào?
Khi chàng thổi tắt ngọn nến rồi leo lên giường, suy nghĩ của chàng quay về với Edwina và đến việc chàng đã nợ bà bao nhiêu ân tình. Để một cậu bé nhỏ không biết gì tự tìm thấy mình trong một cuộc lôi kéo giữa hai con người toàn năng, cha và ông ngoại của chàng, ngôi nhà nhỏ của bà đã cung cấp cho chàng một nơi trú ẩn an toàn. Điều duy nhất Edwina yêu cầu chàng hoàn đáp là giải đáp cái bí ẩn xung quanh sự mất tích của Hannah.
Chàng nói với màn thinh lặng xung quanh: “Con sẽ tìm cô ấy cho cô, Edwina, con thề đấy.”
Trang viện nằm trên một đỉnh đồi, và mặc dù Brand đã cưỡi ngựa hàng giờ trong mưa phùn triền miên, đôi mắt chàng nặng trĩu mệt nhọc, ánh mắt của chàng vẫn dán chặt không hề lay chuyển vào cái nóc nhà của ngôi Priory được khắc họa rõ nét tại chân trời.
Ngôi nhà của ông ngoại chàng, trang viện Grange, nằm đối diện trên con đường dẫn xuống mé sông. Vào thời huy hoàng của nó, trang viện Grange đã sử dụng làm một vựa lúa, trang trại, và là ngôi nhà của cha xứ trước khi một thương gia mua bán lông trừu tái thiết lại nó cho gia đình ông sinh sống.
Khi vận may của gia đình ấy bị suy sụp, đa phần đất đai đã được bán đi và ngôi nhà chính và những căn nhà phụ đã được truyền từ tay chủ này đến tay chủ khác cho đến khi được mua lại bởi gia tộc Hamilton. Grange là một trang viện khiêm tốn hai tầng xây bằng gạch nung nằm trong một khu đất rộng lớn, và một nơi cư trú phù hợp dù có phần nào đơn sơ cho người ông ngoại Thanh giáo của chàng.
Gần nhà là một dãy chuồng ngựa mà ông ngoại của chàng đã sử dụng rất ít ngoại trừ làm chỗ trú cho ngựa và xe ngựa của mình. Mặc dù chỉ vừa mới có chút ánh sáng bình minh, những cậu giữ ngựa mà Manley thuê đã tích cực làm việc, và Brand thật sự vui mừng khi để ngựa của chàng cho họ lo liệu. Sau đó, chàng lảo đảo tiến đến căn nhà, vứt áo choàng đẫm nước của mình trong đại sảnh, và leo lên cầu thang rồi vào giường.
Khi Brand thức giấc, ánh nắng mặt trời đã tràn ngập phòng ngủ của chàng. Ý nghĩ đầu tiên đến với chàng là trời đã ngừng mưa. Ý nghĩ thứ nhì là chàng cần nhớ rằng nhà của ông ngoại không có những chiếc giường lông mềm mại, chỉ có những tấm nệm mà cảm giác như thể chúng đã được nhồi bằng gạch. Trên thực tế, chúng đã được nhồi bằng lông ngựa.
Vừa ngáp vừa rên rỉ, chàng lăn xuống giường và dùng một chút thời gian để làm giãn những cơ bắp đang đau nhức của mình. Chàng đã ngủ trong bộ quần áo hôm qua và chàng không dám chắc rằng cái mùi hôi khai đến từ con ngựa chàng cưỡi hay là từ tấm nệm, hay từ bản thân. May mắn thay, chàng luôn giữ rất nhiều quần áo trong tủ xếp và tủ treo, quần áo của một nông dân không bao giờ hợp hay lỗi mốt.
Chàng thấy lò sưởi đã được đốt lên và chuyện ấy đã cho chàng hy vọng. Đến bên sợi dây chuông, chàng kéo một cái thật mạnh. Niềm hy vọng của chàng đã trở thành sự thật trong vài phút khi một cậu bé với tóc vàng rối bời khoảng mười hai tuổi bước vào buồng của chàng.
“Tên của cậu là-?” Brand hỏi.
“Sam,” cậu bé đáp. “Sam Ludlow.”
Brand nhớ mẹ của Sam rất rõ ràng. Bà ấy là đầu bếp của Edwina cũng như là một người-giúp-việc-toàn-diện. Hơn thế nữa, bà là một trong những người mà chàng muốn thẩm vấn trong cuộc hành trình bất ngờ này. Bà chính là người đã tìm thấy thi hài của Edwina. Có lẽ bà ấy biết nhiều hơn bà tưởng - nếu thật sự là có nhiều chuyện hơn để biết.
“Có cách nào cho tôi được tắm vào buổi sáng hôm nay không?” chàng hỏi cậu bé.
Sam mỉm cười. “Mẹ tôi đã bảo tôi ông sẽ nói thế, do đó, điều đầu tiên mẹ đã làm khi chúng tôi đến là nhúm lửa nấu nước.”
“Tuyệt vời”, Brand xoa tay nói.
Chưa đầy một giờ sau chàng đã tắm xong và thay quần áo, Brand bước vào bếp và cảm thấy đã trở lại bình thường. Bà Ludlow thì y như gì hầu hết mọi phụ nữ nông thôn: ngay khi bà nghe tiếng chân người đàn ông tại cửa, bà đã để sẵn phần ăn của chàng trên bàn.
