Bạch Dạ Hành
Chương 4: Chương IV
1
Mưa không lớn đến mức cần giương ô, nhưng cũng âm thầm lặng lẽ làm ướt đầu tóc và quần áo. Mưa thu lất phất, tầng mây màu xám lại thi thoảng tách ra, để lộ bầu trời đêm. Ra khỏi ga Shitennoji, Nakamichi Masaharu ngẩng đầu nhìn trời, thầm nghĩ, cáo gả con gái đây. Mẹ đã dạy cho anh ta câu đó. Anh ta để một cái ô gấp trong tủ chứa đồ ở trường đại học, nhưng ra đến cổng mới nhớ ra, bèn từ bỏ luôn ý định quay lại lấy. Anh ta hơi vội. Chiếc đồng hồ thạch anh yêu quý đang chỉ bảy giờ năm phút, có nghĩa là anh ta đã muộn rồi, nhưng người anh ta muốn gặp hẳn sẽ không vì chuyện này mà bực bội. Anh ta vội vã, thuần túy là bởi muốn nhanh chóng đến nơi cần đến. Anh ta dùng tờ báo thể thao mua ở quầy bán lẻ trong nhà ga che mưa để khỏi ướt tóc. Mua báo thể thao vào ngày hôm sau khi đội bóng chày Yakult giành chiến thắng là thói quen của anh ta từ năm ngoái. Sống ở Tokyo đến cấp II nên anh ta là fan hâm mộ đội Yakult từ thời đội còn tên là Sankei Atoms chứ không phải Yakult Swallow. Đội Yakult năm ngoái dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Hirooka đã giành được ngôi quán quân như một kỳ tích. Giờ này năm ngoái, hầu như ngày nào cũng thấy tin tức về biểu hiện xuất sắc của các tuyển thủ đội Yakult. Thế nhưng, năm nay đội Yakult lại sụt giảm phong độ nghiêm trọng. Từ tháng Chín đến giờ, bọn họ luôn ở cuối bảng xếp hạng, bởi thế cơ hội để Masaharu mua báo thể thao đương nhiên cũng ít đi. Nên hôm nay anh ta mang báo theo người như thế này, có thể nói là may mắn.
Mấy phút sau, Masaharu đến nơi, ấn vào chiếc chuông cửa bên dưới tấm biển tên “Karasawa”.
Cánh cửa lưới mắt cáo ở tiền sảnh mở ra, Karasawa Reiko xuất hiện trong bộ váy liền màu tím, có thể vì chất vải mỏng manh, nên thân hình bà trông gầy yếu khác thường, khiến người ta thấy mà xót xa. Masaharu nghĩ, không biết bao giờ người phụ nữ chớm bước vào tuổi lão niên này mới lại mặc kimono. Hồi tháng Ba, khi anh ta lần đầu đến đây, bà mặc bộ kimono lụa màu xám sậm. Nhưng từ trước đợt mưa dầm, kimono liền đổi thành váy.
“Thầy giáo, thật xin lỗi thầy.” Vừa trông thấy Masaharu bà Reiko đã mở lời xin lỗi, “Vừa nãy Yukiho gọi điện thoại về bảo là phải chuẩn bị cho lễ hội văn hóa nên không dứt ra được, sẽ muộn mất khoảng nửa tiếng. Tôi đã bảo nó phải cố về cho nhanh rồi.”
“Vâng.” Masaharu thở phào, “Nghe bác nói vậy thì cháu yên tâm rồi. Cháu đã đi vội vì sợ đến muộn..”
“Thật sự rất xin lỗi thầy.” Ba Reiko cúi đầu.
“Vậy nên làm gì bây giờ nhỉ?” Masaharu nhìn đồng hồ, lẩm bẩm như nói với chính mình.
“Mời thầy vào trong đợi, để tôi chuẩn bị đồ uống lạnh.”
“Bác cứ mặc kệ cháu ạ.” Masaharu cúi đầu chào trước khi vào trong nhà.
Anh ta được dẫn vào phòng khách ở tầng một, nơi này vốn là phòng kiểu Nhật, nhưng lại bày ghế dựa bằng mây tre theo kiểu phương Tây. Anh ta mới chỉ vào gian phòng này một lần, khi tới đây lần đầu tiên.
Từ đó đến nay đã khoảng nửa năm trôi qua.
Người giới thiệu công việc gia sư này cho Masaharu là mẹ anh ta. Bà nghe nói cô giáo dạy trà đạo muốn tìm thầy dạy thêm môn Toán cho cô con gái sắp lên lớp mười một, liền giới thiệu ngay con trai mình. Cô giáo dạy trà đạo đó chính là Karasawa Reiko. Masaharu học ngành kỹ thuật ở trường đại học, từ thời cấp III đã hết sức tự tin với môn Toán của mình. Trên thực tế, cho tới mùa xuân năm nay, anh ta vẫn luôn dạy gia sư môn Toán và Lý cho một cậu học sinh cấp III. Nhưng cậu học sinh này đã thi đỗ đại học nên Masaharu cũng cần phải tìm một chỗ dạy kèm khác. Mẹ giới thiệu cho anh ta cơ hội này đúng là cầu được ước thấy. Masaharu rất biết ơn bà. Không phải vì công việc này đảm bảo thu nhập hàng tháng cho anh ta, mà việc đến nhà Karasawa mỗi thứ Ba hàng tuần khiến anh ta mong đợi không thôi. Anh ta ngồi trên ghế mây đợi, không lâu sau bà Reiko bưng khay để cốc thủy tinh đựng trà lúa mạch quay vào. Nhìn thấy trà lúa mạch, Masaharu thở phào nhẹ nhõm. Lần trước vào gian phòng này, chủ nhân tự ý bưng matcha lên, mà anh ta thì hoàn toàn không hiểu quy cách uống món trà ấy, lo đến nỗi mồ hôi lạnh đầm đìa cả người. Reiko ngồi xuống đối diện với anh ta, nói một tiếng “Mời thầy dùng”. Masaharu không khách khí cầm ngay cốc lên, cảm giác được dòng nước trà mát lạnh chảy qua cổ họng khát khô, thật dễ chịu.
“Bắt thầy chờ thế này thật ngại quá. Tôi nghĩ, chẳng qua chỉ là chuẩn bị cho lễ hội văn hóa thôi mà, Yukiho hoàn toàn có thể tìm cơ hội về trước.” Bà Reiko lại xin lỗi lần nữa. Dường như bà rất áy náy.
“Đâu có ạ, cháu không sao đâu. Xin bác đừng bận tâm. Với lại, các hoạt động cùng bạn bè cũng rất quan trọng mà.” Masaharu cố làm ra vẻ già dặn.
“Em nó cũng nói thế. Vả lại, nó nói việc chuẩn bị cho lễ hội văn hóa không phải hoạt động của lớp, mà là ở bên câu lạc bộ, vì vậy các chị lớp mười hai trông rất chặt, khó mà bỏ về trước được.”
“Ồ, ra vậy.” Masaharu nhớ ra, Yukiho đang tham gia câu lạc bộ Đàm thoại tiếng Anh ở trường. Anh ta cũng đã nghe cô nói mấy câu tiếng Anh. Không hổ là người đi học thêm lớp giao tiếp tiếng Anh từ cấp II, cô phát âm rất chuẩn. Anh ta vẫn còn nhớ cách cô uốn lưỡi phát âm mà bản thân không thể nào sánh được.
“Nếu là trường cấp III bình thường, có lẽ học sinh lớp mười hai không còn nhiệt tình với lễ hội văn hóa như thế đâu. Dù sao ở những trường như vậy, học sinh mới có thể nhàn nhã được. Thầy Nakamichi tốt nghiệp trường cấp III có tỷ lệ học sinh vào đại học cao nên lúc lên lớp mười hai, hẳn là chẳng ai có bụng nào mà lo đến lễ hội văn hóa đâu nhỉ?”
Nghe bà Reiko nói vậy, Masaharu cười cười xua tay. “Trường chúng cháu cũng có học sinh lớp mười hai bỏ nhiều công sức cho lễ hội văn hóa lắm. Chắc hẳn có không ít người coi đây là hoạt động giải lao ngoài những lúc chuẩn bị cho kỳ thi. Cháu cũng thế, sang đến mùa thu mà vẫn chưa tập trung vào học thi, hễ có hoạt động gì lập tức đến góp vui ngay.
“Ồ vậy à? Có điều, nhất định là vì thầy học xuất sắc rồi, nên mới có thể thoải mái như thế.”
“Đâu có ạ, làm gì có chuyện ấy, thật đấy ạ.” Masaharu không ngừng xua tay.
Karasawa Yukiho học ở trường nữ Seika, Masaharu nghe nói cô lên thẳng từ phân hiệu cấp II của Seika. Cô còn chuẩn bị lên thẳng luôn hệ đại học của trường này. Nếu thành tích những năm cấp III xuất sắc, cô chỉ cần thi vấn đáp là có thể vào trường đại học nữ Seika. Có điều, cánh cửa vào trường này cũng có thể thu hẹp lại tùy vào khoa cô muốn học. Yukiho muốn vào khoa Văn học Anh, một khoa có tỷ lệ cạnh tranh cao nhất. Để đảm bảo giành được cơ hội lên thẳng đại học, thành tích học tập của cô phải luôn đứng hàng đầu trong suốt cả năm. Hầu như tất cả các môn học của Yukiho đều có kết quả rất xuất sắc, chỉ riêng môn Toán là hơi yếu. Bà Reiko lo lắng vì điều này, nên mới nghĩ đến việc mời gia sư. Mong rằng có thể duy trì thành tích trong mấy hạng đầu cho đến học kỳ I năm lớp mười hai... Đó là mong muốn bà Reiko đưa ra trong lần gặp mặt đầu tiên. Vì kết quả học tập từ năm lớp mười cho đến học kỳ I năm lớp mười hai đều trở thành tài liệu tham khảo trong trường hợp vào học qua giới thiệu. “Nếu hồi đó tôi cứ để Yukiho học ở trường cấp II công lập như cũ thì có lẽ sang năm học ôn thi đại học càng vất vả hơn. Nghĩ tới chuyện này, tôi cảm thấy lúc bấy giờ cho em nó vào ngôi trường hiện nay là rất đúng.” Karasawa Reiko hai tay nâng cốc thủy tinh lên, bộc bạch.
“Đúng đấy ạ, thi cử càng ít càng tốt.” Masaharu nói. Đây cũng là điều anh ta vẫn thường nghĩ, và từng nói với những phụ huynh học sinh mà mình phụ đạo từ bấy đến giờ. “Vì vậy, gần đây ngày càng có nhiều bố mẹ ngay từ giai đoạn con vào cấp I đã chọn trường dân lập trực thuộc đại học.”
Bà Reiko nghiêm trang gật đầu. “Đúng vậy, làm thế là chuẩn nhất, tôi cũng nói thế với đám cháu đấy. Việc thi cử của con trẻ, tốt nhất là giải quyết một lần từ sớm đi. Càng về sau, muốn vào trường tốt lại càng khó khăn.”
“Bác nói không sai chút nào.” Masaharu gật đầu, nhưng ngay sau đó lại thấy hơi nghi hoặc, bèn hỏi lại, “Yukiho đi học cấp I ở trường công lập ạ, khi đó em ấy không tham gia thi ạ?”
Bà Reiko nghiêng đầu như thể đang suy nghĩ, rồi trầm ngâm một hồi, vẻ hơi do dự. Không lâu sau, bà ngẩng đầu lên. “Nếu khi ấy em nó ở với tôi, tôi nhất định sẽ khuyên như thế, nhưng bấy giờ tôi còn chưa gặp em nó. So với Tokyo, ở Osaka còn ít cha mẹ có ý tưởng cho con vào trường tư thục. Quan trọng nhất là dù có muốn vào trường tư thục, hoàn cảnh của con bé lúc đó cũng không cho phép.”
“Ồ, ra là thế...” Masaharu hơi hối hận, có lẽ anh đã động đến một vấn đề nhạy cảm. Lần đầu khi nhận công việc này, anh ta đã nghe nói Yukiho không phải con gái ruột của Karasawa Reiko. Nhưng cô trở thành con gái nuôi trong trường hợp nào thì không ai nói cho anh ta biết cả, trước đây ba Reiko cũng chưa từng đề cập đến. “Cha ruột của Yukiho có thể coi như em họ của tôi, có điều hồi em nó còn nhỏ chú ấy không may gặp nạn qua đời, vì vậy gia đình cũng khá khó khăn về tiền bạc. Vợ chú ấy tuy có ra ngoài làm việc, nhưng một người đàn bà phải nuôi con gái một mình, thực sự không dễ dàng chút nào.”
“Mẹ ruột em ấy sao rồi ạ?”
Masaharu vừa hỏi, nét mặt Reiko lại càng thêm u uất. “Cô ấy cũng chết vì tai nạn, tôi nhớ đó là hồi Yukiho vừa lên lớp sáu. Hình như là... tháng Năm thì phải.”
“Tai nạn giao thông ạ?”
“Không phải, là trúng độc khí gas.”
“Khí gas...”
“Nghe nói cô ấy bật bếp đun nấu, nhưng lại ngủ thiếp đi mất. Sau do nước canh trào ra làm tắt mất ngọn lửa, cô ấy đang ngủ nên không phát hiện, vậy là trúng độc. Tôi nghĩ nhất định là cô ấy mệt mỏi quá.” Bà Reiko tỏ vẻ buồn rầu, hàng lông mày mỏng mảnh chau lại.
Masaharu nghĩ, chuyện này rất có thể. Gần đây, các nhà trong thành phố đã dần chuyến sang dùng khí thiên nhiên, bình thường không còn xảy ra hiện tượng trúng độc ô xít các bon do khí gas tạo thành nữa, nhưng trước đây thường xuyên xảy ra những tai nạn tương tự.
“Thảm thương nhất là, người phát hiện ra cô ấy đã chết chính là Yukiho. Hễ cứ nghĩ khi ấy em nó phải chịu đựng nỗi kinh hãi lớn chừng nào, lòng tôi lại thấy xót xa...” Bà Reiko đau đớn lắc đầu.
“Tự em ấy phát hiện ra ạ?”
“Không. Nghe nói là cửa phòng bị khóa, nó nhờ nhân viên quản lý khu nhà đến mở cửa, tôi nghĩ là em nó và người nhân viên quản lý kia cùng phát hiện ra.”
“Ồ.” Masaharu nghĩ, người kia đúng là gặp phải tai bay vạ gió, lúc phát hiện ra xác chết, nhất định sợ đến tái mét mặt. “Chính vì tai nạn ấy mà Yukiho thành ra không nơi nương tựa ạ?”
“Đúng thế, tôi cũng có mặt trong tang lễ, Yukiho ôm lấy quan tài khóc lóc thảm thiết. Nhìn thấy cảnh ấy, cả người lớn chúng tôi cũng nát lòng theo...”
Dường như lại hình dung thấy tình cảnh lúc ấy, bà Reiko chớp chớp mắt liên tục.
“Vì vậy, ừm, bác quyết định nhận nuôi em ấy?”
“Vâng.”
“Có phải vì bác và gia đình em ấy qua lại thân thiết nhất không ạ?”
“Nói thực lòng, tôi với mẹ để của Yukiho không qua lại gì mấy. Hai nhà tuy ở khá gần nhau, nhưng cũng không phải khoảng cách có thể đi bộ được. Có điều, từ trước khi cô Fumiyo qua đời, tôi và Yukiho đã thường xuyên gặp nhau rồi. Con bé thường tới chỗ tôi chơi.”
“Ồ...”
Masaharu cảm thấy khó hiểu là tại sao Yukiho lại tự mình chạy đến nhà một người họ hàng không hề qua lại thân thiết với mẹ mình để chơi? Có lẽ thấy suy nghĩ đó lộ rõ trên gương mặt anh nên bà Reiko bèn nói rõ hơn, “Tôi và Yukiho gặp nhau lần đầu tiên vào ngày giỗ thứ bảy của bố con bé. Chúng tôi có nói chuyện một lúc, con bé hình như vô cùng hứng thú với chuyện tôi dạy trà đạo, háo hức hỏi rất nhiều vấn đề. Tôi liền nói, nếu cháu hứng thú như thế thì đến nhà bác chơi đi. Chuyện này chắc là khoảng một, hai năm trước khi mẹ đẻ em nó qua đời. Sau đó chẳng bao lâu, em nó tìm đến nhà làm tôi hơi ngạc nhiên, vì lúc đấy chỉ thuận miệng nói thế thôi. Có điều, hình như em nó thật lòng muốn học trà đạo, mà tôi lại đang cô đơn vì sống có một minh, bèn coi đó như một trò chơi, dạy cho em nó. Vậy là, hầu như tuần nào em nó cũng tự ngồi xe buýt đến, uống trà tôi pha, kể cho tôi những chuyện xảy ra ở trường. Không lâu sau, những buổi đến chơi của em nó trở thành chuyện tôi mong chờ nhất. Khi nào em nó bận không đến được, tôi lại thấy rất buồn.”
“Vậy Yukiho đã bắt đầu học trà đạo từ lúc ấy ạ?”
“Phải. Có điều, không lâu sau em nó cũng bắt đầu hứng thú với nghệ thuật cắm hoa. Lúc tôi cắm hoa, em nó sẽ ở bên cạnh hào hứng quan sát, có lúc cũng góp một tay cho vui, lại xin tôi dạy cho em nó cách mặc kimono nữa.”
