Anne Tóc Đỏ Và Ngôi Nhà Mơ Ước
Chương 2: Ngôi nhà mơ ước
Chưa bao giờ trong lịch sử của Chái Nhà Xanh, không khí lại phấn khích đến thế. Ngay cả bả Marilla cũng hào hứng đến mức không thể không thể hiện ra ngoài… mà điều này thì quả là một hiện tượng.
“Chưa từng có một đám cưới nào trong căn nhà này,” bà nói với bà Rachel Lynde, vẻ hơi hối tiếc. “Hồi nhỏ tôi nghe một cha đạo già nói rằng một căn nhà không thể là một mái ấm thực thụ nếu nó chưa được thụ phong bởi một cuộc sinh nở, một đám cưới và một đám tang. Đã có những người qua đời nơi đây… cha mẹ tôi mất ở đây, cả anh Matthew nữa; và chúng tôi đã có một cuộc sinh nở ở đây. Lâu lắm rồi, ngay lúc chúng tôi vừa chuyển vào căn nhà này, một người làm thuê có gia đình đã lưu lại đây một thời gian, và vợ anh ta đã sinh một đứa bé ở đây. Nhưng chưa từng có một đám cưới nào. Thật lạ lùng khi nghĩ đến việc Anne lấy chồng. Theo một cách nào đó, với tôi nó dường như vẫn là con bé anh Matthew mang về nhà mười bốn năm về trước. Tôi không tài nào nhận ra nổi là nó đã trưởng thành. Tôi sẽ không bao giờ quên mình đã cảm thấy thế nào khi Matthew mang vào nhà một đứa con gái. Tôi tự hỏi đứa con trai chúng tôi đáng lẽ đã nhận được sẽ ra sao nếu không có sự nhầm lẫn đó. Tôi tự hỏi số phận của nó thế nào rồi.”
“Ừ, đấy là một sự nhầm lẫn may mắn,” bà Rachel Lynde nói, “mặc dù, nhắc cho chị nhớ, đã có lúc tôi không nghĩ thế đâu… cái buổi tối tôi đếm xem mặt Anne và con bé đã đãi chúng ta một màn kịch ra trò. Nhiều thứ đã thay đổi từ đó đến giờ, thế đấy.”
Bà Rachel thở dài, rồi lại hoạt bát lên gay. Cứ hễ sắp có đám cưới là bà Rachel sẵn sàng vùi chôn quá khứ.
“Tôi sẽ cho con bé Anne hai tấm trải trang trí giường bằng vải sợi bong đan dọc của tôi,” bà nói tiếp. “Một có họa tiết sọc nâu đen và một hình lá táo. Nó bảo giờ chúng lại đang mốt. Hừm, mốt hay không mốt, tôi không tin có thứ gì xinh hơn một tấm trải hình lá táo đẹp cho một phòng ngủ trống, thế đấy. Tôi phải sửa soạn đem chúng ra tẩy mới được. Từ hồi Thomas mất tôi đã khâu chúng vào trong mấy cái túi đựng vải sợi bong, đảm bảo là màu sắc trông tệ lắm. Nhưng còn tới một tháng nữa, và phơi sương sẽ cho tác dụng diệu kỳ.”
Chỉ còn một tháng! Bà Marilla thở dài rồi tự hào nói:
“Tôi sẽ cho Anne nửa tá thảm bện tôi để trên gác xép. Tôi chả bao giờ nghĩ là con bé sẽ muốn lấy chúng… chúng lỗi mốt quá rồi, và dạo này có vẻ như chẳng ai thích gì khác ngoài mấy cái thảm đan. Nhưng nó hỏi xin tôi… bảo là nó muốn có mấy cái thảm ấy để trải sàn nhà của nó hơn bất cứ thứ gì khác. Chúng cũng đẹp mà. Tôi dùng những mẩu vải đẹp nhất mà bện thành sọc. Rất được việc trong mấy mùa đông vừa qua. Và tôi sẽ làm đủ mứt mận tía cho nó trữ cả năm trong tủ mứt. Kể cũng lạ lùng. Mấy cây mận tía đó ba năm rồi chưa nở hoa, tôi cứ tưởng chắc phải chặt đi rồi. Thế mà mùa xuân vừa rồi chúng nở hoa trắng xóa, và chưa bao giờ tôi nhớ ở Chái Nhà Xanh lại có một đợt mận sai quả đến thế.”