“Ông sẽ phải ăn trong nhà bếp, thưa ông,” bà nói, chất món trứng rán đầy vun trên đĩa của chàng. “Tôi chưa kịp đốt lò sưởi trong các phòng khác.”
“Nhà bếp cũng được,” Brand quả quyết với bà. “Và đừng bận tâm đốt lò sưởi làm gì. Tôi sẽ ra ra vào vào khá nhiều.”
Chàng hầu như ngồi chưa ấm chỗ thì đĩa thức ăn đã được đặt trước mặt chàng - thịt cừu lạnh, thận, và trứng chiên xốp. Tiếp đến là bánh mì nướng với một bát mứt marmalade [mứt trét bánh mì với được ngâm với trái cây và một ít vỏ trái cây]. Chàng đợi cho đến khi bà ấy rót cà phê trước khi chàng mời bà ngồi với chàng.
“Để nói về nhiệm vụ của bà ở đây,” chàng nói.
Bà mỉm cười và lắc đầu. “Tôi chỉ giúp một tay cho đến khi người của ông đến đây. Ông thấy đấy, tôi đã có một chân công việc. Tôi sẽ làm việc cho tiểu thư Marion lên ở ngôi nhà nông thôn kia.”
“Ah. Tôi lẽ ra nên sớm biết. Tất cả như nhau, hãy ngồi xuống và bầu bạn với tôi một hồi đã.”
Bà nhìn chàng như thể chàng đã mất trí. Hạ nhân đâu thể bầu bạn với chủ nhân của họ.
Chàng trao cho bà một nụ cười quyến rũ nhất. “Tôi không bao giờ có cơ hội để nói với bà là Edwina cảm kích bà bao nhiêu vì những điều bà đã làm cho bà ấy. Bà ấy không bao giờ ngừng ca ngợi về bà.” Và đó là sự thật.
Bà đã khuất phục và sau đó ngồi vào chiếc ghế mà chàng đã chỉ định, đôi tay nhám rô khẽ đan lại trên đùi. Tổ tiên người Xen-to [Celtic] của bà đã được biểu hiện qua mái tóc đen tuyền của bà và đôi gò má thật cao [xương thật tốt]. Chàng đánh giá bà đang ở độ tuổi bốn mươi. Rõ ràng, cậu bé kia đã được thừa hưởng ngoại hình từ người cha.
Chàng đã nhớ lại, lúc đó, bà là một góa phụ. Còn có những đứa con khác ngoài Sam, những đứa con còn nhỏ tuổi hơn, được bà ngoại chúng chăm sóc trong khi bà Ludlow làm việc để chu cấp cho chúng. Sự tôn trọng của chàng đối với người phụ nữ này tăng thêm vài phần.
Bà đang nhìn chàng chờ đợi.
Dẫn dắt câu chuyện một cách nhẹ nhàng, chàng nói: “Bà đã làm việc với Cô Gunn được bao lâu rồi?”
“Không lâu lắm. Năm năm, sau khi tôi trở thành một góa phụ và mẹ tôi đã đến sống với chúng tôi.” Bóng dáng của một nụ cười hiện lên vành môi. “Cô Gunn luôn luôn nhớ ngày sinh nhật của lũ trẻ.”
“Đúng là phong cách của Edwina.”
Bà gật đầu. “Bà ấy luôn luôn thật tử tế, và thật rộng rãi.”
Chàng để một thoáng im lặng trôi qua và nhai miếng thịt cừu lạnh. Chàng tiếp tục một cách cẩn thận: “Tôi nghe nói rằng bà đã không dễ dàng để trải qua những tuần cuối cùng ấy. Ý của tôi là, bà ấy đã trở thành hay đãng trí và thường nghi ngờ bạn bè của mình.”Anh dừng lại khi nhìn thấy bà ấy đã sừng sộ xù bộ lông [nhím].
Lúc này chẳng còn chút nhũn nhặn hoặc tôn trọng nào trong giọng nói của bà khi bà nói. “Ông có bao giờ đã quên nơi để kính hoặc chìa khóa của ông không, Ông Hamilton? Ông có luôn nhớ tên của mọi người? Bà ấy đã không đãng trí so với bất cứ người nào, nhưng-” Bà cắn nhẹ xuống làn môi như thể bà vừa nhớ một cách muộn màng rằng bà đang nói chuyện với ai.
“Nhưng?” Brand cổ vũ bà vẫn cùng một giọng từ tốn.
Bà trút một tiếng thở dài. “Bà ấy bị phiền não về chuyện trong quá khứ, về em gái của bà, cô Hannah. Bà muốn biết những gì đã xảy ra với cô Hannah.”
“Mọi người đều tin rằng cô ta đã bỏ trốn theo trai.”
“Cô Gunn nói rằng đó là một lời nói dối và bà sẽ chứng thật điều đó.”
“Ai đã nói với bà ấy đấy là một lời nói dối?”
“Bà ấy đã không kể với tôi, và tôi đã không ép bà. Chính vì nó không phải là chuyện tôi nên xía vô, phải không? Bà ấy là cô chủ của tôi.”