“Cứ như là lớp học cô dâu ấy nhỉ?” Masaharu cười cười nói.
“Chính là cảm giác ấy đấy. Có điều, vì em nó còn nhỏ, hẳn nên gọi là chơi đồ hàng thôi, con bé ấy, lại còn học cách nói chuyện của tôi nữa chứ. Tôi có bảo rằng em nó đừng học theo, tôi xấu hổ lắm, nhung em nó lại nói ở nhà nghe mẹ nói chuyện, ngôn ngữ của mình cũng trở nên thô tục, vì vậy muốn sửa đổi thông qua chỗ tôi.”
Đến giờ anh ta mới hiểu, những cử chỉ cao nhã hiếm thấy ở nữ sinh cấp III của Yukiho thì ra đã được bồi dưỡng từ khi đó. Đương nhiên, bản thân cô phải muốn trước đã. “Bác nói vậy cháu mới nhớ, Yukiho nói chuyện đúng là không có chút giọng Kansai nào cả.”
“Tôi giống thầy giáo Nakamichi, hồi trước vẫn sống ở vùng Kanto, gần như không nói được tiếng Kansai, nhưng em nó lại bảo nói như vậy mới hay.”
“Cháu nói tiếng Kansai cũng không giỏi lắm đâu.”
“Vâng, Yukiho bảo nói chuyện với thầy giáo Nakamichi rất thoải mái. Nếu phải nói chuyện với người nào có khẩu âm Osaka nặng quá, còn phải cẩn thận đề phòng bị ảnh hưởng, nên nói chuyện rất mệt.”
“Ồ, nhưng rõ ràng em ấy sinh ra và lớn lên ở Osaka mà.”
“Em nó nói, em nó cũng ghét cả điều ấy đấy.”
“Thật ạ?”
“Vâng.” Người phụ nữ vừa bước vào tuổi lão niên ấy bặm môi gật đầu, rồi lại hơi nghiêng đầu, “Chỉ là, có điều này làm tôi hơi lo lắng. Con bé ấy vẫn luôn sống cùng một người lớn tuổi như tôi nên tôi sợ em nó sẽ thiếu sự hoạt bát của các cô gái trẻ bây giờ. Nếu em nó hư đốn quá tôi cũng sẽ đau đầu, nhưng nó lại ngoan quá, tôi thậm chí cảm thấy em nó có quậy phá một chút cũng không làm sao cả. Thầy giáo Nakamichi, nếu tiện, xin nhờ thầy dẫn em nó ra ngoài chơi nhé.”
“Cháu? Có được không ạ?”
“Tất nhiên thầy giáo Nakamichi thì tôi yên tâm lắm.”
“Vâng. Vậy thì để lần sau cháu thử rủ em ấy ạ.”
“Xin thầy hãy làm thế, tôi nghĩ em nó nhất định sẽ rất vui.”
Lời này của bà Reiko dường như đã kết thúc câu chuyện, Masaharu lại đưa tay cầm cái cốc thủy tinh lên. Vì đang muốn tìm hiểu thêm về Yukiho nên anh ta không hề thấy cuộc đối thoại này khô khan nhạt nhẽo. Thế nhưng, Masaharu cho rằng người mẹ nuôi này dường như cũng không hoàn toàn hiểu cô. Cô bé Karasawa Yukiho, không cổ hủ như bà Reiko nghĩ, mà cũng không phải quá ngoan ngoãn. Có một chuyện đã để lại ấn tượng sâu sắc cho anh ta. Hồi tháng Bảy, sau khi kết thúc buổi học kéo dài hai tiếng như thường lệ, anh ta uống cà phê được bưng lên, nói chuyện phiếm với Yukiho. Chủ đề câu chuyện khi ấy chắc chắn có liên quan đến cuộc sống ở trường đại học, vì anh ta biết cô thích nghe chuyện này. Bọn họ nói chuyện được chừng năm phút thì có điện thoai gọi đến. Bà Reiko lên gọi, bảo là, “Một người ở ban tổ chức cuộc thi hùng biện tiếng Anh tìm con.”
“Vâng, con biết rồi.” Yukiho gật đầu, đi xuống dưới nhà. Masaharu uống nốt cốc cà phê, rồi đứng dậy.
Lúc anh ta xuống nhà, Yukiho đang đứng bên cạnh chiếc điện thoại đặt ngoài hành lang nói chuyện. Nét mặt cô thoạt trông có vẻ căng thẳng. Nhưng khi anh ta giơ tay ra hiệu với cô, ý bảo mình đi về, cô lại nhoẻn miệng cười chào rồi nhẹ nhàng vẫy tay.
“Yukiho giỏi thật, còn tham gia thi hùng biện tiếng Anh nữa.” Masaharu nói với bà Reiko lúc bà tiễn anh ta ra ngoài tiền sảnh.
“Tôi không biết. Tôi không nghe nó nhắc gì cả.” Bà Reiko nghiêng đầu nói.
Sau khi rời nhà Karasawa, Masaharu vào một quán mì sợi bên cạnh ga Shitennoji, ăn bữa tối muộn, chuyện này đã trở thành thói quen mỗi thứ Ba của anh ta. Anh ta vừa ăn há cảo và cơm rang, vừa xem ti vi trong quán, nhưng lúc vô tình nhìn qua cửa kính ra ngoài, anh ta chợt trông thấy một cô gái trẻ rảo chân bước nhanh ra phố lớn. Masaharu lập tức trợn to mắt, vì đó không phải ai khác, mà chính là Yukiho. Có thể là chuyện gì? Từ nét mặt của cô anh ta cảm giác được sự việc không phải đơn giản. Ra đến đường lớn, cô vội vội vàng vàng bắt tắc xi. Kim đồng hồ chỉ mười giờ. Dù nghĩ thế nào, cũng chỉ có một kết luận, nhất định là có chuyện đột xuất gì đó. Masaharu rất lo lắng, bèn dùng diện thoại ở quán mì gọi đến nhà Karasawa. Sau khi chuông đổ mấy lần, bà Reiko bắt máy.
“Ồ, thầy Nakamichi. Có chuyện gì vậy?” Nghe thấy giọng anh ta, bà ngạc nhiên hỏi, hoàn toàn không có cảm giác lo lắng.
“Xin hỏi... cô Yukiho ở nhà không ạ?”
“Yukiho? Để tôi gọi em nó xuống nghe điện.”
“Ơ? Em ấy đang ở cạnh bác ạ?”
“Không, ở trong phòng. Em nó nói ngày mai ở câu lạc bộ có chuyện, phải tập hợp từ sáng sớm, muốn đi ngủ sớm một chút. Có điều chắc em nó vẫn còn tỉnh đấy.”
Vừa nghe thấy những lời này, Masaharu lập tức nhận ra mình đã làm một chuyện không nên. “À, vậy không cần đâu ạ. Để lần sau tới nhà cháu trực tiếp nói với em ấy, cũng không phải chuyện gấp gì.”
“Ồ? Nhưng mà...”
“Thật sự không sao đâu ạ, xin cứ để em ấy ngủ ạ.”
“Ồ. Vậy để sáng mai tôi bảo em nó là thầy Nakamichi có gọi điện tìm nó.”
“Vâng, vậy nhờ bác chuyển lời giúp cháu. Cháu xin lỗi, muộn như vậy rồi mà còn làm phiền bác.” Masaharu vội vàng dập máy, hai bên nách ướt sũng mồ hôi. Có lẽ Yukiho đã giấu mẹ lén lút trốn ra ngoài. Chắc hẳn có liên quan đến cuộc điện thoại lúc nãy. Mặc dù rất tò mò muốn biết cô đi đâu, nhưng anh ta không muốn cản trở cô. Chỉ mong lời nói dối của Yukiho sẽ không vì cú điện thoại của mình mà bị lộ, anh ta thầm nghĩ. Ngày hôm sau, nỗi lo lắng của anh ta đã được xua tan. Yukiho gọi điện thoại cho anh ta.
“Thầy ạ, mẹ em bảo tối qua thầy gọi điện cho em. Em xin lỗi, sáng sớm nay em có buổi luyện tập ở câu lạc bộ nên tối qua đi ngủ rất sớm.”
Nghe cô nói vậy, Masaharu liền biết lời nói dối của cô không bị lộ. “Cũng không có gì, chỉ là không biết xảy ra chuyện gì nên tôi hơi lo lắng thôi.”
“Không biết xảy ra chuyện gì là sao ạ?”
“Tôi thấy em lo lắng ngồi lên tắc xi.”
Y như rằng, cô lặng thinh trong mấy giây, sau đó mới thấp giọng hỏi, “Thầy trông thấy ạ?”
“Tôi ngồi trong quán mì.” Masaharu cười cười nói.
“Ra vậy, có điều, thầy đã giúp em giữ bí mật với mẹ có phải không ạ?”
“Vì nếu bị mẹ em biết, có vẻ sẽ gay đấy.”
“Vâng, đúng thế, sẽ hơi gay ạ.” Cô cũng cười.
Từ phản ứng của cô, Masaharu suy đoán sự việc cũng không nghiêm trọng đến mức ấy. “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì vậy? Tôi đoán chắc là có liên quan đến cuộc điện thoại trước đó.”
“Thầy tinh thật, không sai chút nào.” Nói đoạn, cô hạ giọng. “Là bạn em tự sát không thành.”
“Hả? Tự sát?”
“Hình như do sốc vì bị bạn trai đá. Thế nên mấy đứa bạn thân chúng em vội vàng chạy đến chỗ cậu ấy. Nhưng mà, chuyện này không thể nói với mẹ được.”
“Đúng vậy. Thế bạn em sao rồi?”
“Ừm, ổn rồi ạ. Sau khi thấy bọn em, cậu ấy đã trở lại bình thường.”
“Vậy thì tốt rồi.”
“Cậu ấy đúng là ngốc quá, chẳng qua chỉ là đàn ông thôi mà, việc gì phải tìm đến cái chết như vậy.”
“Đúng thế.”
“Thế nên là,” Yukiho cởi mở tiếp lời, “chuyện này phiền thầy giữ bí mật giùm em.”
“Được, tôi biết rồi.”
“Vậy, tuần sau gặp thầy nhé.” Cô gác máy.
Nhớ lại câu chuyện lúc ấy, đến nay Masaharu vẫn không khỏi cười thiểu não. Anh ta không thể ngờ lại nghe thấy một câu kiểu “chẳng qua chỉ là đàn ông thôi mà” từ miệng cô. Anh ta nhận thức một cách sâu sắc, nội tâm của các cô gái trẻ thực sự là thứ người khác không thể nào tưởng tượng nổi.
Bác không cần lo lắng, thiên kim tiểu thư nhà bác không non nớt như bác nghĩ đâu... anh ta rất muốn nói với người phụ nữ đang ngồi trước mặt mình như thế. Lúc anh ta uống hết trà, ngoài tiền sảnh vẳng lên tiếng mở cửa.
“Hình như về rồi.” Bà Reiko đứng dậy.
Masaharu cũng rời khỏi chỗ ngồi, liếc nhanh vào cái bóng phản chiếu trên cửa kính hướng ra sân, kiểm tra xem đầu tóc có rối không.
Thằng ngốc này, hồi hộp gì cơ chứ! Masaharu thầm thóa mạ cái bóng trên cửa kính.
2
Nakamichi Masaharu là người của phòng nghiên cúu số 6 bộ môn Kỹ thuật điện thuộc khoa Kỹ thuật trường đại học Kitaosaka, đề tài nghiên cứu tốt nghiệp mà anh ta lựa chọn là điều khiển người máy bằng phương pháp sử dụng lý thuyết đồ thị. Nói cụ thể tức là làm cho máy tính có thể phán đoán được hình dạng lập thể của sự vật chỉ với nhận thức thị giác đơn hướng. Anh ta đang ngồi trước bàn sửa chữa mã lệnh chương trình thì nghiên cứu sinh Minobe gọi. “Này, Nakamichi, đến xem cái này này.”
Minobe đang ngồi trước chiếc máy tính cá nhân hiệu HP, mắt nhìn chăm chăm vào màn hình. Masaharu đến đứng sau lưng đàn anh, nhìn vào màn hình đen trắng, trên đó hiển thị ba hình vuông nhỏ và một hình vẽ trông giống như chiếc tàu ngầm. Anh ta nhận ra màn hình này, đó là trò chơi được bọn họ gọi là “Submarine”, cách chơi là nhanh chóng đánh chìm tàu ngầm của kẻ địch đang lặn sâu dưới đáy biển. Dựa vào mấy số liệu của ba tọa độ được đưa ra để suy đoán vị trí kẻ địch, chính là niềm vui của trò chơi này. Đương nhiên, nếu chỉ lo tấn công, sẽ bị địch phát hiện vị trí của bên mình, dẫn đến bị phản kích bằng ngư lôi. Trò chơi này do các sinh viên và nghiên cứu sinh của phòng nghiên cứu số 6 tranh thủ khoảng thời gian rảnh rỗi làm ra. Việc lập trình và nhập liệu đều tiến hành chung, có thể nói là đề tài nghiên cứu tốt nghiệp không công khai của bọn họ.
“Có gì không ổn ạ?” Masaharu hỏi.
“Cậu nhìn kỹ xem, có chút khác biệt so với Submarine của chúng ta.”
“Ồ!”
“Chẳng hạn như cách thức hiển thị tọa độ này, và cả hình dạng tàu ngầm cũng hơi khác.”
“Ơ?” Masaharu quan sát kỹ những phần đó, “Đúng rồi.”
“Kỳ lạ lắm phải không?”
“Vâng ạ, có người sửa chương trình ạ?”
“Nhưng, không phải vậy.”
Minobe khởi động lại máy tính, ấn nút chiếc máy cát xét đặt bên cạnh, lấy cuộn băng bên trong ra. Chiếc máy cát xét này không phải loại dùng để nghe nhạc, mà là thiết bị lưu trữ bên ngoài của máy tính cá nhân. Mặc dù hãng IBM đã công bố phương thức lưu trữ sử dụng đĩa từ, nhưng thiết bị lưu trữ bên ngoài của máy tính cá nhân đa số vẫn là băng cát xét.
“Tôi bỏ cái này vào, khởi động xong liền hiện lên như vừa rồi.” Minobe đưa băng cát xét cho Masaharu. Nhãn trên cuộn băng chỉ đề “Marine Crash”, là kiểu chữ in chứ không phải viết tay.
“Marine Crash? Đây là cái gì?”
“Cậu Nagata bên phòng 3 cho tôi mượn đấy.” Minobe nói. Phòng 3 là cách nói tắt của Phòng nghiên cứu số 3.
“Sao anh ấy lại có thứ này?”
“Vì cái này.” Minobe lấy vé tháng trong túi quần bò, rút ra một tờ giấy đã gấp nhỏ, chắc là cắt từ tạp chí. Anh ta mở tờ giấy đó ra. Bán các loại trò chơi máy tính cá nhân qua đường bưu điện... một hàng chữ đập vào mắt. Bên dưới còn có tên 150 sản phẩm và giới thiệu đơn giản về trò chơi, cùng với bảng giá. Sản phẩm tổng cộng có ba mươi loại, giá rẻ thì khoảng hơn một nghìn yên, đắt thì chừng hơn năm nghìn yên. Marine Crash nằm ở khoảng giữa của bảng giá, nhưng kiểu chữ đậm hơn các trò khác, còn phụ chú thêm, “Mức độ hấp dẫn ★★★★★”. Ngoài ra, còn có ba trò chơi khác cũng dùng kiểu chữ đậm, nhưng chỉ có trò này được đánh dấu bốn sao, vừa nhìn đã biết là bên bán đang ra sức giới thiệu. Bên bán là một công ty tên “Kế hoạch Vô hạn”, cái tên Masaharu chưa từng thấy cũng chưa từng nghe ai nhắc đến bao giờ.
“Đây là cái gì? Lại có cả người làm nghiệp vụ bán hàng qua bưu điện này ư?”
“Gần đây thỉnh thoảng tôi cũng thấy, nhưng không để ý, có điều Nagata bên phòng 3 nói cậu ta đã biết từ lâu rồi. Thấy nội dung của trò Marine Crash này rất giống với Submarine của chúng ta, cậu ta cũng lấy làm lạ. Sau đấy, cậu ta có người bạn đặt mua đồ ở đây, liền đi mượn xem thế nào. Kết quả như cậu đã thấy đấy, nội dung giống hệt. Cậu ta giật nẩy mình, liền chạy đến báo cho tôi.”
“Chậc...” Masaharu như người lạc giữa sương mù.
“Chuyện này là sao?”
“Submarine,” Minobe vừa nói vừa dựa lưng vào ghế, tiếng kim loại bị đè xuống kêu ken két, “là tác phẩm của chúng ta sáng tạo ra. Thật ra, nói chính xác hơn, là chúng ta dựa trên cơ sở trò chơi các sinh viên học viện Kỹ thuật Massachusetts tạo ra, nhưng mà, thứ này được triển khai nhờ ý tưởng sáng tạo của chúng ta, điểm này thì không có gì để nghi ngờ nữa. Không thể tồn tại một sự ngẫu nhiên là một người hoàn toàn không liên quan, ở một nơi hoàn toàn không liên quan cũng có cùng ý tưởng sáng tạo như vậy, lại còn thực hiện một cách cụ thể ra nữa, đúng không?”