“Ôi, cảm ơn Chúa là cuối cùng Anne và Gilbert cũng sắp cưới nhau. Lúc nào tôi cũng cầu nguyện cho điều này xảy ra,” bà Rachel nói, bằng giọng điệu của một người tin tưởng một cách thoải mái là những lời cầu nguyện của mình kiểu gì cũng ứng nghiệm. “Thật nhẹ nhõm khi biết tin nó không định cưới cái cậu người Kingsport kia. Cậu ta giàu, dĩ nhiên, còn Gilbert thì nghèo… ít nhất bây giờ thì thế; nhưng mà Gilbert là con trai đảo.”
“Nó là Gilbert Blythe,” bà Marilla nói vẻ hài lòng. Bà Marilla thà chết còn hơn nói thành lời ý nghĩ lúc nào cũng ở tận sâu trong tâm khảm bà khi bà ngắm nhìn Gilbert từ lúc cậu còn bé đến nay… rằng nếu không phải vì lòng kiêu hãnh ngang ngạnh của mình từ lâu, rất lâu rồi, thì cậu đáng lẽ đã là con trai bà. Bà Marilla cảm thấy rằng, theo một cách kỳ lạ nào đó, cuộc hôn nhân của cậu với Anne sẽ sửa chữa sai lầm cũ đó. Tốt đẹp đã đến từ sự xấu xí của niềm cay đắng cũ xưa.
Về phần mình, Anne hạnh phúc đến nỗi cô gần như sợ hãi. Sự mê tín trong cô mách bảo rằng các vị thần không thích chứng kiến những phàm nhân quá ư hạnh phúc. Ít nhất có một điều chắc chắn… một vài người không thích điều đó. Hai trong số đó “giáng” xuống gặp Anne một buổi hoàng hôn màu tím nọ và xúc tiến làm những gì có thể để chọc vào quả bong bóng cầu vồng mãn nguyện của cô. Nếu cô tưởng kiếm được anh bác sĩ trẻ Blythe đã là một phần thưởng gì ghê gớm lắm, hoặc nếu cô mơ mộng cho rằng anh vẫn còn say đắm cô như cái thuở ngờ nghệch ngày xưa, thì hiển nhiên nhiệm vụ của họ là đặt vấn đề trước mặt cô dưới một ánh sáng mới. Thế nhưng hai người phụ nữ xứng đáng này không phải là kẻ thù của Anne; ngược lại, thực ra họ khá mến cô, và nếu có ai khác công kích cô thì họ sẽ đứng ra bảo vệ cô như con cái của chính mình vậy. Bản chất của con người không phải lúc nào cũng nhất quán.
Bà Inglis - tức Jane Andrews, theo tờ Daily Enterprise - đến cùng mẹ và bà Jasper Bell. Nhưng ở Jane, dòng sữa tình cảm con người đã không bị đóng cặn theo những năm tháng vật vãnh của hôn nhân. Cuộc sống của cô đã đi vào những nề nếp dễ chịu. Mặc dù cô cưới một triệu phú - như bà Rachel Lynde hay nói - cô đã có một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Sự giàu sang đã không làm hỏng cô. Cô vẫn là cô Jane má hồng điềm đạm, dễ mến của bộ tứ ngày nào, sẻ chia với hạnh phúc của người bạn cũ và cũng hứng thú nhiệt thành với những chi tiết nhỏ xinh trong bộ đồ hồi môn của Anne như thể chúng có thể tranh đua với những món lụa là trang sức sang trọng của chính cô vậy. Jane không phải là người sáng láng, và có lẽ trong đời mình cô chưa bao giờ đưa ra được một nhận xét gì đáng để lắng tai nghe; nhưng cô cũng chưa bao giờ nói điều gì làm tổn thương đến ai… có thể đấy là một khả năng hơi tiêu cực nhưng vẫn là một khả năng hiếm có và đáng ghen tị.