“Cô Gunn đã nghĩ rằng chuyện gì đã xảy ra với cô Hannah?”
Mắt bà liếc ra cửa như thể hy vọng sẽ có người nào tiến vào để chấm dứt cuộc phỏng vấn này.
Cuối cùng, bà nói: “Bà ấy không nói.”
Chàng không muốn làm bà cảnh giác bằng cách liên tục đặt câu hỏi, nhưng chàng không tìm hiểu thêm được điều gì, ngoại trừ bà Ludlow không tin Edwina đã trở nên lú lẫn hay là suy yếu vì tuổi già. Bà ấy có lẽ đang cố bảo vệ người chủ nhân đã luôn luôn đối xử tốt với bà, nhưng Brand đã không nghĩ rằng đó là điều có khả năng. Sự phẫn nộ của bà thay cho Edwina có vẻ quá chân thành.
Chàng uống một ngụm cà phê trước khi tiếp tục một cách cẩn thận: “Bà đã không tiết lộ bất cứ chuyện đời tư nào, bà Ludlow. Edwina đã nói với tôi tất cả những điều này trong một lá thư bà ấy viết. Và tôi sẽ phải nói rằng bà ta có vẻ rất tỉnh táo [không điên rồ] như là bà hoặc là tôi.”
“Bà ấy đã viết thư cho ông?”
Chàng gật đầu.
“Chuyện này xảy ra khi nào?”
“Một vài tuần trước vụ tai nạn. Tôi đã đi công tác ngoài thành và đã không nhận được thư của bà cho đến khi sau tang lễ. Sao bà lại hỏi chuyện này?”
Niềm phấn kích chết lặng trong mắt bà. “Khi tôi tìm thấy bà ấy ở chân cầu thang, có những vết mực trên ngón tay của bà ta, nhưng không một ai trong nhóm cảnh sát cũng như tôi đã tìm thấy lá thư hay bất cứ thứ gì mà bà ấy có thể đã viết.”
Bây giờ thì đó là một điều mới mẽ, và là một dấu hiệu đầu tiên của một sự bất thường. “Chỉ còn một câu hỏi nữa,” chàng nói. Khi bà lo lắng nhìn chàng, chàng do dự. Chàng không muốn gây ra cảm giác lo sợ cho bà. Chàng muốn lấy được lòng tin của bà để bà tự tâm sự với chàng. Sẽ còn có cơ hội khác để nói chuyện với bà ấy.
Để đổi hướng của câu chuyện, chàng nói: “Làm thế nào mà bà có khiến những quả trứng được xốp như thế?”
***
Khi chàng lê bước lên cái dốc đứng để đến nhà mình, Brand không khỏi tự ngẫm nghĩ về hoàn cảnh của mình. Khi chàng đã đủ tuổi để ra ngoài tự lực cánh sinh, chàng liền rời khỏi ngôi nhà Priory và thề sẽ không bao giờ trở lại nữa. Mọi thứ đã không được tiến triển như dự kiến.
Ngay cả trong cái chết, cha của chàng cũng đã cố có lời nói cuối cùng [cho một cuộc cãi vã]. Bằng các điều khoản trong di chúc cuối của vị công tước, ông đã chỉ định Brand là người uỷ thác duy nhất để trông nom mấy anh chị em cùng cha khác mẹ của chàng. Mọi người đều nghĩ chàng sẽ thoái thác và chuyển trách nhiệm ấy cho người chú của mình, Ngài Robert. Chàng đã không làm vậy.
Ngài Robert đã không có hứng thú hoặc tài năng để quản lý sự vụ của Andrew, nhưng Brand có, và chàng đã quyết tâm để giúp người anh em cùng cha khác mẹ của mình xứng đáng với tài sản to tát của cậu ta.
Khi người quản gia mở cánh cửa trước và đưa chàng vào Đại Sảnh Đường, Brand cảm thấy như thể thời gian bị lùi lại. Khi còn là một cậu bé, chàng đã tưởng tượng ông Hartley vào khoảng tám mươi tuổi. Ông ấy đã không thay đổi chút nào. Cũng như Đại Sảnh Đường. Những bức thảm trang trí vô giá tô điểm cho tường của đại sảnh, cùng một bộ giáp hiệp sĩ ngồi trên lưng con ngựa chiến nhồi bông.
“Cậu nhìn rất khỏe, thưa cậu,” Hartley quan sát chàng với một nụ cười uể oải, sau đó thông báo với chàng rằng nhóm phụ nữ đang ăn sáng trong phòng gia đình.
“Chỉ có nhóm phụ nữ?” Brand hỏi.
Hartley gật đầu. “Ngài Robert và Phu nhân Theodora, tôi tin rằng, đã đến thăm bạn bè ở Windsor. Phu nhân đã để mắt đến một con ngựa cái.”
Điều đó nghe có vẻ giống Theodora. Ngựa và săn bắn là những thú vui của đời bà. Bà không có con cái để thu hút sự quan tâm của mình từ chuyện theo đuổi những con ngựa, và không có chồng. Ngài Robert có thể đã đi hộ tống phu nhân ông ấy đến Windsor, nhưng một khi đến đó thì họ sẽ tách ra đường ai nấy đi.
“Và Ngài Công Tước?” [12] Brand hỏi, ám chỉ Andrew.