“Nói như vậy...”
“Khả năng duy nhất, chính là trong số chúng ta có người tiết lộ mã lệnh chương trình của Submarine cho cái công ty Kế hoạch Vô hạn này.”
“Không thể nào chứ?”
“Cậu nghĩ ra được khả năng khác không? Có quy định là chỉ những người làm mới có chương trình Submarine trong tay, nếu không phải trường hợp đặc biệt thì cũng không được tùy tiện cho người khác mượn.”
Masaharu im lặng trước câu hỏi của Minobe. Đúng vậy, anh ta thực sự không nghĩ ra khả năng nào khác. Sự thực đã bày ra trước mắt, trò chơi rất giống Submarine của bọn họ đang được bán thông qua đường bưu điện.
“Có cần tập hợp mọi người lại không ạ?” Masaharu đề nghị.
“Cần đấy. Sắp nghỉ trưa rồi, bảo mọi người ăn cơm xong tập trung ở đây đi. Hỏi tất cả mọi người, có thể sẽ có đầu mối. Đương nhiên, với điều kiện là người đó không nói dối.” Minobe nhếch mép, dùng đầu ngón tay đẩy gọng kính vàng.
“Em thực khó lòng tưởng tượng nổi có người nào lại phản bội mọi người, đem thứ đó bán cho người ngoài.”
“Nakamichi, cậu tin mọi người thì tùy cậu thôi nhưng rõ ràng có người đã phản bội.”
“Cũng chưa chắc đã là cố tình đúng không?”
Nghe Masaharu nói vậy, Minobe nhướng mày lên. “Cậu nói thế là có ý gì?”
“Cũng có thể người đó đã bị trộm mất mã lệnh chương trình mà không hay biết.”
“Ý cậu là, thủ phạm không phải thành viên, mà là người quen của các thành viên sao?”
“Đúng.” Mặc dù không thích cách nói “thủ phạm” này nhưng Masaharu vẫn gật đầu.
“Dù thế nào, cũng cần phải hỏi tất cả mọi người trong nhóm.” Nói đoạn, Minobe khoanh hai tay trước ngực.
Tổng cộng có sáu người, bao gồm cả Minobe, tham gia nghiên cứu làm ra Submarine. Trong giờ nghỉ trưa, tất cả đều tập trung tại phòng nghiên cứu số 6. Minobe thuật lại toàn bộ sự việc nhưng tất cả đều khăng khăng nói mình hoàn toàn không hay biết.
“Thứ nhất, nếu làm chuyện đó, chắc chắn sẽ có lúc lòi đuôi ra. Làm gì có người nào ngu đến mức không nghĩ đến vấn đề này chứ.” Một sinh viên năm thứ tư nói với Minobe.
Một người khác lại nói, “Nếu đã muốn bán, đương nhiên phải thương lượng với mọi người xong rồi chúng ta tự bán chứ, như vậy đảm bảo kiếm được nhiều tiền hơn.”
“Có ai từng đem mã lệnh chương trình cho người khác mượn không?” Minobe đưa ra câu hỏi.
Có ba sinh viên trả lời, từng cho bạn mượn chơi, nhưng đều là khi bọn họ có mặt tại đấy, ai nấy đều đảm bảo bạn mình không có thời gian sao chép lại mã lệnh.
“Nói như vậy, chắc là có người tự tiện mang mã lệnh chương trình ra ngoài rồi.” Minobe nói rồi yêu cầu mỗi người phải trình bày rõ cách quản lý băng cát xét ghi lại mã lệnh chương trình. Nhưng, không ai nói là đã đánh mất cả.
“Mọi người thử nghĩ lại xem. Nếu không phải chúng ta, thì tức là bên cạnh chúng ta có người tự tiện đem Submarine đi bán cho người khác, mà người bỏ tiền ra mua ấy, lại công nhiên mang đi chào bán khắp nơi.” Minobe đau khổ nói rồi lần lượt đưa mắt nhìn chằm chằm từng người trong bọn.
Sau khi giải tán, Masaharu trở về chỗ ngồi, lục lọi ký ức xác nhận thêm lần nữa. Kết luận cuối cùng là ít nhất thì cuộn băng cát xét của anh ta không có khả năng bị người khác lấy trộm. Bình thường, anh ta đều cất băng cát xét lưu trữ các số liệu khác và băng chứa Submarine trong ngăn kéo bàn học ở nhà. Nhũng lúc mang ra ngoài cũng luôn cầm trên tay không rời ra phút nào, thậm chí còn chưa từng để cuộn băng lại phòng nghiên cứu. Nói cách khác, đồ vật tuyệt đối không thể bị trộm từ chỗ anh ta được. Dù vậy, nhưng chuyện này đã khiến anh ta có một cảm tưởng hoàn toàn khác. Anh ta không thể ngờ được chương trình họ tạo ra với mục đích tiêu khiển lại có thể trở thành hàng hóa. Có khi, đây sẽ là một cơ hội kinh doanh hoàn toàn mới mẻ...
3
Vào khoảng nửa tháng sau cuộc nói chuyện với bà Reiko, Masaharu chợt nhớ đến thân thế của Karasawa Yukiho khi anh ta đi với bạn đến thư viện tỉnh ở Nakanoshima để tra tìm tư liệu. Người bạn này là đồng đội của anh ta trong câu lạc bộ Khúc côn cầu trên băng, họ Kakiuchi. Để viết bài, Kakiuchi đang tìm hiểu lại các tin tức hồi trước.
“Ha ha! Đúng đúng đúng, chính là lúc đó, tôi cũng thường bị sai đi mua giấy vệ sinh.” Kakiuchi xem bản in thu nhỏ đang mở ra của tờ báo, thì thầm. Trên bàn đặt mười hai tập bản in thu nhỏ, từ tháng Bảy năm 1973 cho đến tháng Sáu năm 1974, mỗi tháng một tập. Masaharu ở bên cạnh liếc nhìn. Kakiuchi đang xem một bài báo ngày 2 tháng Mười một năm 1973, nội dung là tại khu bán giấy vệ sinh trong siêu thị thuộc khu độ thị mới ở Senri tỉnh Osaka chen chúc gần ba trăm khách mua hàng. Đó là chuyện của thời khủng hoảng dầu mỏ, Kakiuchi đang điều tra về nhu cầu năng lượng điện nên cần phải đọc các bài báo có liên quan vào thời điểm đó.
“Ở Tokyo cũng có tình trạng tranh mua tích trữ chứ?”
“Hình như là có. Nhưng ở Tokyo, có lẽ tranh mua xà phòng giặt ác liệt hơn giấy vệ sinh. Em họ tôi nói, không biết nó đã bị sai đi mua bao nhiêu lần nữa.”
“Ồ, ở đây có viết này, có bà nội trợ đã mua bốn mươi nghìn yên tiền xà phòng giặt tại một siêu thị ở Tama. Đây chắc không phải họ hàng nhà cậu đấy chứ?” Kakiuchi cười cười trêu anh ta.
“Nói nhảm.” Masaharu cũng cười đáp lại.
Masaharu thầm nghĩ, khi ấy mình đang làm gì nhỉ? Thời điểm đó anh ta đang học lớp mười, vừa chuyển đến Osaka không lâu, đang cố gắng để thích ứng với hoàn cảnh mới. Anh ta đột nhiên nghĩ, không biết lúc đó Yukiho học lớp mấy, tính nhẩm trong đầu thì ra cô học lớp năm. Nhưng anh ta không thể tưởng tượng nổi hình ảnh của cô hồi cấp I. Ngay sau đó, Masaham chợt nhớ đến lời Karasawa Reiko.
“Cũng chết vì tai nạn, tôi nhớ đó là hồi Yukiho vừa lên lớp sáu. Hình như là... tháng Năm thì phải.”
Bà muốn nói đến mẹ đẻ của Yukiho. Yukiho học lớp sáu, nghĩa là năm 1974. Masaharu tìm trong đống bản in thu nhỏ tập của tháng Năm năm 1974, mở ra trên bàn. Tháng đó đã xảy ra các sự kiện như “Hạ nghị viện thông qua luật Phòng chống ô nhiễm bầu khí quyển”, “Các phụ nữ chủ trương nữ quyền tập trung ở Hạ nghị viện để phản đối dự thảo sửa đổi luật Bảo vệ thuyết ưu sinh”... Ngoài ra, còn có tin về cửa hàng 7-Eleven đầu tiên do hiệp hội Người tiêu dùng Nhật Bản khởi xướng, đã có mặt tại quận Koto, Tokyo. Masaharu lật đến trang xã hội, thoáng sau liền tìm thấy một bài báo ngắn, tiêu đề “Bếp gas tắt lửa ở quận Ikuno thành phố Osaka làm một người chết do nhiễm độc”, nội dung như sau:
“Khoảng năm giờ chiều ngày 22, nhân viên công ty quản lý nhà trọ phát hiện Nishimoto Fumiyo (nữ, ba mươi sáu tuổi) khách thuê phòng 103 khu nhà trọ Yoshida, ở ngõ 47 Tây Oe quận Ikuno thành phố Osaka ngã gục trong phòng, đã nhanh chóng gọi xe cấp cứu, nhưng cô Nishimoto đã chết trước đó. Theo báo cáo điều tra của đồn cảnh sát Ikuno, lúc phát hiện thi thể, trong phòng nồng nặc mùi khí gas, có thể cô Nishimoto chết vì trúng độc. Hiện đang tiến hành điều tra nguyên nhân khí ga bị rò rỉ ra ngoài, theo phân tích, rất có khả năng là nồi xúp miso đang đun trên bếp bị trào gây tắt lửa mà cô Nishimoto không phát hiện ra.”
Chính là cái này! Masaharu đoan chắc. Bài báo gần như giống hệt những gì Karasawa Reiko nói với anh ta. Không thấy xuất hiện tên của Yukiho trong số những người phát hiện, có lẽ vì tòa soạn đã tuân thủ đạo đức nghề báo mà có biên tập thích hợp.
“Xem cái gì mà chăm chú thế?” Kakiuchi ở bên cạnh liếc sang.
“Ồ, cũng không có gì cả đâu.” Masaharu chỉ bài báo, nói rằng chuyện này xảy ra với học sinh anh ta đang dạy gia sư.
Kakiuchi lộ vẻ ngạc nhiên. “Chà, ghê thật, liên quan đến cả một sự việc được đăng báo nữa.”
“Tôi đâu có liên quan gì.”
“Nhưng cậu đang dạy đứa bé ấy còn gì?”
“Đúng.”
“Ưm...” Kakiuchi không hiểu sao lại phát ra một tiếng khịt mũi vẻ thán phục, rồi đọc lướt qua bài báo, “Khu Oe ở quận Ikuno à, gần nhà Naito đấy.”
“Naito? Thật à?”
“Chắc không lầm được đâu.”
Naito mà họ nhắc đến là đàn em trong câu lạc bộ Khúc côn cầu trên băng, học dưới hai bọn họ một khóa.
“Lần tới gặp tôi hỏi Naito xem sao.” Masaharu vừa nói vừa chép lại địa chỉ của khu nhà trọ Yoshida trong bài báo. Nhưng phải hai tuần sau đó, anh ta mới hỏi được Naito chuyện này. Vì lên năm thứ tư đại học, anh ta đã không còn tham gia hoạt động của câu lạc bộ Khúc côn cầu trên băng nữa, cũng hiếm có cơ hội gặp mặt đàn em. Masaharu đến câu lạc bộ, cũng là vì thiếu vận động nên bắt đầu phát phì, muốn hoạt động gân cốt một chút.
Naito nhỏ người, khá gầy. Mặc dù có kỹ thuật trượt băng rất tốt, nhưng thể trọng không đủ nên không đủ sức thi đấu ở cự ly gần. Tóm lại, cậu ta không phải một cầu thủ mạnh, nhưng được cái chu đáo cẩn thận, lại biết chăm sóc người khác, nên đảm nhiệm vị trí cán sự trong câu lạc bộ.
Masaharu tranh thủ thời gian trong lúc tập thể lực trên sân vận động tìm gặp Naito.
“Ồ, vụ tai nạn đó à? Em có biết, chuyện xảy ra từ mấy năm trước rồi ấy nhỉ?” Naito vừa lấy khăn bông lau mồ hôi vừa gật đầu, “Ở ngay gần nhà em, dù không phải chỉ cách vài bước chân, nhưng cũng là khoảng cách có thể đi bộ được.”
“Tai nạn đó có thành chủ đề bàn tán ở chỗ cậu không?” Masaharu hỏi.
“Nên gọi là chủ đề bàn tán không nhỉ? Nhưng mà có một số tin đồn kỳ lạ.”
“Đồn thế nào?”
“Chậc, bảo không phải tai nạn, mà là tự sát.”
“Ý cậu là, mở bếp gas tự tìm cái chết?”
“Đúng vậy.” Trả lời xong, Naito nhìn Masaharu, “Sao vậy ạ, anh Nakamichi? Sao anh lại quan tâm đến tai nạn đó?”
“Ừm, thực ra vụ đó có liên quan đến một người quen của tôi.”
Anh ta giải thích nguyên do với Naito, Naito kinh ngạc trợn tròn mắt lên. “Thì ra anh đang dạy gia sư cho đứa trẻ nhà ấy. Thật tình cờ nhỉ.”
“Đối với tôi thì chẳng phải tình cờ gì cả. Có điều, cậu nói kỹ hơn chút xem nào, tại sao lại có tin đồn tự sát?”
“Không biết, em không được rõ cho lắm, hồi ấy em mới học cấp III thôi mà.” Naito nghiêng nghiêng đầu, rồi ngay lập tức vỗ hai tay vào nhau như sực nhớ ra điều gì đó, “A! Phải rồi, hỏi chú ở đó, chắc là chú ấy biết chuyện.”
“Ai cơ?”
“Chú ở văn phòng bất động sản mà em thuê chỗ để xe. Chú ấy từng kể rằng có khách thuê mở van gas tự sát trong nhà trọ hại ông ấy một phen thê thảm. Chắc là nói đến căn nhà trọ ấy đấy.”
“Văn phòng bất động sản?” Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Masaharu, “Đó có phải người phát hiện ra xác chết không?”
“Chú ấy á?”
“Hình như người phát hiện ra xác chết chính là người của văn phòng bất động sản cho thuê khu nhà đó. Phiền cậu giúp tôi xác nhận một chút được không?”
“À... Chuyện đó thì được ạ.”
“Vậy nhờ cậu, tôi muốn tìm hiểu kỹ hơn một chút.”
“Vâng.”
Trong câu lạc bộ thể thao, quan hệ đàn anh đàn em là tuyệt đối. Bị đàn anh nhờ làm chuyện phiền phức kiểu này khiến Naito có vẻ bối rối song cũng chỉ biết gãi đầu chấp nhận.
Chiều hôm sau, Masaharu ngồi ở ghế trước của chiếc Toyota Carina do Naito lái, đây là xe cũ Naito mua lại của người anh họ với giá ba trăm nghìn yên. “Xin lỗi, làm phiền cậu mấy chuyện này.”
“Đâu có, không có gì đâu ạ, đằng nào cũng ngay gần nhà em.” Naito vui vẻ nói.
Chuyện hôm trước vừa nhận lời, Naito đã lập tức làm ngay. Cậu ta gọi điện cho người ở văn phòng nhà đất, bên trung gian giới thiệu chỗ đậu xe cho mình, hỏi xem ông có phải người phát hiện vụ trúng độc khí gas năm năm trước hay không. Người đó bảo người phát hiện cái xác không phải ông ta, mà là con trai ông ta. Người con trai đó giờ đang mở một văn phòng khác ở Fukaebashi. Fukaebashi ở quận Higashinari, nằm phía Bắc quận Ikuno. Tờ giấy ghi số điện thoại của người đó kèm theo bản đồ đơn giản, giờ đang ở trong tay Masaharu.
“Anh Nakamichi đúng là nghiêm túc thật. Có phải tìm hiểu gia cảnh của học sinh mình dạy gia sư sẽ giúp ích cho việc dạy học không ạ? Trong công việc làm thêm, em thực sự không thể nào làm được đến mức như anh đâu. Mà thật ra em không thế làm gia sư được.” Naito khâm phục nói. Thấy cậu ta tự suy diễn như thế, Masaharu cũng không nói gì. Thực ra, bản thân anh ta cũng không hiểu mình làm chuyện này để làm gì. Đương nhiên, Masaharu biết mình bị Yukiho hấp dẫn một cách mạnh mẽ, nhưng không phải vì vậy mà anh ta muốn biết mọi thứ về cô. Theo quan niệm của Masaharu, anh ta cho rằng chuyện trong quá khứ không có gì quan trọng cả. Anh ta nghĩ, mình làm vậy hẳn là vì không thể nào hiểu được cô bé ấy. Cho dù khoảng cách giữa hai người gần đến mức có thể chạm vào nhau, nói chuyện cũng rất thân mật, nhưng có lúc anh ta vẫn cảm thấy cô xa xôi ngoài tầm với. Masaharu không hiểu tại sao lại thế, vì vậy trong lòng anh ta mới dâng lên cảm giác nôn nao sốt ruột.