“Vậy là Gilbert cũng không quay lưng lại với cháu nhỉ,” bà Harmon Andrews nói, cố truyền đạt một chút ngạc nhiên trong giọng nói. “Ừ, nhà Blythe thường đã nói lời thì sẽ giữ lấy lời, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa. Để ta xem nào… cháu hai mươi lăm rồi Anne nhỉ? Thời của ta, hai lăm tuổi là bước ngoặt đầu tiên đấy. Nhưng trông cháu cũng khá trẻ. Mấy người tóc đỏ lúc nào trông cũng trẻ hơn tuổi.”
“Tóc đỏ giờ đang mốt,” Anne nói, cố gắng mỉm cười nhưng giọng vẫn khá lạnh lùng. Cuộc đời đã nuôi lớn trong cô một khiếu hài hước giúp cô vượt nhiều khó khăn; nhưng vẫn chưa điều gì che chắn được cho cô khỏi những ám chỉ liên quan đến mái tóc của mình.
“Đúng thế… đúng thế,” bà Harmon nhượng bộ. “Chả ai nói trước được những thứ đồng bóng quái dị mà thời trang đi theo. Anne à, mấy món đồ của cháu đẹp đấy, và rất hợp với địa vị hiện tại của cháu trong cuộc sống, đúng không Jane nhỉ? Ta hy vọng cháu sẽ rất hạnh phúc. Ta chúc cho cháu những gì tốt nhất, chắc chắn rồi. Một hôn ước kéo dài thường không mấy khi kết thúc tốt đẹp. Nhưng dĩ nhiên, trong trường hợp của cháu thì đấy là chuyện chẳng đặng đừng.”
“Gilbert trông quá trẻ để làm bác sĩ. Ta sợ là mọi người sẽ không tin tưởng cậu ấy lắm,” bà Jasper Bell nói vẻ u ám. Rồi bà ngậm chặt miệng lại, như thể bà đã nói xong cái điều bà cho là nghĩa vụ phải nói và giờ thì lương tâm bà sạch sẽ. Bà thuộc loại luôn thủ sẵn một sợi lông đen dai nhách trong mũ và một vài lọn tóc rối trên cổ.
Niềm vui bề mặt của Anne với những món đồ cưới xinh đẹp của mình tạm thời bị phủ bóng; nhưng những tầng sâu hạnh phúc bên dưới không vì thế mà xáo trộn; và những vết châm chích nhỏ nhặt của hai quý bà Bell và Andrews đã được lãng quên sau đó khi Gilbert đến, và họ tha thẩn tản bộ tới hàng bu lô bên suối, mới hôm nào khi Anne đến Chái Nhà Xanh còn là những cây non, giờ đã là những hàng cột cao lớn màu ngà trong lâu đài thần tiên của ráng chiều và những vì sao. Anne và Gilbert thì thầm kiểu-những-người-yêu-nhau về ngôi nhà mới và cuộc đời mới của họ dưới bóng những hàng bu lô ấy.
“Anh đã tìm được một tổ ấm mới cho chúng ta, Anne ạ.”
“Ôi, ở đâu? Em hi vọng không phải ở ngay trong làng chứ ạ. Em sẽ chẳng thích thế đâu.”
“Không. Chẳng có ngôi nhà cho thuê nào trong làng cả. Đây là một căn nhà nhỏ màu trắng bên bờ cảng, nằm giữa làng Glen St. Mary và mũi đất Bốn Làn Gió. Hơi biệt lập một tí, nhưng khi nào có điện thoại thì điều đó sẽ không quá quan trọng nữa. Vị trí rất đẹp. Nó nhìn về phía hoàng hôn và có một vịnh cảng xanh tuyệt diệu trước mặt. Những đụn cát cũng không cách quá xa… gió biển thổi qua chúng và sóng biển nhúng ướt chúng.”
“Nhưng còn căn nhà thì sao, Gilbert… mái ấm đầu tiên của chúng ta? Trông nó như thế nào?”