[12] Nguyên văn là His Grace: cách gọi theo lễ nghi.
Nụ cười của Hartley làm nhăn đôi gò má gầy của ông. “Ồ, cậu công tước trẻ đang ở cùng với người cai quản trang viện, tại trang trại.”
Đó là chính xác những gì Brand muốn được nghe. Tiền tài của gia tộc FitzAlans phụ thuộc vào đất đai và trang trại của họ. Đó là điều cần thiết để một công tước trẻ hiểu rõ tất cả mọi khía cạnh của trang viện của cậu ta và bất động sản của cậu ấy được quản lý ra sao.
Đây là mùa nuôi cừu, và việc buôn bán lông cừu rất là quan trọng đối với tài chính của trang viện. Với sự giúp đỡ của Ông Terrance, người cai quản trang viện mà đích tay Brand đã chọn, quá trình huấn luyện Andrew mới vừa khởi đầu.
“Không cần phải thông báo dùm tôi,” chàng nói với Hartley, và chàng đi qua đại sảnh lát đá đi về cánh khu Tây của ngôi nhà.
Khi chàng bước vào phòng gia đình, chàng dừng lại và nhìn lướt qua quang cảnh. Công tước phu nhân, bà nội của chàng, ngồi ở đầu bàn, trông có vẻ trang nghiêm như chàng đã từng nhìn thấy bà trong bộ thời trang của thời đại cổ xưa. Không như các nữ công tước với vòng eo cao và vải gạc mỏng manh của các nàng hiện đại.
Bên phải là người bầu bạn lâu năm của bà, Cô Cutter, người mà chàng đã đặt là Cô Flutter vì theo thói quen của bà, bà luôn tung tăng từ chủ đề này qua chủ đề khác trong một cuộc trò chuyện và để mọi người trong sự mơ hồ trong lúc bà ta nói chuyện.
Bên tủ búp phê thì cô em gái cùng ca khác mẹ của chàng, Clarice, ở tuổi giáp ba mươi, đẹp đẽ, với những đường nét đẹp đậm đà của gia tộc FitzAlan và hàng chân mày đậm và đáng sợ mà cô sử dụng với hiệu quả đáng gờm.
Ý chí đáng gờm đó của gia tộc FitzAlans được chia đều trong gia tộc, bao gồm cả bản thân chàng, vì vậy khi người gia tộc FitzAlans có tranh chấp, những người khôn ngoan sẽ chạy tìm chỗ trốn.
Bà nội của chàng nhìn thấy chàng trước tiên. Bà lên tiếng: “Ôi, đừng có đứng đó như một người hầu. Hãy vào đi, vào đi.”
Brand ngoan ngoãn đến bên phu nhân và hôn lên đôi má mỏng như giấy mà bà chìa cho chàng. “Thưa phu nhân,” chàng thì thầm với một sự tôn trọng pha nhiễm một chút châm biếm. Họ đều biết chàng là một thành viên đảng cộng hòa từ trong máu.
“Cháu ngày càng nhìn giống cha cháu hơn,” phu nhân nói.
Ánh mắt của họ chạm nhau. Nó khiến chàng vô cùng ngạc nhiên vì chàng thật sự yêu thích bà già độc ác này, người đã ban cho chàng một thời niên thiếu gian nan. Tuổi tác, rõ ràng, đã khiến chàng mềm lòng.
“Nhận đòn,” [13] chàng thì thào, chấp nhận cú đánh, và thái hậu phát ra một tiếng cười giòn khe khẽ.
[13] Nguyên văn là Touché: biểu thức được sử dụng để nhận một lời nhận xét hoặc là để chỉ đã bị chạm trúng trong khi đấu kiếm.
Clarice đã ngồi xuống. Cô ta lên tiếng: “Sao, kẻ hoang đàng đã trở lại. Chuyện gì đã khiến chúng tôi có được vinh dự này?”
“Chào buổi sáng với em luôn, Clarice,” chàng đáp lời chào một cách vui vẻ, sau đó chào Cô Cutter.
Cô Cutter, đang hậm hực với giọng nói không lễ phép của Clarice, nhanh chóng xen vào: “Không một chút hoang đàng nào, Phu nhân Clarice. Brand đã rời khỏi Priory và tạo nghiệp thành công, như Ông Lewis tốt bụng người làm chủ ngôi nhà của gia tộc Sayers. Ông không phải là một người địa phương, nhưng rất văn minh lễ phép. Họ nói rằng-”
Mệnh phụ phu nhân chiếm lấy quyền ra lệnh. “Lotty”, bà nói quả quyết: “cô làm ơn kéo chuông gọi Hartley và yêu cầu ông ta mang một bình trà mới pha nhé?”
“Vẫn còn trà trong bình,” Cô Cutter đáp.
“Như vậy cũng được rồi”, Brand nói.
Phu nhân gật đầu. Ánh mắt của bà chuyển sang Brand. “Này, chuyện cả nhà nghe nói cháu dấn thân vào lĩnh vực chính trị là thế nào vậy? Hãy ngồi xuống kể với bà mọi thứ.”