Naito chốc chốc lại bắt chuyện với anh ta, nói về các thành viên mới gia nhập câu lạc bộ năm nay. “Có thể nói là sàn sàn nhau. Người có kinh nghiệm ít lắm, vì vậy mùa đông năm nay là thời điểm mấu chốt.” Naito vốn coi trọng thành tích của câu lạc bộ còn hơn cả số học trình phải hoàn thành của mình, nói vẻ không hài lòng.
Văn phòng Fukaebashi của Bất động sản Tagawa nằm ở đường rẽ đầu tiên đại lộ Chuo, vừa khéo ngay cạnh nút giao Takaida trên đường cao tốc Hanshin tuyến Đông Osaka. Trong tiệm, một người gầy gò đang ngồi trước bàn điền giấy tờ, xem ra không có nhân viên nào khác. Người này nhìn thấy bọn họ, liền nói, “Xin chào quý khách, đến tìm căn hộ phải không?” Hiển nhiên anh ta cho rằng bọn họ muốn tìm nhà.
Naito giải thích với anh ta, bọn họ đến để hỏi thăm về vụ tai nạn ở khu căn hộ Yoshida. “Em hỏi thăm chú ở tiệm Ikuno, nghe nói người phát hiện vụ tai nạn ấy chính là quản lý của văn phòng bên này.”
“Ừm, đúng thế.” Ánh mắt cảnh giác của đối phương đảo qua đảo lại trên gương mặt hai người trẻ tuổi, “Đã qua lâu như vậy rồi, tại sao còn hỏi chuyện này?”
“Lúc phát hiện ra xác chết, có một cô bé đi cùng anh đúng không?” Masaharu nói, “Cô bé tên là Yukiho, khi ấy họ cô bé là Nishimoto... thì phải.”
“Đúng, là nhà Nishimoto. Cậu là họ hàng với nhà Nishimoto hả?”
“Yukiho là học sinh của em.”
“Học sinh? Ồ, thì ra cậu là thầy giáo ở trường.” Tagawa gật gật đầu tỏ ra đã hiểu rồi lại nhìn Masaharu lần nữa, “Thầy giáo trẻ nhỉ!”
“Là thầy giáo gia sư thôi.”
“Gia sư? Tôi hiểu rồi.” Trong mắt anh ta thoáng lộ vẻ coi thường, “Đứa trẻ ấy giờ ở đâu? Mẹ nó chết rồi, không phải thành ra không nơi nương tựa sao?”
“Em ấy được họ hàng nhận nuôi, một nhà họ Karasawa.”
“Hừm.” Tagawa dường như không hứng thú lắm với họ tên, “Nó có khỏe không? Từ đó về sau tôi cũng không gặp lại nó nữa.”
“Rất khỏe ạ, giờ đang học lớp mười một.”
“Chà, lớn vậy rồi cơ à.”
Tagawa rút một điếu thuốc trong bao Mild Seven, ngậm vào miệng. Masaharu thấy thế, thầm nhủ, không ngờ anh ta cũng thời thượng ra phết. Loại thuốc này được đưa ra thị trường hơn hai năm trước, mặc dù nhận xét chung cho rằng mùi vị không được ngon, nhưng rất được những người trẻ tuổi ưa cái mới hoan nghênh. Bạn bè của Masaharu có hơn nửa đều bỏ loại Seven Stars, đổi sang hút loại này.
“Thế, cô bé nói gì với cậu về vụ tai nạn đó?” Sau khi phả một hơi thuốc, Tagawa hỏi. Anh ta thấy đối phương nhỏ tuổi hơn mình, giọng điệu cũng không khách sáo nữa.
“Em ấy kể từng được anh Tagawa giúp đỡ rất nhiều.” Đương nhiên Masaharu nói dối, anh chưa từng nói chuyện này với Yukiho. Không thể nói được.
“Ồ, cũng không thể nói là giúp đỡ gì cả! Lúc đó sợ chết khiếp đi được.”
Có lẽ vì đang nhàn rỗi chẳng có việc gì làm, Tagawa dựa lưng vào ghế, hai tay gác ra sau gáy, kể lại ngọn ngành tình cảnh lúc phát hiện ra thi thể của Nishimoto Fumiyo. Masaharu cũng nhờ thế mà nắm được khái quát toàn bộ sự việc này. “So với lúc phát hiện thi thể, về sau lại càng phiền phức hơn. Cảnh sát đến hỏi nọ hỏi kia.” Tagawa chau mày nói.
“Hỏi chuyện gì thế ạ?”
“Chuyện lúc vào trong nhà ấy. Tôi đã bảo ngoại trừ mở cửa sổ với tắt công tắc gas ra thì không chạm vào chỗ nào hết, không hiểu bọn họ còn gì chưa hài lòng, lại hỏi tôi có chạm vào nồi không, rồi ngoài sảnh có phải đã khóa thật hay không. Đến chiu bọn họ luôn.”
“Cái nồi thì có vấn đề gì ạ?”
“Tôi cũng không biết. Bọn họ nói cái gì mà nếu xúp miso trào ra, xung quanh cái nồi lẽ ra phải bẩn hơn mới đúng. Nói thì nói thế, sự thực chính là nước xúp trào ra làm tắt lửa, còn cách giải thích nào khác đâu?”
Nghe Tagawa kể, trong đầu Masaharu cũng hình dung ra tình trạng lúc đó. Anh ta cũng từng bất cẩn làm nước sôi trong nồi trào ra lúc nấu mì ăn liền, xung quanh nồi đúng là bị bẩn thật.
“Dù sao, được một gia đình có thể thuê gia sư dạy thêm nhận nuôi, xét về kết quả mà nói, đối với con bé cũng là một chuyện tốt. Sống với người mẹ như thế, chắc con bé chỉ có nước chịu khổ thôi.”
“Mẹ em ấy có gì không ổn ạ?”
“Tôi không biết về tính cách có vấn đề gì không, nhưng cuộc sống chắc chắn là rất khổ. Hồi trước cô ta làm việc ở đâu như là quán mì udon, cũng phải khó khăn lắm mới trả được tiền thuê nhà, tiền nhà còn nợ dồn tháng này sang tháng khác nữa!” Tagawa ngửa mặt phả khói thuốc lên không trung.
“Thế cơ ạ?”
“Có thể vì cuộc sống rất khổ cực, con bé tên Yukiho ấy bình tĩnh lạ thường. Lúc phát hiện ra xác mẹ nó, thậm chí nó còn không rơi lấy một giọt nước mắt, làm tôi hơi bất ngờ.”
“Ồ...” Masaharu ngạc nhiên, đưa mắt nhìn lại Tagawa. Vì bà Reiko từng kể với anh ta, Yukiho khóc lóc rất thảm thương trong tang lễ của Fumiyo.
“Vụ đó, có giả thuyết rằng có thể là tự sát, đúng không ạ?” Naito ở bên cạnh xen vào.
“À, đúng thế đúng thế.”
“Chuyện ấy là sao ạ?” Masaharu hỏi.
“Hình như có mấy chi tiết chứng tỏ, suy nghĩ theo hướng ấy cũng hợp lý hơn. Đó là chuyện tôi nghe được từ một tay cảnh sát đến tìm tôi vài lần.”
“Hợp lý hơn là sao ạ?”
“Là những chuyện gì ấy nhỉ? Chuyện xảy ra lâu quá nên tôi quên mất rồi.” Tagawa day day thái dương, nhưng thoáng sau đã ngẩng đầu lên, “À, đúng rồi. Cô Nishimoto ấy đã uống thuốc cảm cúm.”
“Thuốc cảm cúm? Thế thì có gì lạ?”
“Không phải lượng thuốc bình thường. Dựa vào số vỏ thuốc rỗng, hình như một lần uống hơn năm lần lượng dùng thông thường. Hình như cái xác đã được đưa đi giải phẫu kết quả chứng minh đúng là đã uống nhiều như thế.”
“Hơn năm lần... chuyện đó đúng là rất kỳ quái.”
“Vì vậy cảnh sát mới nghi ngờ, liệu có phải là để cho dễ ngủ hay không. Chẳng phải có cách tự sát là uống thuốc ngủ rồi bật bếp gas đấy sao? Bọn họ nghĩ có lẽ vì thuốc ngủ rất khó mua, nên cô ấy mới dùng thuốc cảm để thay thế.”
“Thay thế thuốc ngủ...”
“Hình như còn uống khá nhiều rượu, nghe nói trong thùng rác có ba cái cốc đựng rượu trắng rỗng không. Người ta bảo cái cô ấy bình thường hầu như không uống rượu, vì vậy chắc cũng vì muốn ngủ nên mới uống chăng?”
“Đúng vậy.”
“À, đúng rồi, cả cửa sổ nữa.” Có lẽ ký ức đang dần dần trở lại, Tagawa bắt đầu liến thoắng nói.
“Cửa sổ?”
“Có người cho rằng cửa đóng kín mít như vậy hết sức kỳ lạ. Bếp của căn hộ ấy không có quạt thông gió, lúc nấu ăn vốn phải mở cửa sổ ra mới đúng.”
Masaharu nghe vậy liền gật đầu vẻ tán đồng. “Có điều,” anh ta nói, “cũng có thể là quên không mở ra.”
“Đúng thế,” Tagawa gật gù, “đây không thể coi là chứng cứ có sức thuyết phục để chứng minh cô ấy đã tự sát. Thuốc cảm cúm với rượu trong cốc cũng thế, giải thích theo cách khác vẫn thỏa đáng mà. Quan trọng hơn cả là, có đứa bé kia làm chứng.”
“Đứa bé ấy là...”
“Yukiho.”
“Làm chứng gì ạ?”
“Nó cũng không nói gì đặc biệt, chỉ chứng thực rằng nó bị cảm cúm, với lại những lúc mẹ nó thấy lạnh, thi thoảng cũng uống rượu trắng.”
“Cảnh sát nói, dù bị cảm cúm thì lượng thuốc ấy cũng rất kỳ lạ, nhưng cô ta uống nhiều thuốc như vậy rốt cuộc muốn làm gì thì chỉ có cách hỏi người chết mới biết. Vả lại, muốn tự sát thì cần gì phải để xúp miso trong nồi sôi trào ra ngoài chứ? Bởi vậy, sau này người ta liền coi là tai nạn mà khép lại vụ án.”
“Cảnh sát có nghi ngờ gì chuyện cái nồi không?”
“Có trời mới biết được. Đằng nào thì cũng không quan trọng, đúng không?” Tagawa dụi điếu thuốc vào gạt tàn, “Cảnh sát nói nếu phát hiện sớm nửa tiếng họa may còn cứu được. Dù là tự sát hay tai nạn, cô ta cũng chết rồi.”
Anh ta vừa dứt lời thì có người ở sau lưng bọn Masaharu bước vào, là một cặp nam nữ trung niên. “Xin chào quý khách!” Tagawa nhìn hai người khách, cất tiếng chào hỏi, gương mặt đùn lên nụ cười giả lả của người buôn bán. Masaharu hiểu anh ta sẽ không tiếp chuyện nữa, bèn đưa mắt ra hiệu cho Naito, cùng rời khỏi văn phòng.
4
Mái tóc dài ánh nâu che khuất gương mặt nghiêng của Yukiho. Cô dùng ngón giữa bàn tay trái gạt những sợi tóc ra sau tai, nhưng vẫn để sót vài sợi. Masaharu rất thích động tác vén tóc này của cô. Nhìn gò má mịn màng trắng như tuyết ấy, anh ta không ngăn được cảm giác xốn xang muốn hôn cô. Ngay từ buổi học đầu tiên đã thế rồi. Yukiho đang cố gắng giải bài toán tìm phương trình đường thẳng khi hai mặt phẳng cắt nhau trong không gian. Cách giải anh ta đã dạy rồi, cô cũng đã hiểu, cây bút bi trên tay cô gần như không hề dừng lại. Vẫn còn rất lâu mới đến thời gian Masaharu quy định, cô đã ngẩng đầu lên nói, “Giải xong rồi.” Masaharu cẩn thận kiểm tra lại công thức cô viết trong vở bài tập. Từng con số và ký hiệu đều rất rõ ràng, đáp án cũng chính xác.
“Làm đúng rồi, rất tốt, không có gì để chê trách cả.” Anh ta vừa nhìn Yukiho vừa nói.
“Thật ạ? Vui quá.” Cô vỗ nhẹ tay lên ngực.
“Chắc em cũng hiểu về tọa độ không gian rồi. Chỉ cần biết giải bài này thì những bài khác đều có thể coi như ứng dụng của bài này thôi.”
“Vậy có thể giải lao một lát không ạ? Em có mua hồng trà mới đấy.”
“Được, chắc em cũng hơi mệt rồi.”
Yukiho mỉm cười đứng dậy khỏi ghế, đi ra ngoài. Masaharu vẫn ngồi bên cạnh bàn, đảo mắt nhìn quanh gian phòng. Những lúc cô đi pha trà, anh ta đều một mình ở lại trong phòng, nhưng khoảng thời gian này luôn làm anh ta cảm thấy bồn chồn bứt rứt. Nói thực lòng, anh ta rất muốn lúc lọi từng ngóc ngách của gian phòng này, muốn mở cái ngăn kéo nhỏ ra, cũng muốn lật tung những quyển vở trên giá sách lên. Không, chỉ cần biết nhãn hiệu mỹ phẩm Yukiho đang dùng, hẳn cũng làm anh ta khá hài lòng rồi. Thế nhưng, nếu anh ta bới loạn lên bị cô phát hiện thì... nghĩ tới đây, Masaharu đành yên phận ngồi tại chỗ. Anh ta không muốn bi cô coi thường. Sớm biết thế này thì đã mang tạp chí lên rồi, anh ta thầm nghĩ. Sáng nay anh ta mua một tờ tạp chí thời trang dành cho nam giới ở quầy bán lẻ trong ga tàu điện ngầm. Nhưng tạp chí lại bỏ trong túi đựng đồ thể thao mà anh ta để ở tiền sảnh tầng một. Cái túi ấy hơi bẩn, lại là loại lớn anh ta dùng khi còn luyện tập khúc côn cầu trên băng nên Masaharu có thói quen để nó ở dưới nhà khi dạy học. Không biết làm gì, anh ta đành nhìn quanh quất trong phòng. Trước giá sách có một chiếc cát xét loại nhỏ màu hồng phấn, bên cạnh để mấy cuộn băng. Masaharu hơi nhỏm người dậy để nhìn rõ nhãn dán trên mấy cuộn băng. Anh ta nhìn thấy dòng chữ: Matsutoya Yumi, OFF COURSE...
Anh ta ngồi lại xuống ghế, từ mấy cuộn băng lại liên tưởng đến một chuyện hoàn toàn không liên quan... Submarine. Hôm nay, dưới sự dẫn dắt của Minobe, bọn họ đã tiến hành trao đổi thông tin, nhưng vẫn không tìm thấy đầu mối nào. Ngoài ra, Minobe đã gọi điện thoại đến Kế hoạch Vô hạn, công ty đang bán cuộn băng ấy, song cũng không có thu hoạch gì.
“Tôi hỏi bọn họ lấy chương trình ấy ở đâu ra, đối phương kiên quyết không chịu tiết lộ. Người nghe điện thoại là một phụ nữ, tôi nhờ cô ta gọi nhân viên kỹ thuật đến nghe cũng không được. Bọn họ nhất định biết rằng mình đang làm trò gì, theo tôi thấy, những chương trình còn lại trong danh sách mặt hàng nhất định cũng là đồ ăn trộm về.”
“Trực tiếp đến công ty bọn họ được không?” Masaharu đề nghị.
“Tôi nghĩ vô ích thôi.” Minobe lập tức bác bỏ ý kiến này. “Cậu đi chỉ trích rằng chương trình của bọn họ ăn cắp bản quyền từ chỗ chúng ta thì họ cũng chẳng thèm để ý đến cậu.”
“Nếu lấy Submarine ra cho họ xem thì sao?”
Minobe vẫn lắc đầu. “Cậu có thể chứng minh Submarine là nguyên bản sao? Chỉ cần đối phương nói một câu rằng cậu ăn cắp ý tưởng từ Marine Crash thì không còn gì để nói nữa.”
Nghe Minobe nói vậy, Masaharu càng thêm chán nản. “Nói như anh, thì chương trình gì cũng có thể ăn cắp cả.”
“Đúng vậy.” Minobe lạnh lùng nói, “Lĩnh vực này sớm muộn gì cũng cần tới bản quyền. Thực ra, tôi đã kể chuyện này cho một người bạn có hiểu biết về luật pháp. Tôi hỏi anh ta, nếu chứng minh được bọn họ đã trộm chương trình của chúng ta, thì có thể yêu cầu bồi thường không. Anh ta trả lời là ‘No.’ Nói cách khác, là hết sức khó khăn, vì không có tiền lệ nào cả.”
“Sao lại thế...”
“Chính vì vậy, tôi mới mong sao tìm được thủ phạm. Sau khi tìm được, nhất quyết phải cho nó biết mặt.” Minobe hằn học nói.
Coi như tìm được kẻ ăn cắp, cùng lắm cũng chỉ có thể đấm cho nó mấy phát mà thôi. Masaharu cảm thấy hết sức bất lực, trong đầu anh lại hiện lên gương mặt của những người trong nhóm. Rốt cuộc là ai mà sơ sẩy như vậy, lại để người ta trộm mất cả chương trình? Anh ta thật sự rất muốn mắng cho tên đó một trận nên thân.