Phu nhân, như chàng biết quá rõ, có cách riêng của mình trong việc tìm tòi mọi việc, nên chàng nói với bà một cách càng ngắn gọn càng tốt về những kế hoạch của chàng. Điều này nhen nhóm sự hứng thú nghiêm túc cho đến khi chàng nhắc đến việc chàng sẽ tân trang lại ngôi nhà của ông ngoại và sẽ định cư ở đó cho đến khi cuộc bầu cử kết thúc.
Bà nội chàng đã nghe nói đến chuyện xây lại ngôi nhà ra nhưng chưa nghe đến chuyện chàng có ý định ở đó một thời gian. “Priory có gì không ổn sao?” Bà đòi hỏi câu trả lời với một ánh mắt xuyên thấu.
Tách trà và đĩa để tách của chàng đã được đưa đến tận tay chàng, và Brand đã dành chút thời gian để xắp xếp trật tự suy nghĩ của mình trong khi chàng khuấy đều tách trà. Chàng không muốn ở lại Priory vì chàng thích làm chủ của căn nhà của mình, và ở đây đã có quá nhiều chủ nhân rồi.
“Cháu không muốn để mọi người bị bất tiện, thưa bà,” chàng đáp. “Có thể có các quý ông đến và đi vào mọi lúc trong ngày, họ dùng bữa vào những giờ bất thường. Cháu không phải là định thết tiệc, nhưng là xây dựng lại ngôi nhà để làm căn cứ của cháu với các đồng nghiệp. Chúng cháu muốn giành thắng lợi cuộc bầu cử.”
Clarice đột ngột cắt lời: “Ồ, làm ơn đi, tha cho chúng tôi những lời viện cớ. Anh có bao giờ nghĩ đến Priory như là nhà của anh hay là xem chúng tôi như là người nhà của anh đâu. Tại sao cha lại chọn anh làm người ủy thác với tiền nong của chúng tôi là một điều tôi không thể hiểu nổi.”
“Như vậy đủ rồi, Clarice,” bà công tước nói với một giọng khó nghe.
Brand nhìn cô em gái khác mẹ của mình và cảm thấy một cái nhói đau khó chịu, không phải với Clarice mà là với cha của chàng. Ông công tước đã nhét tất cả tiền của nàng trong một quỹ ủy thác [một loại ngân khoản được ủy thác thường là của gia tộc].
Cô ta và người phụ thuộc của cô có thể sống bằng thu nhập của ngân khoản ấy, nhưng số vốn thì được để dành cho thế hệ sau. Cô ấy không thể đâm thọc chỉ trích cựu công tước, nhưng người được ủy thác thì cô lại có toàn quyền.
Em rể của chàng đã dễ tính hơn. Oswald là một nhà nhân chủng học theo phong cách riêng cậu ta, có nghĩa là cậu ấy rất thích đi đào bới các nơi đổ nát cổ xưa, tìm các vật phẩm của những thời đại đã qua. Tiền không quan trọng với cậu ta, và cậu ấy vẫn sống hạnh phúc dù là phải sống trong một túp liều hay là trong lâu đài nguy nga của phu nhân cậu. Brand rất yêu thích Oswald.
Chàng nhẹ nhàng nói: “Anh đã không yêu cầu phải được làm người ủy thác với tài sản của em, nhưng bởi vì anh là người ủy thác, em chỉ cần có yêu cầu và anh chắc rằng sẽ có thể tìm được số tiền để trang trải các yêu cầu hợp lý.”
Nhấp nháy mắt, cô hỏi: “Anh là ai mà có thể phán xét những gì là hợp lý?” Cô đứng lên. Lòng ngực phập phồng run rẩy, cô tuyên bố: “Đây là một việc xúc phạm đến Oswald. Ồ, vâng, em biết những gì anh nghĩ về anh ấy và anh không thể nào lầm hơn.”
Một chút đắc thắng thấm vào giọng nói của cô. “Anh có thể cảm thấy hứng thú khi được biết anh ấy đang ở ngay Luân Đôn, đang đàm phán việc bán đi một trong những bản thảo của mình. Anh ấy dự kiến sẽ kiếm rất nhiều tiền qua vụ mua bán này.”
Phu nhân nói: “Bà thật không biết thi thơ lại được trả cao như thế.”
“Đó là một lịch sử, cuộc sống của Hannibal!” cô cháu gái của bà đã nhanh chóng bắt bẻ.
“Rất tốt, bà chắc như vậy.”
Cô Cutter, bao giờ vẫn là người hoà giải, lao ngay vào để dịu mọi thứ. Má cô căng phồng lên trong một nụ cười. “Tôi chắc chắn giá trị của nó không phải dùng tiền mà tính. Mà là một cảm giác thành tựu. Có bao nhiêu người có thể viết một cuốn sách chứ?”
Brand cẩn thận khuấy tách trà của mình, sau đó đặt tách và chiếc đĩa xuống.
“Em nghĩ -” Clarice nói, hơi thở của cô đang bình thường trở lại. Cô lắc đầu. “Không thể chịu đựng được!” Cuối cùng cô cũng đã thốt ra, rồi xông ra khỏi phòng.
Có một khoảng im lặng trầm lắng, sau đó phu nhân thở dài. “Nó nhớ Oswald. Bà mong muốn cậu ấy sẽ trở về nhà sớm. Nó đã khiến chúng tôi rất mỏi mệt. Tất cả như nhau, con bé cũng có lý. Andrew sẽ nắm quyền khi cậu ấy được hai mươi mốt tuổi. Giờ Clarice đã hai mươi bảy, và nó sẽ luôn là một người ngửa tay xin tiền.”
Sự kiên nhẫn của Brand đã mỏng dần. Chàng nói: “Hãy xem, Clarice không phải là một người ăn xin. Em ấy đã có nhiều tiền hơn là em ấy biết phải làm gì với chúng. Oswald lại là một trở ngại với sự nghiệp của bản thân cậu ta. Cậu ấy không muốn sống nhờ vào phu nhân mình.”
“Tôi thật ngưỡng mộ một người đàn ông có nguyên tắc”, Cô Cutter ấm áp nói. “Và tình yêu -”
Khi công tước phu nhân đưa tay lên Cô Cutter ngoan ngoãn im lặng lại. Phu nhân nói với giọng mệnh lệnh của bà: “Nếu cậu ấy có nguyên tắc, cậu ấy sẽ không có kết hôn Clarice ngay buổi đầu. Và đừng nói với tôi về tình yêu. Nó chính là cái thứ đã phá hỏng gia tộc này.” Ánh mặt đại bàng của bà kháo chặt trên người Brand. “Và chuyện này khiến bà nhớ đến tiểu thư Marion Dane. Những gì họ nói có phải là sự thật không? Cháu đã đính hôn với cô ta?”
Câu hỏi đến thật không chút bất ngờ nào. Bà nội của chàng có tai mắt ở khắp mọi nơi. “Không,” chàng nói thẳng thừng. “Đó không phải là sự thật. Cháu gặp cô ấy ở Luân Đôn khi cô ấy đang ở với bạn bè của đôi bên. Và bởi vì cô và chị em của cô là cháu gái của Edwina, cháu cảm thấy điều tối thiểu cháu có thể làm cho họ là dẫn họ đi đó đây cho biết, nhất là khi họ sẽ đến ở tại Yew Cottage và chúng ta sẽ được làm láng giềng.”
“Edwina Gunn!” phu nhân nói vẻ cộc cằn.
Bà nội của chàng đã không bao giờ chấp nhận hoặc hiểu mối quan hệ gần gũi của chàng với cô giáo cũ và chàng đã không bao giờ bận tâm giải thích gì về điều đó. Edwina đã nuông chiều chàng như một người mẹ. Cái khái niệm này quá là xa lạ đối với phu nhân. Bà không tin chuyện chiều chuộng trẻ con.
Trước khi cuộc đối thoại có thể thay đổi chiều hướng, chàng thản nhiên nói: “Edwina đã có một em gái khác, phải không? Hannah? Marion đã hỏi cháu về bà ấy”, và đó là chàng đã nói quá sự thật: “nhưng cháu không nhớ bà ấy gì cả. Bà có quen biết Hannah không, bà nội?”
“Không được thân mấy”, bà nội của chàng đáp. “Cô ấy là một nữ gia sư, phải vậy không?”
“Tôi nhớ cô ấy”, Cô Cutter nói. “Cô ấy lúc xưa thường dẫn con chó nhỏ thả bộ trong công viên nhà mình.” Chân mày của cô ta nhăn lại. “Tôi nghe nói rằng cô ấy là một cô gái cứng đầu và là một thử thách to tát với Cô Gunn.”
“Về phương diện nào vậy?”
Cô Cutter ngây người nhìn chàng. “Tôi không nhớ.”
Chàng nuốt một tiếng thở dài. Tiếp tục hỏi Cô Cutter tiếp cũng chẳng có kết quả. Chàng nhẹ nhàng nói: “Chuyện gì đã xảy ra với Hannah? Bà ấy giờ đang ở đâu?”
Phu nhân cho biết: “Bà đoán là cô ta đã tìm được một chức vị ở một nơi khác. Cô ấy có thể đang hạnh phúc trong hôn nhân với một đám con cái của mình.”
Cô Cutter lên tiếng: “Không, cô ta đã bỏ nhà theo trai. Tôi chắc rằng tôi đã nghe nói rằng cô ta đã theo trai. Ôi trời.” Mặt của Cô Cutter nhăn nhó. “Hay đó là Mary Streatham? Nó xảy ra quá lâu rồi. Tôi lại trở nên lú lẫn nữa rồi?”
“Không,” bà thái hậu khẳng định chắc chắn. “Khi chúng ta lớn tuổi hơn, chúng ta có nhiều việc để quên hơn, chỉ vậy thôi. Nào, hồi nảy chúng ta đã nói tới đâu trước khi Brand đã đến? Ồ, đúng. Cô sẽ đi nói với đầu bếp rằng sẽ có chỉ ba người dùng bữa trưa, trừ khi... “Bà nhìn Brand với một câu hỏi.
“Cảm ơn bà, nhưng cháu còn có việc cần làm tại căn nhà Grange,” chàng nói. “Nhưng cháu sẽ đòi bà dành lời mời ấy cho một ngày khác.”
“Cháu không cần một lời mời,” bà thái hậu vặn lại, sau đó bà nói thêm với một nụ cười tự mãn: “nhưng nên mời tiểu thư Marion và các em của cô ấy. Bà muốn được gặp họ. Hãy đi đi, Lotty. Hãy nhớ rằng, chỉ có ba người dùng bữa trưa.”