Thì ra mã lệnh lập trình cũng là m
Mưa không lớn đến mức cần giương ô, nhưng cũng âm thầm lặng lẽ làm ướt đầu tóc và quần áo. Mưa thu lất phất, tầng mây màu xám lại thi thoảng tách ra, để lộ bầu trời đêm. Ra khỏi ga Shitennoji, Nakamichi Masaharu ngẩng đầu nhìn trời, thầm nghĩ, cáo gả con gái đây. Mẹ đã dạy cho anh ta câu đó. Anh ta để một cái ô gấp trong tủ chứa đồ ở trường đại học, nhưng ra đến cổng mới nhớ ra, bèn từ bỏ luôn ý định quay lại lấy. Anh ta hơi vội. Chiếc đồng hồ thạch anh yêu quý đang chỉ bảy giờ năm phút, có nghĩa là anh ta đã muộn rồi, nhưng người anh ta muốn gặp hẳn sẽ không vì chuyện này mà bực bội. Anh ta vội vã, thuần túy là bởi muốn nhanh chóng đến nơi cần đến. Anh ta dùng tờ báo thể thao mua ở quầy bán lẻ trong nhà ga che mưa để khỏi ướt tóc. Mua báo thể thao vào ngày hôm sau khi đội bóng chày Yakult giành chiến thắng là thói quen của anh ta từ năm ngoái. Sống ở Tokyo đến cấp II nên anh ta là fan hâm mộ đội Yakult từ thời đội còn tên là Sankei Atoms chứ không phải Yakult Swallow. Đội Yakult năm ngoái dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Hirooka đã giành được ngôi quán quân như một kỳ tích. Giờ này năm ngoái, hầu như ngày nào cũng thấy tin tức về biểu hiện xuất sắc của các tuyển thủ đội Yakult. Thế nhưng, năm nay đội Yakult lại sụt giảm phong độ nghiêm trọng. Từ tháng Chín đến giờ, bọn họ luôn ở cuối bảng xếp hạng, bởi thế cơ hội để Masaharu mua báo thể thao đương nhiên cũng ít đi. Nên hôm nay anh ta mang báo theo người như thế này, có thể nói là may mắn.
Mấy phút sau, Masaharu đến nơi, ấn vào chiếc chuông cửa bên dưới tấm biển tên “Karasawa”.
Cánh cửa lưới mắt cáo ở tiền sảnh mở ra, Karasawa Reiko xuất hiện trong bộ váy liền màu tím, có thể vì chất vải mỏng manh, nên thân hình bà trông gầy yếu khác thường, khiến người ta thấy mà xót xa. Masaharu nghĩ, không biết bao giờ người phụ nữ chớm bước vào tuổi lão niên này mới lại mặc kimono. Hồi tháng Ba, khi anh ta lần đầu đến đây, bà mặc bộ kimono lụa màu xám sậm. Nhưng từ trước đợt mưa dầm, kimono liền đổi thành váy.
“Thầy giáo, thật xin lỗi thầy.” Vừa trông thấy Masaharu bà Reiko đã mở lời xin lỗi, “Vừa nãy Yukiho gọi điện thoại về bảo là phải chuẩn bị cho lễ hội văn hóa nên không dứt ra được, sẽ muộn mất khoảng nửa tiếng. Tôi đã bảo nó phải cố về cho nhanh rồi.”
“Vâng.” Masaharu thở phào, “Nghe bác nói vậy thì cháu yên tâm rồi. Cháu đã đi vội vì sợ đến muộn..”
“Thật sự rất xin lỗi thầy.” Ba Reiko cúi đầu.
“Vậy nên làm gì bây giờ nhỉ?” Masaharu nhìn đồng hồ, lẩm bẩm như nói với chính mình.
“Mời thầy vào trong đợi, để tôi chuẩn bị đồ uống lạnh.”
“Bác cứ mặc kệ cháu ạ.” Masaharu cúi đầu chào trước khi vào trong nhà.
Anh ta được dẫn vào phòng khách ở tầng một, nơi này vốn là phòng kiểu Nhật, nhưng lại bày ghế dựa bằng mây tre theo kiểu phương Tây. Anh ta mới chỉ vào gian phòng này một lần, khi tới đây lần đầu tiên.
Từ đó đến nay đã khoảng nửa năm trôi qua.
Người giới thiệu công việc gia sư này cho Masaharu là mẹ anh ta. Bà nghe nói cô giáo dạy trà đạo muốn tìm thầy dạy thêm môn Toán cho cô con gái sắp lên lớp mười một, liền giới thiệu ngay con trai mình. Cô giáo dạy trà đạo đó chính là Karasawa Reiko. Masaharu học ngành kỹ thuật ở trường đại học, từ thời cấp III đã hết sức tự tin với môn Toán của mình. Trên thực tế, cho tới mùa xuân năm nay, anh ta vẫn luôn dạy gia sư môn Toán và Lý cho một cậu học sinh cấp III. Nhưng cậu học sinh này đã thi đỗ đại học nên Masaharu cũng cần phải tìm một chỗ dạy kèm khác. Mẹ giới thiệu cho anh ta cơ hội này đúng là cầu được ước thấy. Masaharu rất biết ơn bà. Không phải vì công việc này đảm bảo thu nhập hàng tháng cho anh ta, mà việc đến nhà Karasawa mỗi thứ Ba hàng tuần khiến anh ta mong đợi không thôi. Anh ta ngồi trên ghế mây đợi, không lâu sau bà Reiko bưng khay để cốc thủy tinh đựng trà lúa mạch quay vào. Nhìn thấy trà lúa mạch, Masaharu thở phào nhẹ nhõm. Lần trước vào gian phòng này, chủ nhân tự ý bưng matcha lên, mà anh ta thì hoàn toàn không hiểu quy cách uống món trà ấy, lo đến nỗi mồ hôi lạnh đầm đìa cả người. Reiko ngồi xuống đối diện với anh ta, nói một tiếng “Mời thầy dùng”. Masaharu không khách khí cầm ngay cốc lên, cảm giác được dòng nước trà mát lạnh chảy qua cổ họng khát khô, thật dễ chịu.
“Bắt thầy chờ thế này thật ngại quá. Tôi nghĩ, chẳng qua chỉ là chuẩn bị cho lễ hội văn hóa thôi mà, Yukiho hoàn toàn có thể tìm cơ hội về trước.” Bà Reiko lại xin lỗi lần nữa. Dường như bà rất áy náy.
“Đâu có ạ, cháu không sao đâu. Xin bác đừng bận tâm. Với lại, các hoạt động cùng bạn bè cũng rất quan trọng mà.” Masaharu cố làm ra vẻ già dặn.
“Em nó cũng nói thế. Vả lại, nó nói việc chuẩn bị cho lễ hội văn hóa không phải hoạt động của lớp, mà là ở bên câu lạc bộ, vì vậy các chị lớp mười hai trông rất chặt, khó mà bỏ về trước được.”
“Ồ, ra vậy.” Masaharu nhớ ra, Yukiho đang tham gia câu lạc bộ Đàm thoại tiếng Anh ở trường. Anh ta cũng đã nghe cô nói mấy câu tiếng Anh. Không hổ là người đi học thêm lớp giao tiếp tiếng Anh từ cấp II, cô phát âm rất chuẩn. Anh ta vẫn còn nhớ cách cô uốn lưỡi phát âm mà bản thân không thể nào sánh được.
“Nếu là trường cấp III bình thường, có lẽ học sinh lớp mười hai không còn nhiệt tình với lễ hội văn hóa như thế đâu. Dù sao ở những trường như vậy, học sinh mới có thể nhàn nhã được. Thầy Nakamichi tốt nghiệp trường cấp III có tỷ lệ học sinh vào đại học cao nên lúc lên lớp mười hai, hẳn là chẳng ai có bụng nào mà lo đến lễ hội văn hóa đâu nhỉ?”
Nghe bà Reiko nói vậy, Masaharu cười cười xua tay. “Trường chúng cháu cũng có học sinh lớp mười hai bỏ nhiều công sức cho lễ hội văn hóa lắm. Chắc hẳn có không ít người coi đây là hoạt động giải lao ngoài những lúc chuẩn bị cho kỳ thi. Cháu cũng thế, sang đến mùa thu mà vẫn chưa tập trung vào học thi, hễ có hoạt động gì lập tức đến góp vui ngay.
“Ồ vậy à? Có điều, nhất định là vì thầy học xuất sắc rồi, nên mới có thể thoải mái như thế.”
“Đâu có ạ, làm gì có chuyện ấy, thật đấy ạ.” Masaharu không ngừng xua tay.
Karasawa Yukiho học ở trường nữ Seika, Masaharu nghe nói cô lên thẳng từ phân hiệu cấp II của Seika. Cô còn chuẩn bị lên thẳng luôn hệ đại học của trường này. Nếu thành tích những năm cấp III xuất sắc, cô chỉ cần thi vấn đáp là có thể vào trường đại học nữ Seika. Có điều, cánh cửa vào trường này cũng có thể thu hẹp lại tùy vào khoa cô muốn học. Yukiho muốn vào khoa Văn học Anh, một khoa có tỷ lệ cạnh tranh cao nhất. Để đảm bảo giành được cơ hội lên thẳng đại học, thành tích học tập của cô phải luôn đứng hàng đầu trong suốt cả năm. Hầu như tất cả các môn học của Yukiho đều có kết quả rất xuất sắc, chỉ riêng môn Toán là hơi yếu. Bà Reiko lo lắng vì điều này, nên mới nghĩ đến việc mời gia sư. Mong rằng có thể duy trì thành tích trong mấy hạng đầu cho đến học kỳ I năm lớp mười hai... Đó là mong muốn bà Reiko đưa ra trong lần gặp mặt đầu tiên. Vì kết quả học tập từ năm lớp mười cho đến học kỳ I năm lớp mười hai đều trở thành tài liệu tham khảo trong trường hợp vào học qua giới thiệu. “Nếu hồi đó tôi cứ để Yukiho học ở trường cấp II công lập như cũ thì có lẽ sang năm học ôn thi đại học càng vất vả hơn. Nghĩ tới chuyện này, tôi cảm thấy lúc bấy giờ cho em nó vào ngôi trường hiện nay là rất đúng.” Karasawa Reiko hai tay nâng cốc thủy tinh lên, bộc bạch.
“Đúng đấy ạ, thi cử càng ít càng tốt.” Masaharu nói. Đây cũng là điều anh ta vẫn thường nghĩ, và từng nói với những phụ huynh học sinh mà mình phụ đạo từ bấy đến giờ. “Vì vậy, gần đây ngày càng có nhiều bố mẹ ngay từ giai đoạn con vào cấp I đã chọn trường dân lập trực thuộc đại học.”
Bà Reiko nghiêm trang gật đầu. “Đúng vậy, làm thế là chuẩn nhất, tôi cũng nói thế với đám cháu đấy. Việc thi cử của con trẻ, tốt nhất là giải quyết một lần từ sớm đi. Càng về sau, muốn vào trường tốt lại càng khó khăn.”
“Bác nói không sai chút nào.” Masaharu gật đầu, nhưng ngay sau đó lại thấy hơi nghi hoặc, bèn hỏi lại, “Yukiho đi học cấp I ở trường công lập ạ, khi đó em ấy không tham gia thi ạ?”
Bà Reiko nghiêng đầu như thể đang suy nghĩ, rồi trầm ngâm một hồi, vẻ hơi do dự. Không lâu sau, bà ngẩng đầu lên. “Nếu khi ấy em nó ở với tôi, tôi nhất định sẽ khuyên như thế, nhưng bấy giờ tôi còn chưa gặp em nó. So với Tokyo, ở Osaka còn ít cha mẹ có ý tưởng cho con vào trường tư thục. Quan trọng nhất là dù có muốn vào trường tư thục, hoàn cảnh của con bé lúc đó cũng không cho phép.”
“Ồ, ra là thế...” Masaharu hơi hối hận, có lẽ anh đã động đến một vấn đề nhạy cảm. Lần đầu khi nhận công việc này, anh ta đã nghe nói Yukiho không phải con gái ruột của Karasawa Reiko. Nhưng cô trở thành con gái nuôi trong trường hợp nào thì không ai nói cho anh ta biết cả, trước đây ba Reiko cũng chưa từng đề cập đến. “Cha ruột của Yukiho có thể coi như em họ của tôi, có điều hồi em nó còn nhỏ chú ấy không may gặp nạn qua đời, vì vậy gia đình cũng khá khó khăn về tiền bạc. Vợ chú ấy tuy có ra ngoài làm việc, nhưng một người đàn bà phải nuôi con gái một mình, thực sự không dễ dàng chút nào.”
“Mẹ ruột em ấy sao rồi ạ?”
Masaharu vừa hỏi, nét mặt Reiko lại càng thêm u uất. “Cô ấy cũng chết vì tai nạn, tôi nhớ đó là hồi Yukiho vừa lên lớp sáu. Hình như là... tháng Năm thì phải.”
“Tai nạn giao thông ạ?”
“Không phải, là trúng độc khí gas.”
“Khí gas...”
“Nghe nói cô ấy bật bếp đun nấu, nhưng lại ngủ thiếp đi mất. Sau do nước canh trào ra làm tắt mất ngọn lửa, cô ấy đang ngủ nên không phát hiện, vậy là trúng độc. Tôi nghĩ nhất định là cô ấy mệt mỏi quá.” Bà Reiko tỏ vẻ buồn rầu, hàng lông mày mỏng mảnh chau lại.
Masaharu nghĩ, chuyện này rất có thể. Gần đây, các nhà trong thành phố đã dần chuyến sang dùng khí thiên nhiên, bình thường không còn xảy ra hiện tượng trúng độc ô xít các bon do khí gas tạo thành nữa, nhưng trước đây thường xuyên xảy ra những tai nạn tương tự.
“Thảm thương nhất là, người phát hiện ra cô ấy đã chết chính là Yukiho. Hễ cứ nghĩ khi ấy em nó phải chịu đựng nỗi kinh hãi lớn chừng nào, lòng tôi lại thấy xót xa...” Bà Reiko đau đớn lắc đầu.
“Tự em ấy phát hiện ra ạ?”
“Không. Nghe nói là cửa phòng bị khóa, nó nhờ nhân viên quản lý khu nhà đến mở cửa, tôi nghĩ là em nó và người nhân viên quản lý kia cùng phát hiện ra.”
“Ồ.” Masaharu nghĩ, người kia đúng là gặp phải tai bay vạ gió, lúc phát hiện ra xác chết, nhất định sợ đến tái mét mặt. “Chính vì tai nạn ấy mà Yukiho thành ra không nơi nương tựa ạ?”
“Đúng thế, tôi cũng có mặt trong tang lễ, Yukiho ôm lấy quan tài khóc lóc thảm thiết. Nhìn thấy cảnh ấy, cả người lớn chúng tôi cũng nát lòng theo...”
Dường như lại hình dung thấy tình cảnh lúc ấy, bà Reiko chớp chớp mắt liên tục.
“Vì vậy, ừm, bác quyết định nhận nuôi em ấy?”
“Vâng.”
“Có phải vì bác và gia đình em ấy qua lại thân thiết nhất không ạ?”
“Nói thực lòng, tôi với mẹ để của Yukiho không qua lại gì mấy. Hai nhà tuy ở khá gần nhau, nhưng cũng không phải khoảng cách có thể đi bộ được. Có điều, từ trước khi cô Fumiyo qua đời, tôi và Yukiho đã thường xuyên gặp nhau rồi. Con bé thường tới chỗ tôi chơi.”
“Ồ...”
Masaharu cảm thấy khó hiểu là tại sao Yukiho lại tự mình chạy đến nhà một người họ hàng không hề qua lại thân thiết với mẹ mình để chơi? Có lẽ thấy suy nghĩ đó lộ rõ trên gương mặt anh nên bà Reiko bèn nói rõ hơn, “Tôi và Yukiho gặp nhau lần đầu tiên vào ngày giỗ thứ bảy của bố con bé. Chúng tôi có nói chuyện một lúc, con bé hình như vô cùng hứng thú với chuyện tôi dạy trà đạo, háo hức hỏi rất nhiều vấn đề. Tôi liền nói, nếu cháu hứng thú như thế thì đến nhà bác chơi đi. Chuyện này chắc là khoảng một, hai năm trước khi mẹ đẻ em nó qua đời. Sau đó chẳng bao lâu, em nó tìm đến nhà làm tôi hơi ngạc nhiên, vì lúc đấy chỉ thuận miệng nói thế thôi. Có điều, hình như em nó thật lòng muốn học trà đạo, mà tôi lại đang cô đơn vì sống có một minh, bèn coi đó như một trò chơi, dạy cho em nó. Vậy là, hầu như tuần nào em nó cũng tự ngồi xe buýt đến, uống trà tôi pha, kể cho tôi những chuyện xảy ra ở trường. Không lâu sau, những buổi đến chơi của em nó trở thành chuyện tôi mong chờ nhất. Khi nào em nó bận không đến được, tôi lại thấy rất buồn.”
“Vậy Yukiho đã bắt đầu học trà đạo từ lúc ấy ạ?”
“Phải. Có điều, không lâu sau em nó cũng bắt đầu hứng thú với nghệ thuật cắm hoa. Lúc tôi cắm hoa, em nó sẽ ở bên cạnh hào hứng quan sát, có lúc cũng góp một tay cho vui, lại xin tôi dạy cho em nó cách mặc kimono nữa.”