Cô Cutter xin phép và rời phòng.
Ngay khi cánh cửa đóng lại, nụ cười của thái hậu biến mất. Bà im lặng đôi lát, sau đó lòng nặng trĩu nói: “Không có chuyện gì gọi là già đi một cách duyên dáng, và đừng để cho người khác nói với cháu như thế. Mọi thứ đều phai mờ - vẻ đẹp, sức khỏe, khẩu vị - nhưng cái phiền não chúng tôi sợ nhất là sự mất đi đầu óc linh hoạt.”
Lời phát ngôn nho nhỏ này khiến Brand rất đỗi bất ngờ. Chàng chưa bao giờ thấy bà nội lại trông rất dễ bị tổn thương như thế. ‘Bà lão đanh thép’, chàng và Clarice đã gọi bà như thế khi họ còn là trẻ thơ. Mọi người đều bị bà khủng bố, ngoại trừ người bầu bạn trung thành của bà.
Cuối cùng chàng đã nói: “Họ nói với cháu rằng tâm trí của Edwina cũng đã bắt đầu lang thang đây đó.”
Tất cả các dấu vết của tính cánh dễ tổn thương biến mất và biểu hiện của bà trở lại kiên quyết và lanh lợi hơn bao giờ hết.
“Tầm bậy”, bà tuyên bố. “Khi bà nói chuyện với bà ấy sau khi nghe giảng kinh tại nhà thờ, bà ta vẫn lý sự hơn bao giờ hết. Nếu bà nói điều gì đó là đen, thì bà ta đã chắc chắn nói nó là trắng. Đây không phải là lần đầu tiên cháu thử bà về trạng thái của Cô Gunn. Bà đã nói với cháu tại đám tang của bà ấy và bà sẽ nói lại một lần nữa: bà ta vẫn còn miệng lưỡi và lập dị như bao giờ. Chuyện gì đang xảy ra vậy, cháu Brand?”
“Không có gì,” chàng nhẹ nhàng đáp: “không có gì cả.”
Bà trỏ ngón tay vào người chàng. “Và đừng có đi quấy rầy Lotty bởi đặt những câu hỏi mà cô ấy không thể trả lời. Nó chỉ khiến cô ta càng thêm bối rối.”
“Cháu có mơ cũng không dám.”
Khi Cô Cutter trở lại phòng gia đình thì Brand đã rời đi và phu nhân đang ngồi đấy một mình. Khi phu nhân nhìn lên, gò má của Cô Cutter hồng lên.
“Hãy đến ngồi xuống đây, Lotty,” phu nhân nói một cách dễ chịu: “và hãy xem chúng ta có thể lý giải thế nào về chuyện này.”
Cô Cutter ngồi vào bàn. “Lần này tôi không phải lẫn lộn đâu,” bà nói nghiêm túc. “Tôi đã nghĩ kỹ lại và tôi thực sự nhớ rằng Hannah Gunn đã theo trai.”
“Đó chính là điều tôi muốn nói với cô.” Một khoảnh khắc trôi qua, sau đó phu nhân nói: “Tất nhiên, nếu ai đó hỏi cô về Hannah, cô phải nói rằng cô còn nhớ cô ấy, nhưng không cần thêm mắm thêm muối về những ký ức của cô. Đó là rắc rối khi chúng ta già đến ngần này. Khi chúng ta lãng trí, trí tưởng tượng của chúng ta sẽ lấp đầy chỗ trống.”
Cô Cutter nhìn một cách kiềm chế. “Bà không thế”, cô nói. “Tâm trí của bà vẫn sắc như dao. Mọi người đều nói như vậy. Và tôi không nghĩ tôi tạo dựng câu chuyện. Nhưng... tôi biết tôi bị lẫn lộn.”
Phu nhân gật đầu thông cảm. “Là chuyện thường thôi, Lotty. Đừng lo lắng về chuyện ấy. Chỉ cần cẩn thận. Hãy uống lưỡi trước khi cô nói. Tôi nghĩ rằng tiểu thư Marion có thể sẽ cố gắng tìm Hannah, và chúng ta sẽ không tạo ra hy vọng hão huyền, phải không nào?”
Bây giờ Cô Cutter đã có vẻ thực sự lo lắng. “Nhưng tôi thật không biết gì,” bà thốt lên.
“Tất nhiên, cô không biết. Và tôi cũng không biết.”
Họ im lặng khi một người hầu tiến vào để dọn bàn. Phu nhân nhìn vào người bầu bạn của mình với một cảm giác lẫn lộn vừa thương hại lại vừa yêu mến. Họ đã được ở bên nhau kể từ khi họ là những cô gái ở tuổi dậy thì, lần đầu tiên khi Lotty đến sống với cha mẹ của Phu nhân, và sau đó, khi Phu nhân kết hôn.
Lúc đó họ có một vài điểm giống nhau, ngoại trừ việc họ có liên quan máu mủ. Lotty là một cô gái nhút nhát, ngay cả cái bóng của mình cũng sợ, trong khi Phu nhân thì lại có một chút quá cứng đầu để cha mẹ của bà được thoải mái. Bây giờ họ chậm chạp cùng nhau, lặng lẽ cống hiến vì nhau, trong một sự tồn tại có phần nào phẳng lặng và không có sự cố gì.