“Cứ như là lớp học cô dâu ấy nhỉ?” Masaharu cười cười nói.
“Chính là cảm giác ấy đấy. Có điều, vì em nó còn nhỏ, hẳn nên gọi là chơi đồ hàng thôi, con bé ấy, lại còn học cách nói chuyện của tôi nữa chứ. Tôi có bảo rằng em nó đừng học theo, tôi xấu hổ lắm, nhung em nó lại nói ở nhà nghe mẹ nói chuyện, ngôn ngữ của mình cũng trở nên thô tục, vì vậy muốn sửa đổi thông qua chỗ tôi.”
Đến giờ anh ta mới hiểu, những cử chỉ cao nhã hiếm thấy ở nữ sinh cấp III của Yukiho thì ra đã được bồi dưỡng từ khi đó. Đương nhiên, bản thân cô phải muốn trước đã. “Bác nói vậy cháu mới nhớ, Yukiho nói chuyện đúng là không có chút giọng Kansai nào cả.”
“Tôi giống thầy giáo Nakamichi, hồi trước vẫn sống ở vùng Kanto, gần như không nói được tiếng Kansai, nhưng em nó lại bảo nói như vậy mới hay.”
“Cháu nói tiếng Kansai cũng không giỏi lắm đâu.”
“Vâng, Yukiho bảo nói chuyện với thầy giáo Nakamichi rất thoải mái. Nếu phải nói chuyện với người nào có khẩu âm Osaka nặng quá, còn phải cẩn thận đề phòng bị ảnh hưởng, nên nói chuyện rất mệt.”
“Ồ, nhưng rõ ràng em ấy sinh ra và lớn lên ở Osaka mà.”
“Em nó nói, em nó cũng ghét cả điều ấy đấy.”
“Thật ạ?”
“Vâng.” Người phụ nữ vừa bước vào tuổi lão niên ấy bặm môi gật đầu, rồi lại hơi nghiêng đầu, “Chỉ là, có điều này làm tôi hơi lo lắng. Con bé ấy vẫn luôn sống cùng một người lớn tuổi như tôi nên tôi sợ em nó sẽ thiếu sự hoạt bát của các cô gái trẻ bây giờ. Nếu em nó hư đốn quá tôi cũng sẽ đau đầu, nhưng nó lại ngoan quá, tôi thậm chí cảm thấy em nó có quậy phá một chút cũng không làm sao cả. Thầy giáo Nakamichi, nếu tiện, xin nhờ thầy dẫn em nó ra ngoài chơi nhé.”
“Cháu? Có được không ạ?”
“Tất nhiên thầy giáo Nakamichi thì tôi yên tâm lắm.”
“Vâng. Vậy thì để lần sau cháu thử rủ em ấy ạ.”
“Xin thầy hãy làm thế, tôi nghĩ em nó nhất định sẽ rất vui.”
Lời này của bà Reiko dường như đã kết thúc câu chuyện, Masaharu lại đưa tay cầm cái cốc thủy tinh lên. Vì đang muốn tìm hiểu thêm về Yukiho nên anh ta không hề thấy cuộc đối thoại này khô khan nhạt nhẽo. Thế nhưng, Masaharu cho rằng người mẹ nuôi này dường như cũng không hoàn toàn hiểu cô. Cô bé Karasawa Yukiho, không cổ hủ như bà Reiko nghĩ, mà cũng không phải quá ngoan ngoãn. Có một chuyện đã để lại ấn tượng sâu sắc cho anh ta. Hồi tháng Bảy, sau khi kết thúc buổi học kéo dài hai tiếng như thường lệ, anh ta uống cà phê được bưng lên, nói chuyện phiếm với Yukiho. Chủ đề câu chuyện khi ấy chắc chắn có liên quan đến cuộc sống ở trường đại học, vì anh ta biết cô thích nghe chuyện này. Bọn họ nói chuyện được chừng năm phút thì có điện thoai gọi đến. Bà Reiko lên gọi, bảo là, “Một người ở ban tổ chức cuộc thi hùng biện tiếng Anh tìm con.”
“Vâng, con biết rồi.” Yukiho gật đầu, đi xuống dưới nhà. Masaharu uống nốt cốc cà phê, rồi đứng dậy.
Lúc anh ta xuống nhà, Yukiho đang đứng bên cạnh chiếc điện thoại đặt ngoài hành lang nói chuyện. Nét mặt cô thoạt trông có vẻ căng thẳng. Nhưng khi anh ta giơ tay ra hiệu với cô, ý bảo mình đi về, cô lại nhoẻn miệng cười chào rồi nhẹ nhàng vẫy tay.
“Yukiho giỏi thật, còn tham gia thi hùng biện tiếng Anh nữa.” Masaharu nói với bà Reiko lúc bà tiễn anh ta ra ngoài tiền sảnh.
“Tôi không biết. Tôi không nghe nó nhắc gì cả.” Bà Reiko nghiêng đầu nói.
Sau khi rời nhà Karasawa, Masaharu vào một quán mì sợi bên cạnh ga Shitennoji, ăn bữa tối muộn, chuyện này đã trở thành thói quen mỗi thứ Ba của anh ta. Anh ta vừa ăn há cảo và cơm rang, vừa xem ti vi trong quán, nhưng lúc vô tình nhìn qua cửa kính ra ngoài, anh ta chợt trông thấy một cô gái trẻ rảo chân bước nhanh ra phố lớn. Masaharu lập tức trợn to mắt, vì đó không phải ai khác, mà chính là Yukiho. Có thể là chuyện gì? Từ nét mặt của cô anh ta cảm giác được sự việc không phải đơn giản. Ra đến đường lớn, cô vội vội vàng vàng bắt tắc xi. Kim đồng hồ chỉ mười giờ. Dù nghĩ thế nào, cũng chỉ có một kết luận, nhất định là có chuyện đột xuất gì đó. Masaharu rất lo lắng, bèn dùng diện thoại ở quán mì gọi đến nhà Karasawa. Sau khi chuông đổ mấy lần, bà Reiko bắt máy.
“Ồ, thầy Nakamichi. Có chuyện gì vậy?” Nghe thấy giọng anh ta, bà ngạc nhiên hỏi, hoàn toàn không có cảm giác lo lắng.
“Xin hỏi... cô Yukiho ở nhà không ạ?”
“Yukiho? Để tôi gọi em nó xuống nghe điện.”
“Ơ? Em ấy đang ở cạnh bác ạ?”
“Không, ở trong phòng. Em nó nói ngày mai ở câu lạc bộ có chuyện, phải tập hợp từ sáng sớm, muốn đi ngủ sớm một chút. Có điều chắc em nó vẫn còn tỉnh đấy.”
Vừa nghe thấy những lời này, Masaharu lập tức nhận ra mình đã làm một chuyện không nên. “À, vậy không cần đâu ạ. Để lần sau tới nhà cháu trực tiếp nói với em ấy, cũng không phải chuyện gấp gì.”
“Ồ? Nhưng mà...”
“Thật sự không sao đâu ạ, xin cứ để em ấy ngủ ạ.”
“Ồ. Vậy để sáng mai tôi bảo em nó là thầy Nakamichi có gọi điện tìm nó.”
“Vâng, vậy nhờ bác chuyển lời giúp cháu. Cháu xin lỗi, muộn như vậy rồi mà còn làm phiền bác.” Masaharu vội vàng dập máy, hai bên nách ướt sũng mồ hôi. Có lẽ Yukiho đã giấu mẹ lén lút trốn ra ngoài. Chắc hẳn có liên quan đến cuộc điện thoại lúc nãy. Mặc dù rất tò mò muốn biết cô đi đâu, nhưng anh ta không muốn cản trở cô. Chỉ mong lời nói dối của Yukiho sẽ không vì cú điện thoại của mình mà bị lộ, anh ta thầm nghĩ. Ngày hôm sau, nỗi lo lắng của anh ta đã được xua tan. Yukiho gọi điện thoại cho anh ta.
“Thầy ạ, mẹ em bảo tối qua thầy gọi điện cho em. Em xin lỗi, sáng sớm nay em có buổi luyện tập ở câu lạc bộ nên tối qua đi ngủ rất sớm.”
Nghe cô nói vậy, Masaharu liền biết lời nói dối của cô không bị lộ. “Cũng không có gì, chỉ là không biết xảy ra chuyện gì nên tôi hơi lo lắng thôi.”
“Không biết xảy ra chuyện gì là sao ạ?”
“Tôi thấy em lo lắng ngồi lên tắc xi.”
Y như rằng, cô lặng thinh trong mấy giây, sau đó mới thấp giọng hỏi, “Thầy trông thấy ạ?”
“Tôi ngồi trong quán mì.” Masaharu cười cười nói.
“Ra vậy, có điều, thầy đã giúp em giữ bí mật với mẹ có phải không ạ?”
“Vì nếu bị mẹ em biết, có vẻ sẽ gay đấy.”
“Vâng, đúng thế, sẽ hơi gay ạ.” Cô cũng cười.
Từ phản ứng của cô, Masaharu suy đoán sự việc cũng không nghiêm trọng đến mức ấy. “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì vậy? Tôi đoán chắc là có liên quan đến cuộc điện thoại trước đó.”
“Thầy tinh thật, không sai chút nào.” Nói đoạn, cô hạ giọng. “Là bạn em tự sát không thành.”
“Hả? Tự sát?”
“Hình như do sốc vì bị bạn trai đá. Thế nên mấy đứa bạn thân chúng em vội vàng chạy đến chỗ cậu ấy. Nhưng mà, chuyện này không thể nói với mẹ được.”
“Đúng vậy. Thế bạn em sao rồi?”
“Ừm, ổn rồi ạ. Sau khi thấy bọn em, cậu ấy đã trở lại bình thường.”
“Vậy thì tốt rồi.”
“Cậu ấy đúng là ngốc quá, chẳng qua chỉ là đàn ông thôi mà, việc gì phải tìm đến cái chết như vậy.”
“Đúng thế.”
“Thế nên là,” Yukiho cởi mở tiếp lời, “chuyện này phiền thầy giữ bí mật giùm em.”
“Được, tôi biết rồi.”
“Vậy, tuần sau gặp thầy nhé.” Cô gác máy.
Nhớ lại câu chuyện lúc ấy, đến nay Masaharu vẫn không khỏi cười thiểu não. Anh ta không thể ngờ lại nghe thấy một câu kiểu “chẳng qua chỉ là đàn ông thôi mà” từ miệng cô. Anh ta nhận thức một cách sâu sắc, nội tâm của các cô gái trẻ thực sự là thứ người khác không thể nào tưởng tượng nổi.
Bác không cần lo lắng, thiên kim tiểu thư nhà bác không non nớt như bác nghĩ đâu... anh ta rất muốn nói với người phụ nữ đang ngồi trước mặt mình như thế. Lúc anh ta uống hết trà, ngoài tiền sảnh vẳng lên tiếng mở cửa.
“Hình như về rồi.” Bà Reiko đứng dậy.
Masaharu cũng rời khỏi chỗ ngồi, liếc nhanh vào cái bóng phản chiếu trên cửa kính hướng ra sân, kiểm tra xem đầu tóc có rối không.
Thằng ngốc này, hồi hộp gì cơ chứ! Masaharu thầm thóa mạ cái bóng trên cửa kính.
2
Nakamichi Masaharu là người của phòng nghiên cúu số 6 bộ môn Kỹ thuật điện thuộc khoa Kỹ thuật trường đại học Kitaosaka, đề tài nghiên cứu tốt nghiệp mà anh ta lựa chọn là điều khiển người máy bằng phương pháp sử dụng lý thuyết đồ thị. Nói cụ thể tức là làm cho máy tính có thể phán đoán được hình dạng lập thể của sự vật chỉ với nhận thức thị giác đơn hướng. Anh ta đang ngồi trước bàn sửa chữa mã lệnh chương trình thì nghiên cứu sinh Minobe gọi. “Này, Nakamichi, đến xem cái này này.”
Minobe đang ngồi trước chiếc máy tính cá nhân hiệu HP, mắt nhìn chăm chăm vào màn hình. Masaharu đến đứng sau lưng đàn anh, nhìn vào màn hình đen trắng, trên đó hiển thị ba hình vuông nhỏ và một hình vẽ trông giống như chiếc tàu ngầm. Anh ta nhận ra màn hình này, đó là trò chơi được bọn họ gọi là “Submarine”, cách chơi là nhanh chóng đánh chìm tàu ngầm của kẻ địch đang lặn sâu dưới đáy biển. Dựa vào mấy số liệu của ba tọa độ được đưa ra để suy đoán vị trí kẻ địch, chính là niềm vui của trò chơi này. Đương nhiên, nếu chỉ lo tấn công, sẽ bị địch phát hiện vị trí của bên mình, dẫn đến bị phản kích bằng ngư lôi. Trò chơi này do các sinh viên và nghiên cứu sinh của phòng nghiên cứu số 6 tranh thủ khoảng thời gian rảnh rỗi làm ra. Việc lập trình và nhập liệu đều tiến hành chung, có thể nói là đề tài nghiên cứu tốt nghiệp không công khai của bọn họ.
“Có gì không ổn ạ?” Masaharu hỏi.
“Cậu nhìn kỹ xem, có chút khác biệt so với Submarine của chúng ta.”
“Ồ!”
“Chẳng hạn như cách thức hiển thị tọa độ này, và cả hình dạng tàu ngầm cũng hơi khác.”
“Ơ?” Masaharu quan sát kỹ những phần đó, “Đúng rồi.”
“Kỳ lạ lắm phải không?”
“Vâng ạ, có người sửa chương trình ạ?”
“Nhưng, không phải vậy.”
Minobe khởi động lại máy tính, ấn nút chiếc máy cát xét đặt bên cạnh, lấy cuộn băng bên trong ra. Chiếc máy cát xét này không phải loại dùng để nghe nhạc, mà là thiết bị lưu trữ bên ngoài của máy tính cá nhân. Mặc dù hãng IBM đã công bố phương thức lưu trữ sử dụng đĩa từ, nhưng thiết bị lưu trữ bên ngoài của máy tính cá nhân đa số vẫn là băng cát xét.
“Tôi bỏ cái này vào, khởi động xong liền hiện lên như vừa rồi.” Minobe đưa băng cát xét cho Masaharu. Nhãn trên cuộn băng chỉ đề “Marine Crash”, là kiểu chữ in chứ không phải viết tay.
“Marine Crash? Đây là cái gì?”
“Cậu Nagata bên phòng 3 cho tôi mượn đấy.” Minobe nói. Phòng 3 là cách nói tắt của Phòng nghiên cứu số 3.
“Sao anh ấy lại có thứ này?”
“Vì cái này.” Minobe lấy vé tháng trong túi quần bò, rút ra một tờ giấy đã gấp nhỏ, chắc là cắt từ tạp chí. Anh ta mở tờ giấy đó ra. Bán các loại trò chơi máy tính cá nhân qua đường bưu điện... một hàng chữ đập vào mắt. Bên dưới còn có tên 150 sản phẩm và giới thiệu đơn giản về trò chơi, cùng với bảng giá. Sản phẩm tổng cộng có ba mươi loại, giá rẻ thì khoảng hơn một nghìn yên, đắt thì chừng hơn năm nghìn yên. Marine Crash nằm ở khoảng giữa của bảng giá, nhưng kiểu chữ đậm hơn các trò khác, còn phụ chú thêm, “Mức độ hấp dẫn ★★★★★”. Ngoài ra, còn có ba trò chơi khác cũng dùng kiểu chữ đậm, nhưng chỉ có trò này được đánh dấu bốn sao, vừa nhìn đã biết là bên bán đang ra sức giới thiệu. Bên bán là một công ty tên “Kế hoạch Vô hạn”, cái tên Masaharu chưa từng thấy cũng chưa từng nghe ai nhắc đến bao giờ.
“Đây là cái gì? Lại có cả người làm nghiệp vụ bán hàng qua bưu điện này ư?”
“Gần đây thỉnh thoảng tôi cũng thấy, nhưng không để ý, có điều Nagata bên phòng 3 nói cậu ta đã biết từ lâu rồi. Thấy nội dung của trò Marine Crash này rất giống với Submarine của chúng ta, cậu ta cũng lấy làm lạ. Sau đấy, cậu ta có người bạn đặt mua đồ ở đây, liền đi mượn xem thế nào. Kết quả như cậu đã thấy đấy, nội dung giống hệt. Cậu ta giật nẩy mình, liền chạy đến báo cho tôi.”
“Chậc...” Masaharu như người lạc giữa sương mù.
“Chuyện này là sao?”
“Submarine,” Minobe vừa nói vừa dựa lưng vào ghế, tiếng kim loại bị đè xuống kêu ken két, “là tác phẩm của chúng ta sáng tạo ra. Thật ra, nói chính xác hơn, là chúng ta dựa trên cơ sở trò chơi các sinh viên học viện Kỹ thuật Massachusetts tạo ra, nhưng mà, thứ này được triển khai nhờ ý tưởng sáng tạo của chúng ta, điểm này thì không có gì để nghi ngờ nữa. Không thể tồn tại một sự ngẫu nhiên là một người hoàn toàn không liên quan, ở một nơi hoàn toàn không liên quan cũng có cùng ý tưởng sáng tạo như vậy, lại còn thực hiện một cách cụ thể ra nữa, đúng không?”
“Nói như vậy...”
“Khả năng duy nhất, chính là trong số chúng ta có người tiết lộ mã lệnh chương trình của Submarine cho cái công ty Kế hoạch Vô hạn này.”
“Không thể nào chứ?”
“Cậu nghĩ ra được khả năng khác không? Có quy định là chỉ những người làm mới có chương trình Submarine trong tay, nếu không phải trường hợp đặc biệt thì cũng không được tùy tiện cho người khác mượn.”
Masaharu im lặng trước câu hỏi của Minobe. Đúng vậy, anh ta thực sự không nghĩ ra khả năng nào khác. Sự thực đã bày ra trước mắt, trò chơi rất giống Submarine của bọn họ đang được bán thông qua đường bưu điện.
“Có cần tập hợp mọi người lại không ạ?” Masaharu đề nghị.
“Cần đấy. Sắp nghỉ trưa rồi, bảo mọi người ăn cơm xong tập trung ở đây đi. Hỏi tất cả mọi người, có thể sẽ có đầu mối. Đương nhiên, với điều kiện là người đó không nói dối.” Minobe nhếch mép, dùng đầu ngón tay đẩy gọng kính vàng.
“Em thực khó lòng tưởng tượng nổi có người nào lại phản bội mọi người, đem thứ đó bán cho người ngoài.”
“Nakamichi, cậu tin mọi người thì tùy cậu thôi nhưng rõ ràng có người đã phản bội.”
“Cũng chưa chắc đã là cố tình đúng không?”
Nghe Masaharu nói vậy, Minobe nhướng mày lên. “Cậu nói thế là có ý gì?”
“Cũng có thể người đó đã bị trộm mất mã lệnh chương trình mà không hay biết.”
“Ý cậu là, thủ phạm không phải thành viên, mà là người quen của các thành viên sao?”
“Đúng.” Mặc dù không thích cách nói “thủ phạm” này nhưng Masaharu vẫn gật đầu.
“Dù thế nào, cũng cần phải hỏi tất cả mọi người trong nhóm.” Nói đoạn, Minobe khoanh hai tay trước ngực.
Tổng cộng có sáu người, bao gồm cả Minobe, tham gia nghiên cứu làm ra Submarine. Trong giờ nghỉ trưa, tất cả đều tập trung tại phòng nghiên cứu số 6. Minobe thuật lại toàn bộ sự việc nhưng tất cả đều khăng khăng nói mình hoàn toàn không hay biết.
“Thứ nhất, nếu làm chuyện đó, chắc chắn sẽ có lúc lòi đuôi ra. Làm gì có người nào ngu đến mức không nghĩ đến vấn đề này chứ.” Một sinh viên năm thứ tư nói với Minobe.
Một người khác lại nói, “Nếu đã muốn bán, đương nhiên phải thương lượng với mọi người xong rồi chúng ta tự bán chứ, như vậy đảm bảo kiếm được nhiều tiền hơn.”
“Có ai từng đem mã lệnh chương trình cho người khác mượn không?” Minobe đưa ra câu hỏi.
Có ba sinh viên trả lời, từng cho bạn mượn chơi, nhưng đều là khi bọn họ có mặt tại đấy, ai nấy đều đảm bảo bạn mình không có thời gian sao chép lại mã lệnh.
“Nói như vậy, chắc là có người tự tiện mang mã lệnh chương trình ra ngoài rồi.” Minobe nói rồi yêu cầu mỗi người phải trình bày rõ cách quản lý băng cát xét ghi lại mã lệnh chương trình. Nhưng, không ai nói là đã đánh mất cả.
“Mọi người thử nghĩ lại xem. Nếu không phải chúng ta, thì tức là bên cạnh chúng ta có người tự tiện đem Submarine đi bán cho người khác, mà người bỏ tiền ra mua ấy, lại công nhiên mang đi chào bán khắp nơi.” Minobe đau khổ nói rồi lần lượt đưa mắt nhìn chằm chằm từng người trong bọn.
Sau khi giải tán, Masaharu trở về chỗ ngồi, lục lọi ký ức xác nhận thêm lần nữa. Kết luận cuối cùng là ít nhất thì cuộn băng cát xét của anh ta không có khả năng bị người khác lấy trộm. Bình thường, anh ta đều cất băng cát xét lưu trữ các số liệu khác và băng chứa Submarine trong ngăn kéo bàn học ở nhà. Nhũng lúc mang ra ngoài cũng luôn cầm trên tay không rời ra phút nào, thậm chí còn chưa từng để cuộn băng lại phòng nghiên cứu. Nói cách khác, đồ vật tuyệt đối không thể bị trộm từ chỗ anh ta được. Dù vậy, nhưng chuyện này đã khiến anh ta có một cảm tưởng hoàn toàn khác. Anh ta không thể ngờ được chương trình họ tạo ra với mục đích tiêu khiển lại có thể trở thành hàng hóa. Có khi, đây sẽ là một cơ hội kinh doanh hoàn toàn mới mẻ...
3
Vào khoảng nửa tháng sau cuộc nói chuyện với bà Reiko, Masaharu chợt nhớ đến thân thế của Karasawa Yukiho khi anh ta đi với bạn đến thư viện tỉnh ở Nakanoshima để tra tìm tư liệu. Người bạn này là đồng đội của anh ta trong câu lạc bộ Khúc côn cầu trên băng, họ Kakiuchi. Để viết bài, Kakiuchi đang tìm hiểu lại các tin tức hồi trước.
“Ha ha! Đúng đúng đúng, chính là lúc đó, tôi cũng thường bị sai đi mua giấy vệ sinh.” Kakiuchi xem bản in thu nhỏ đang mở ra của tờ báo, thì thầm. Trên bàn đặt mười hai tập bản in thu nhỏ, từ tháng Bảy năm 1973 cho đến tháng Sáu năm 1974, mỗi tháng một tập. Masaharu ở bên cạnh liếc nhìn. Kakiuchi đang xem một bài báo ngày 2 tháng Mười một năm 1973, nội dung là tại khu bán giấy vệ sinh trong siêu thị thuộc khu độ thị mới ở Senri tỉnh Osaka chen chúc gần ba trăm khách mua hàng. Đó là chuyện của thời khủng hoảng dầu mỏ, Kakiuchi đang điều tra về nhu cầu năng lượng điện nên cần phải đọc các bài báo có liên quan vào thời điểm đó.
“Ở Tokyo cũng có tình trạng tranh mua tích trữ chứ?”
“Hình như là có. Nhưng ở Tokyo, có lẽ tranh mua xà phòng giặt ác liệt hơn giấy vệ sinh. Em họ tôi nói, không biết nó đã bị sai đi mua bao nhiêu lần nữa.”
“Ồ, ở đây có viết này, có bà nội trợ đã mua bốn mươi nghìn yên tiền xà phòng giặt tại một siêu thị ở Tama. Đây chắc không phải họ hàng nhà cậu đấy chứ?” Kakiuchi cười cười trêu anh ta.
“Nói nhảm.” Masaharu cũng cười đáp lại.
Masaharu thầm nghĩ, khi ấy mình đang làm gì nhỉ? Thời điểm đó anh ta đang học lớp mười, vừa chuyển đến Osaka không lâu, đang cố gắng để thích ứng với hoàn cảnh mới. Anh ta đột nhiên nghĩ, không biết lúc đó Yukiho học lớp mấy, tính nhẩm trong đầu thì ra cô học lớp năm. Nhưng anh ta không thể tưởng tượng nổi hình ảnh của cô hồi cấp I. Ngay sau đó, Masaham chợt nhớ đến lời Karasawa Reiko.
“Cũng chết vì tai nạn, tôi nhớ đó là hồi Yukiho vừa lên lớp sáu. Hình như là... tháng Năm thì phải.”
Bà muốn nói đến mẹ đẻ của Yukiho. Yukiho học lớp sáu, nghĩa là năm 1974. Masaharu tìm trong đống bản in thu nhỏ tập của tháng Năm năm 1974, mở ra trên bàn. Tháng đó đã xảy ra các sự kiện như “Hạ nghị viện thông qua luật Phòng chống ô nhiễm bầu khí quyển”, “Các phụ nữ chủ trương nữ quyền tập trung ở Hạ nghị viện để phản đối dự thảo sửa đổi luật Bảo vệ thuyết ưu sinh”... Ngoài ra, còn có tin về cửa hàng 7-Eleven đầu tiên do hiệp hội Người tiêu dùng Nhật Bản khởi xướng, đã có mặt tại quận Koto, Tokyo. Masaharu lật đến trang xã hội, thoáng sau liền tìm thấy một bài báo ngắn, tiêu đề “Bếp gas tắt lửa ở quận Ikuno thành phố Osaka làm một người chết do nhiễm độc”, nội dung như sau:
“Khoảng năm giờ chiều ngày 22, nhân viên công ty quản lý nhà trọ phát hiện Nishimoto Fumiyo (nữ, ba mươi sáu tuổi) khách thuê phòng 103 khu nhà trọ Yoshida, ở ngõ 47 Tây Oe quận Ikuno thành phố Osaka ngã gục trong phòng, đã nhanh chóng gọi xe cấp cứu, nhưng cô Nishimoto đã chết trước đó. Theo báo cáo điều tra của đồn cảnh sát Ikuno, lúc phát hiện thi thể, trong phòng nồng nặc mùi khí gas, có thể cô Nishimoto chết vì trúng độc. Hiện đang tiến hành điều tra nguyên nhân khí ga bị rò rỉ ra ngoài, theo phân tích, rất có khả năng là nồi xúp miso đang đun trên bếp bị trào gây tắt lửa mà cô Nishimoto không phát hiện ra.”
Chính là cái này! Masaharu đoan chắc. Bài báo gần như giống hệt những gì Karasawa Reiko nói với anh ta. Không thấy xuất hiện tên của Yukiho trong số những người phát hiện, có lẽ vì tòa soạn đã tuân thủ đạo đức nghề báo mà có biên tập thích hợp.
“Xem cái gì mà chăm chú thế?” Kakiuchi ở bên cạnh liếc sang.
“Ồ, cũng không có gì cả đâu.” Masaharu chỉ bài báo, nói rằng chuyện này xảy ra với học sinh anh ta đang dạy gia sư.
Kakiuchi lộ vẻ ngạc nhiên. “Chà, ghê thật, liên quan đến cả một sự việc được đăng báo nữa.”
“Tôi đâu có liên quan gì.”
“Nhưng cậu đang dạy đứa bé ấy còn gì?”
“Đúng.”
“Ưm...” Kakiuchi không hiểu sao lại phát ra một tiếng khịt mũi vẻ thán phục, rồi đọc lướt qua bài báo, “Khu Oe ở quận Ikuno à, gần nhà Naito đấy.”
“Naito? Thật à?”
“Chắc không lầm được đâu.”
Naito mà họ nhắc đến là đàn em trong câu lạc bộ Khúc côn cầu trên băng, học dưới hai bọn họ một khóa.
“Lần tới gặp tôi hỏi Naito xem sao.” Masaharu vừa nói vừa chép lại địa chỉ của khu nhà trọ Yoshida trong bài báo. Nhưng phải hai tuần sau đó, anh ta mới hỏi được Naito chuyện này. Vì lên năm thứ tư đại học, anh ta đã không còn tham gia hoạt động của câu lạc bộ Khúc côn cầu trên băng nữa, cũng hiếm có cơ hội gặp mặt đàn em. Masaharu đến câu lạc bộ, cũng là vì thiếu vận động nên bắt đầu phát phì, muốn hoạt động gân cốt một chút.
Naito nhỏ người, khá gầy. Mặc dù có kỹ thuật trượt băng rất tốt, nhưng thể trọng không đủ nên không đủ sức thi đấu ở cự ly gần. Tóm lại, cậu ta không phải một cầu thủ mạnh, nhưng được cái chu đáo cẩn thận, lại biết chăm sóc người khác, nên đảm nhiệm vị trí cán sự trong câu lạc bộ.
Masaharu tranh thủ thời gian trong lúc tập thể lực trên sân vận động tìm gặp Naito.
“Ồ, vụ tai nạn đó à? Em có biết, chuyện xảy ra từ mấy năm trước rồi ấy nhỉ?” Naito vừa lấy khăn bông lau mồ hôi vừa gật đầu, “Ở ngay gần nhà em, dù không phải chỉ cách vài bước chân, nhưng cũng là khoảng cách có thể đi bộ được.”
“Tai nạn đó có thành chủ đề bàn tán ở chỗ cậu không?” Masaharu hỏi.
“Nên gọi là chủ đề bàn tán không nhỉ? Nhưng mà có một số tin đồn kỳ lạ.”
“Đồn thế nào?”
“Chậc, bảo không phải tai nạn, mà là tự sát.”
“Ý cậu là, mở bếp gas tự tìm cái chết?”
“Đúng vậy.” Trả lời xong, Naito nhìn Masaharu, “Sao vậy ạ, anh Nakamichi? Sao anh lại quan tâm đến tai nạn đó?”
“Ừm, thực ra vụ đó có liên quan đến một người quen của tôi.”
Anh ta giải thích nguyên do với Naito, Naito kinh ngạc trợn tròn mắt lên. “Thì ra anh đang dạy gia sư cho đứa trẻ nhà ấy. Thật tình cờ nhỉ.”
“Đối với tôi thì chẳng phải tình cờ gì cả. Có điều, cậu nói kỹ hơn chút xem nào, tại sao lại có tin đồn tự sát?”
“Không biết, em không được rõ cho lắm, hồi ấy em mới học cấp III thôi mà.” Naito nghiêng nghiêng đầu, rồi ngay lập tức vỗ hai tay vào nhau như sực nhớ ra điều gì đó, “A! Phải rồi, hỏi chú ở đó, chắc là chú ấy biết chuyện.”
“Ai cơ?”
“Chú ở văn phòng bất động sản mà em thuê chỗ để xe. Chú ấy từng kể rằng có khách thuê mở van gas tự sát trong nhà trọ hại ông ấy một phen thê thảm. Chắc là nói đến căn nhà trọ ấy đấy.”
“Văn phòng bất động sản?” Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Masaharu, “Đó có phải người phát hiện ra xác chết không?”
“Chú ấy á?”
“Hình như người phát hiện ra xác chết chính là người của văn phòng bất động sản cho thuê khu nhà đó. Phiền cậu giúp tôi xác nhận một chút được không?”
“À... Chuyện đó thì được ạ.”
“Vậy nhờ cậu, tôi muốn tìm hiểu kỹ hơn một chút.”
“Vâng.”
Trong câu lạc bộ thể thao, quan hệ đàn anh đàn em là tuyệt đối. Bị đàn anh nhờ làm chuyện phiền phức kiểu này khiến Naito có vẻ bối rối song cũng chỉ biết gãi đầu chấp nhận.
Chiều hôm sau, Masaharu ngồi ở ghế trước của chiếc Toyota Carina do Naito lái, đây là xe cũ Naito mua lại của người anh họ với giá ba trăm nghìn yên. “Xin lỗi, làm phiền cậu mấy chuyện này.”
“Đâu có, không có gì đâu ạ, đằng nào cũng ngay gần nhà em.” Naito vui vẻ nói.
Chuyện hôm trước vừa nhận lời, Naito đã lập tức làm ngay. Cậu ta gọi điện cho người ở văn phòng nhà đất, bên trung gian giới thiệu chỗ đậu xe cho mình, hỏi xem ông có phải người phát hiện vụ trúng độc khí gas năm năm trước hay không. Người đó bảo người phát hiện cái xác không phải ông ta, mà là con trai ông ta. Người con trai đó giờ đang mở một văn phòng khác ở Fukaebashi. Fukaebashi ở quận Higashinari, nằm phía Bắc quận Ikuno. Tờ giấy ghi số điện thoại của người đó kèm theo bản đồ đơn giản, giờ đang ở trong tay Masaharu.
“Anh Nakamichi đúng là nghiêm túc thật. Có phải tìm hiểu gia cảnh của học sinh mình dạy gia sư sẽ giúp ích cho việc dạy học không ạ? Trong công việc làm thêm, em thực sự không thể nào làm được đến mức như anh đâu. Mà thật ra em không thế làm gia sư được.” Naito khâm phục nói. Thấy cậu ta tự suy diễn như thế, Masaharu cũng không nói gì. Thực ra, bản thân anh ta cũng không hiểu mình làm chuyện này để làm gì. Đương nhiên, Masaharu biết mình bị Yukiho hấp dẫn một cách mạnh mẽ, nhưng không phải vì vậy mà anh ta muốn biết mọi thứ về cô. Theo quan niệm của Masaharu, anh ta cho rằng chuyện trong quá khứ không có gì quan trọng cả. Anh ta nghĩ, mình làm vậy hẳn là vì không thể nào hiểu được cô bé ấy. Cho dù khoảng cách giữa hai người gần đến mức có thể chạm vào nhau, nói chuyện cũng rất thân mật, nhưng có lúc anh ta vẫn cảm thấy cô xa xôi ngoài tầm với. Masaharu không hiểu tại sao lại thế, vì vậy trong lòng anh ta mới dâng lên cảm giác nôn nao sốt ruột.