Phu nhân thở dài. Bà hy vọng sự cố trong quá khứ sẽ không đuổi kịp họ và phá vỡ thế giới nhỏ bé của họ.
Brand đã dành một buổi tối thú vị tại quán Hồ Ly và Chó Săn. Vào cuối ngày làm việc, đó là nơi mà hầu hết người dân địa phương tụ họp để trao đổi tin tức và gặp mặt hàng xóm láng giềng của mình trước khi về nhà với các bà vợ và gia đình của họ. Cả hai ông thẩm phán và viên cảnh sát đều có mặt, nhưng họ thấy không có gì đen tối trong những vết mực trên ngón tay của Edwina.
Bà ấy có thể đã viết một lá thư và ném nó vào lò lửa vì một số lý do nào đó. Họ đã nghe nói rằng Edwina đã có những hành động lạ mấy tuần trước khi tai nạn xảy ra, nhưng không ai trong họ có bằng chứng trực tiếp về chuyện ấy. Tên của Hannah chỉ mang đến một phản ứng nhẹ. Có vẻ như không một ai nhớ rõ về cô ấy.
Khi chàng thay quần áo chuẩn bị đi ngủ, suy nghĩ của chàng quay lại lá thư của Edwina và hoài nghi của mình khi chàng đọc nó lần đầu, một hoài nghi dựa trên những tin đồn mà chàng đã nghe về sự suy giảm khả năng trí tuệ của bà.
Buổi tiếp tân sau tang lễ đã diễn ra tại nhà của cha xứ, đó chính là nơi mà lần đầu Brand nghe nói rằng Edwina đã có chút quái lạ. Bà đã trở thành một người ẩn dật, và nghi ngờ những người hàng xóm của bà. Bà vẫn tham dự lễ nhà thờ, nhưng đã không nán lại để nói chuyện với bạn bè hoặc người quen.
Tất cả điều này chàng đã nghe từ cha xứ nên, tự nhiên, chàng đã tin, nhưng những người khác đã tô điểm thêm câu chuyện khi họ đến nói lời chia buồn, những phụ nữ trong làng mà chàng đã gặp tại các cửa hàng địa phương. Ấn tượng chàng thấy được từ họ là Edwina đã trở nên ngày càng suy yếu vì tuổi già.
Lúc ấy chính là lúc chàng đã nên nhắc đến chủ đề này với bà Ludlow, nhưng bà ấy đang sướt mướt và chàng lại không có cảm thấy có cấp bách gì. Và khi đó thì cũng còn vài tuần nữa cho đến khi lá thư của Edwina đến tay chàng. Chàng đã nhắc đến những tin đồn với bà nội của mình, và phản ứng của bà cũng vẫn như phản ứng của hôm nay, rằng Edwina Gunn vẫn còn cộc cằn hơn bao giờ hết.
Nếu có ai biết liệu Edwina đã trở thành lão suy hay không, thì đó chính là bà Ludlow. Chàng đã tin vào lời của bà hơn ai hết. Không phải là chàng nghĩ rằng cha xứ đã nói dối. Tất cả điều ông đã mô tả là một tâm trí bị xáo trộn, và không nghi ngờ rằng Edwina đã bị xáo trộn khi bà nghe rằng Hannah có thể đã bị sát hại.
Vậy ai đã bắt đầu những tin đồn này, và tại sao? Đây có phải là một nỗ lực cố ý của ai đó để khiến những lời của Edwina nói về chuyện mất tích của Hannah trở nên không đáng tin? Các tin đồn chắc chắn đã có hiệu lực với chàng.
Ý tưởng đó lại gợi lại trong tâm trí chàng về bà nội mình thêm một lần nữa. Chàng có ấn tượng rằng bà đã có thể nói với chàng thêm về Hannah Gunn nếu bà muốn. Bà đang dấu chàng chuyện gì đây?
Hình ảnh Hannah được hình thành trong tâm trí chàng đầy dãy mâu thuẫn: Cô là người em út trong ba chị em, một cô giáo, cứng đầu, một thử thách với Edwina và ngưỡng mộ bởi Marion. Tại Longbury thì mọi người đều cho rằng nàng đã bỏ nhà theo trai - hoặc đó là một tin đồn để khiến tất cả mọi người lạc lối?
Vậy thì bà ta [Hannah] đang ở nơi nào?
Khi chàng thổi tắt ngọn nến rồi leo lên giường, suy nghĩ của chàng quay về với Edwina và đến việc chàng đã nợ bà bao nhiêu ân tình. Để một cậu bé nhỏ không biết gì tự tìm thấy mình trong một cuộc lôi kéo giữa hai con người toàn năng, cha và ông ngoại của chàng, ngôi nhà nhỏ của bà đã cung cấp cho chàng một nơi trú ẩn an toàn. Điều duy nhất Edwina yêu cầu chàng hoàn đáp là giải đáp cái bí ẩn xung quanh sự mất tích của Hannah.
Chàng nói với màn thinh lặng xung quanh: “Con sẽ tìm cô ấy cho cô, Edwina, con thề đấy.”
Tác giả :
Elizabeth Thornton