Naito chốc chốc lại bắt chuyện với anh ta, nói về các thành viên mới gia nhập câu lạc bộ năm nay. “Có thể nói là sàn sàn nhau. Người có kinh nghiệm ít lắm, vì vậy mùa đông năm nay là thời điểm mấu chốt.” Naito vốn coi trọng thành tích của câu lạc bộ còn hơn cả số học trình phải hoàn thành của mình, nói vẻ không hài lòng.
Văn phòng Fukaebashi của Bất động sản Tagawa nằm ở đường rẽ đầu tiên đại lộ Chuo, vừa khéo ngay cạnh nút giao Takaida trên đường cao tốc Hanshin tuyến Đông Osaka. Trong tiệm, một người gầy gò đang ngồi trước bàn điền giấy tờ, xem ra không có nhân viên nào khác. Người này nhìn thấy bọn họ, liền nói, “Xin chào quý khách, đến tìm căn hộ phải không?” Hiển nhiên anh ta cho rằng bọn họ muốn tìm nhà.
Naito giải thích với anh ta, bọn họ đến để hỏi thăm về vụ tai nạn ở khu căn hộ Yoshida. “Em hỏi thăm chú ở tiệm Ikuno, nghe nói người phát hiện vụ tai nạn ấy chính là quản lý của văn phòng bên này.”
“Ừm, đúng thế.” Ánh mắt cảnh giác của đối phương đảo qua đảo lại trên gương mặt hai người trẻ tuổi, “Đã qua lâu như vậy rồi, tại sao còn hỏi chuyện này?”
“Lúc phát hiện ra xác chết, có một cô bé đi cùng anh đúng không?” Masaharu nói, “Cô bé tên là Yukiho, khi ấy họ cô bé là Nishimoto... thì phải.”
“Đúng, là nhà Nishimoto. Cậu là họ hàng với nhà Nishimoto hả?”
“Yukiho là học sinh của em.”
“Học sinh? Ồ, thì ra cậu là thầy giáo ở trường.” Tagawa gật gật đầu tỏ ra đã hiểu rồi lại nhìn Masaharu lần nữa, “Thầy giáo trẻ nhỉ!”
“Là thầy giáo gia sư thôi.”
“Gia sư? Tôi hiểu rồi.” Trong mắt anh ta thoáng lộ vẻ coi thường, “Đứa trẻ ấy giờ ở đâu? Mẹ nó chết rồi, không phải thành ra không nơi nương tựa sao?”
“Em ấy được họ hàng nhận nuôi, một nhà họ Karasawa.”
“Hừm.” Tagawa dường như không hứng thú lắm với họ tên, “Nó có khỏe không? Từ đó về sau tôi cũng không gặp lại nó nữa.”
“Rất khỏe ạ, giờ đang học lớp mười một.”
“Chà, lớn vậy rồi cơ à.”
Tagawa rút một điếu thuốc trong bao Mild Seven, ngậm vào miệng. Masaharu thấy thế, thầm nhủ, không ngờ anh ta cũng thời thượng ra phết. Loại thuốc này được đưa ra thị trường hơn hai năm trước, mặc dù nhận xét chung cho rằng mùi vị không được ngon, nhưng rất được những người trẻ tuổi ưa cái mới hoan nghênh. Bạn bè của Masaharu có hơn nửa đều bỏ loại Seven Stars, đổi sang hút loại này.
“Thế, cô bé nói gì với cậu về vụ tai nạn đó?” Sau khi phả một hơi thuốc, Tagawa hỏi. Anh ta thấy đối phương nhỏ tuổi hơn mình, giọng điệu cũng không khách sáo nữa.
“Em ấy kể từng được anh Tagawa giúp đỡ rất nhiều.” Đương nhiên Masaharu nói dối, anh chưa từng nói chuyện này với Yukiho. Không thể nói được.
“Ồ, cũng không thể nói là giúp đỡ gì cả! Lúc đó sợ chết khiếp đi được.”
Có lẽ vì đang nhàn rỗi chẳng có việc gì làm, Tagawa dựa lưng vào ghế, hai tay gác ra sau gáy, kể lại ngọn ngành tình cảnh lúc phát hiện ra thi thể của Nishimoto Fumiyo. Masaharu cũng nhờ thế mà nắm được khái quát toàn bộ sự việc này. “So với lúc phát hiện thi thể, về sau lại càng phiền phức hơn. Cảnh sát đến hỏi nọ hỏi kia.” Tagawa chau mày nói.
“Hỏi chuyện gì thế ạ?”
“Chuyện lúc vào trong nhà ấy. Tôi đã bảo ngoại trừ mở cửa sổ với tắt công tắc gas ra thì không chạm vào chỗ nào hết, không hiểu bọn họ còn gì chưa hài lòng, lại hỏi tôi có chạm vào nồi không, rồi ngoài sảnh có phải đã khóa thật hay không. Đến chiu bọn họ luôn.”
“Cái nồi thì có vấn đề gì ạ?”
“Tôi cũng không biết. Bọn họ nói cái gì mà nếu xúp miso trào ra, xung quanh cái nồi lẽ ra phải bẩn hơn mới đúng. Nói thì nói thế, sự thực chính là nước xúp trào ra làm tắt lửa, còn cách giải thích nào khác đâu?”
Nghe Tagawa kể, trong đầu Masaharu cũng hình dung ra tình trạng lúc đó. Anh ta cũng từng bất cẩn làm nước sôi trong nồi trào ra lúc nấu mì ăn liền, xung quanh nồi đúng là bị bẩn thật.
“Dù sao, được một gia đình có thể thuê gia sư dạy thêm nhận nuôi, xét về kết quả mà nói, đối với con bé cũng là một chuyện tốt. Sống với người mẹ như thế, chắc con bé chỉ có nước chịu khổ thôi.”
“Mẹ em ấy có gì không ổn ạ?”
“Tôi không biết về tính cách có vấn đề gì không, nhưng cuộc sống chắc chắn là rất khổ. Hồi trước cô ta làm việc ở đâu như là quán mì udon, cũng phải khó khăn lắm mới trả được tiền thuê nhà, tiền nhà còn nợ dồn tháng này sang tháng khác nữa!” Tagawa ngửa mặt phả khói thuốc lên không trung.
“Thế cơ ạ?”
“Có thể vì cuộc sống rất khổ cực, con bé tên Yukiho ấy bình tĩnh lạ thường. Lúc phát hiện ra xác mẹ nó, thậm chí nó còn không rơi lấy một giọt nước mắt, làm tôi hơi bất ngờ.”
“Ồ...” Masaharu ngạc nhiên, đưa mắt nhìn lại Tagawa. Vì bà Reiko từng kể với anh ta, Yukiho khóc lóc rất thảm thương trong tang lễ của Fumiyo.
“Vụ đó, có giả thuyết rằng có thể là tự sát, đúng không ạ?” Naito ở bên cạnh xen vào.
“À, đúng thế đúng thế.”
“Chuyện ấy là sao ạ?” Masaharu hỏi.
“Hình như có mấy chi tiết chứng tỏ, suy nghĩ theo hướng ấy cũng hợp lý hơn. Đó là chuyện tôi nghe được từ một tay cảnh sát đến tìm tôi vài lần.”
“Hợp lý hơn là sao ạ?”
“Là những chuyện gì ấy nhỉ? Chuyện xảy ra lâu quá nên tôi quên mất rồi.” Tagawa day day thái dương, nhưng thoáng sau đã ngẩng đầu lên, “À, đúng rồi. Cô Nishimoto ấy đã uống thuốc cảm cúm.”
“Thuốc cảm cúm? Thế thì có gì lạ?”
“Không phải lượng thuốc bình thường. Dựa vào số vỏ thuốc rỗng, hình như một lần uống hơn năm lần lượng dùng thông thường. Hình như cái xác đã được đưa đi giải phẫu kết quả chứng minh đúng là đã uống nhiều như thế.”
“Hơn năm lần... chuyện đó đúng là rất kỳ quái.”
“Vì vậy cảnh sát mới nghi ngờ, liệu có phải là để cho dễ ngủ hay không. Chẳng phải có cách tự sát là uống thuốc ngủ rồi bật bếp gas đấy sao? Bọn họ nghĩ có lẽ vì thuốc ngủ rất khó mua, nên cô ấy mới dùng thuốc cảm để thay thế.”
“Thay thế thuốc ngủ...”
“Hình như còn uống khá nhiều rượu, nghe nói trong thùng rác có ba cái cốc đựng rượu trắng rỗng không. Người ta bảo cái cô ấy bình thường hầu như không uống rượu, vì vậy chắc cũng vì muốn ngủ nên mới uống chăng?”
“Đúng vậy.”
“À, đúng rồi, cả cửa sổ nữa.” Có lẽ ký ức đang dần dần trở lại, Tagawa bắt đầu liến thoắng nói.
“Cửa sổ?”
“Có người cho rằng cửa đóng kín mít như vậy hết sức kỳ lạ. Bếp của căn hộ ấy không có quạt thông gió, lúc nấu ăn vốn phải mở cửa sổ ra mới đúng.”
Masaharu nghe vậy liền gật đầu vẻ tán đồng. “Có điều,” anh ta nói, “cũng có thể là quên không mở ra.”
“Đúng thế,” Tagawa gật gù, “đây không thể coi là chứng cứ có sức thuyết phục để chứng minh cô ấy đã tự sát. Thuốc cảm cúm với rượu trong cốc cũng thế, giải thích theo cách khác vẫn thỏa đáng mà. Quan trọng hơn cả là, có đứa bé kia làm chứng.”
“Đứa bé ấy là...”
“Yukiho.”
“Làm chứng gì ạ?”
“Nó cũng không nói gì đặc biệt, chỉ chứng thực rằng nó bị cảm cúm, với lại những lúc mẹ nó thấy lạnh, thi thoảng cũng uống rượu trắng.”
“Cảnh sát nói, dù bị cảm cúm thì lượng thuốc ấy cũng rất kỳ lạ, nhưng cô ta uống nhiều thuốc như vậy rốt cuộc muốn làm gì thì chỉ có cách hỏi người chết mới biết. Vả lại, muốn tự sát thì cần gì phải để xúp miso trong nồi sôi trào ra ngoài chứ? Bởi vậy, sau này người ta liền coi là tai nạn mà khép lại vụ án.”
“Cảnh sát có nghi ngờ gì chuyện cái nồi không?”
“Có trời mới biết được. Đằng nào thì cũng không quan trọng, đúng không?” Tagawa dụi điếu thuốc vào gạt tàn, “Cảnh sát nói nếu phát hiện sớm nửa tiếng họa may còn cứu được. Dù là tự sát hay tai nạn, cô ta cũng chết rồi.”
Anh ta vừa dứt lời thì có người ở sau lưng bọn Masaharu bước vào, là một cặp nam nữ trung niên. “Xin chào quý khách!” Tagawa nhìn hai người khách, cất tiếng chào hỏi, gương mặt đùn lên nụ cười giả lả của người buôn bán. Masaharu hiểu anh ta sẽ không tiếp chuyện nữa, bèn đưa mắt ra hiệu cho Naito, cùng rời khỏi văn phòng.
4
Mái tóc dài ánh nâu che khuất gương mặt nghiêng của Yukiho. Cô dùng ngón giữa bàn tay trái gạt những sợi tóc ra sau tai, nhưng vẫn để sót vài sợi. Masaharu rất thích động tác vén tóc này của cô. Nhìn gò má mịn màng trắng như tuyết ấy, anh ta không ngăn được cảm giác xốn xang muốn hôn cô. Ngay từ buổi học đầu tiên đã thế rồi. Yukiho đang cố gắng giải bài toán tìm phương trình đường thẳng khi hai mặt phẳng cắt nhau trong không gian. Cách giải anh ta đã dạy rồi, cô cũng đã hiểu, cây bút bi trên tay cô gần như không hề dừng lại. Vẫn còn rất lâu mới đến thời gian Masaharu quy định, cô đã ngẩng đầu lên nói, “Giải xong rồi.” Masaharu cẩn thận kiểm tra lại công thức cô viết trong vở bài tập. Từng con số và ký hiệu đều rất rõ ràng, đáp án cũng chính xác.
“Làm đúng rồi, rất tốt, không có gì để chê trách cả.” Anh ta vừa nhìn Yukiho vừa nói.
“Thật ạ? Vui quá.” Cô vỗ nhẹ tay lên ngực.
“Chắc em cũng hiểu về tọa độ không gian rồi. Chỉ cần biết giải bài này thì những bài khác đều có thể coi như ứng dụng của bài này thôi.”
“Vậy có thể giải lao một lát không ạ? Em có mua hồng trà mới đấy.”
“Được, chắc em cũng hơi mệt rồi.”
Yukiho mỉm cười đứng dậy khỏi ghế, đi ra ngoài. Masaharu vẫn ngồi bên cạnh bàn, đảo mắt nhìn quanh gian phòng. Những lúc cô đi pha trà, anh ta đều một mình ở lại trong phòng, nhưng khoảng thời gian này luôn làm anh ta cảm thấy bồn chồn bứt rứt. Nói thực lòng, anh ta rất muốn lúc lọi từng ngóc ngách của gian phòng này, muốn mở cái ngăn kéo nhỏ ra, cũng muốn lật tung những quyển vở trên giá sách lên. Không, chỉ cần biết nhãn hiệu mỹ phẩm Yukiho đang dùng, hẳn cũng làm anh ta khá hài lòng rồi. Thế nhưng, nếu anh ta bới loạn lên bị cô phát hiện thì... nghĩ tới đây, Masaharu đành yên phận ngồi tại chỗ. Anh ta không muốn bi cô coi thường. Sớm biết thế này thì đã mang tạp chí lên rồi, anh ta thầm nghĩ. Sáng nay anh ta mua một tờ tạp chí thời trang dành cho nam giới ở quầy bán lẻ trong ga tàu điện ngầm. Nhưng tạp chí lại bỏ trong túi đựng đồ thể thao mà anh ta để ở tiền sảnh tầng một. Cái túi ấy hơi bẩn, lại là loại lớn anh ta dùng khi còn luyện tập khúc côn cầu trên băng nên Masaharu có thói quen để nó ở dưới nhà khi dạy học. Không biết làm gì, anh ta đành nhìn quanh quất trong phòng. Trước giá sách có một chiếc cát xét loại nhỏ màu hồng phấn, bên cạnh để mấy cuộn băng. Masaharu hơi nhỏm người dậy để nhìn rõ nhãn dán trên mấy cuộn băng. Anh ta nhìn thấy dòng chữ: Matsutoya Yumi, OFF COURSE...
Anh ta ngồi lại xuống ghế, từ mấy cuộn băng lại liên tưởng đến một chuyện hoàn toàn không liên quan... Submarine. Hôm nay, dưới sự dẫn dắt của Minobe, bọn họ đã tiến hành trao đổi thông tin, nhưng vẫn không tìm thấy đầu mối nào. Ngoài ra, Minobe đã gọi điện thoại đến Kế hoạch Vô hạn, công ty đang bán cuộn băng ấy, song cũng không có thu hoạch gì.
“Tôi hỏi bọn họ lấy chương trình ấy ở đâu ra, đối phương kiên quyết không chịu tiết lộ. Người nghe điện thoại là một phụ nữ, tôi nhờ cô ta gọi nhân viên kỹ thuật đến nghe cũng không được. Bọn họ nhất định biết rằng mình đang làm trò gì, theo tôi thấy, những chương trình còn lại trong danh sách mặt hàng nhất định cũng là đồ ăn trộm về.”
“Trực tiếp đến công ty bọn họ được không?” Masaharu đề nghị.
“Tôi nghĩ vô ích thôi.” Minobe lập tức bác bỏ ý kiến này. “Cậu đi chỉ trích rằng chương trình của bọn họ ăn cắp bản quyền từ chỗ chúng ta thì họ cũng chẳng thèm để ý đến cậu.”
“Nếu lấy Submarine ra cho họ xem thì sao?”
Minobe vẫn lắc đầu. “Cậu có thể chứng minh Submarine là nguyên bản sao? Chỉ cần đối phương nói một câu rằng cậu ăn cắp ý tưởng từ Marine Crash thì không còn gì để nói nữa.”
Nghe Minobe nói vậy, Masaharu càng thêm chán nản. “Nói như anh, thì chương trình gì cũng có thể ăn cắp cả.”
“Đúng vậy.” Minobe lạnh lùng nói, “Lĩnh vực này sớm muộn gì cũng cần tới bản quyền. Thực ra, tôi đã kể chuyện này cho một người bạn có hiểu biết về luật pháp. Tôi hỏi anh ta, nếu chứng minh được bọn họ đã trộm chương trình của chúng ta, thì có thể yêu cầu bồi thường không. Anh ta trả lời là ‘No.’ Nói cách khác, là hết sức khó khăn, vì không có tiền lệ nào cả.”
“Sao lại thế...”
“Chính vì vậy, tôi mới mong sao tìm được thủ phạm. Sau khi tìm được, nhất quyết phải cho nó biết mặt.” Minobe hằn học nói.
Coi như tìm được kẻ ăn cắp, cùng lắm cũng chỉ có thể đấm cho nó mấy phát mà thôi. Masaharu cảm thấy hết sức bất lực, trong đầu anh lại hiện lên gương mặt của những người trong nhóm. Rốt cuộc là ai mà sơ sẩy như vậy, lại để người ta trộm mất cả chương trình? Anh ta thật sự rất muốn mắng cho tên đó một trận nên thân.
Thì ra mã lệnh lập trình cũng là m
Tác giả :
Higashino Keigo