“Không quá to, nhưng đủ rộng cho hai ta. Một phòng khách tuyệt vời có lò sưởi ở tầng dưới, rồi một phòng ăn nhìn ra vịnh cảng, và một căn phòng nhỏ vừa làm văn phòng cho anh. Căn nhà được khoảng sáu mươi tuổi rồi - căn nhà cao tuổi nhất ở Bốn Làn Gió. Nhưng nó được giữ gìn tu sửa khá tốt, và đã được trùng tu toàn bộ khoảng mười lăm năm trước - lợp mái, trát vữa và làm lại sàn. Căn bản nó cũng là một căn nhà được xây kiên cố. Theo anh hiểu thì đã từng có một câu chuyện lãng mạn nào đó gắn với nó, nhưng người anh hỏi thuê lại không biết. Ông ta nói thuyền trưởng Jim là người duy nhất kể được câu chuyện cũ đó.”
“Thuyền trưởng Jim là ai?”
“Người gác đèn trong ngọn hải đăng của mũi Bốn Làn Gió. Em sẽ yêu ngọn đèn đó cho mà xem, Anne ạ. Đó là một ngọn đèn xoay, nó lóe sáng như một ngôi sao rực rỡ trong buổi chiều tà. Ta có thể nhìn thấy nó từ các cửa sổ phòng khách và cửa chính nhà ta.”
“Ai sở hữu căn nhà vậy?”
“À, giờ thì nó là tài sản của Giáo hội Trưởng lão Glen St. Mary, và anh thuê nó từ ban ủy thác. Nhưng mãi đến gần đây nó vẫn thuộc về một quý bà rất già, bà Elizabeth Russell. Bà mất mùa xuân vừa rồi, và vì bà không có họ hàng gần nào cả nên bà để lại tài sản cho nhà thờ Glen St. Mary. Đồ đạc của bà vẫn còn ở trong nhà, và anh đã mua lại gần hết - giá rẻ như cho không em ạ, vì chúng lỗi mốt đến nỗi ban ủy thác đã hết hy vọng bán được chúng. Dân ở Slen St. Mary thích nệm bọc gấm và tủ búp phê kính với đồ trang trí hơn, anh đoán thế. Nhưng đồ gỗ của bà Russell rất tốt và anh tin chắc là em sẽ thích, Anne ạ.”
“Từ đầu đến giờ thì ổn,” Anne nói, gật đầu tán thành một cách thận trọng. “Nhưng mà, Gilbert ạ, người ta không thể sống chỉ bằng đồ gỗ mà thôi. Anh còn chưa nhắc đến một thứ hết sức quan trọng. Có cây cối quanh căn nhà này không?”
“Vô khối, ôi, cả một nữ thần rừng! Có một rừng linh sam lớn sau nhà, hai hàng dương Lombardy dọc lối đi, và một hàng bu lô trắng bao quanh một khu vườn vô cùng tuyệt diệu. Cửa chính nhà chúng ta mở ngay ra vườn, nhưng còn một lối vào nữa - một vòm cổng nhỏ treo ngay giữa hai cây linh sam. Bản lề ở thân cây bên này và then cửa ở bên kia. Các cành cây tạo thành một mái vòm ở trên đầu.”
“Ôi, em sung sướng quá! Em không thể sống được ở nơi nào không có cây… một phần thiết yếu trong em sẽ chết mòn đi mất. Ừm, sau hết, chắc em không cần hỏi anh liệu có một con suối nào gần đó nữa đâu nhỉ. Như thế thì quả là hy vọng quá nhiều.”
“Nhưng có một con suối mà… mà nó còn cắt ngang một góc khu vườn nữa kìa.”
“Thế thì,” Anne nói, với một tiếng thở dài mãn nguyện cực kỳ, “ngôi nhà anh tìm thấy này, không đâu khác, chính là ngôi nhà mơ ước của em.”
“Chưa từng có một đám cưới nào trong căn nhà này,” bà nói với bà Rachel Lynde, vẻ hơi hối tiếc. “Hồi nhỏ tôi nghe một cha đạo già nói rằng một căn nhà không thể là một mái ấm thực thụ nếu nó chưa được thụ phong bởi một cuộc sinh nở, một đám cưới và một đám tang. Đã có những người qua đời nơi đây… cha mẹ tôi mất ở đây, cả anh Matthew nữa; và chúng tôi đã có một cuộc sinh nở ở đây. Lâu lắm rồi, ngay lúc chúng tôi vừa chuyển vào căn nhà này, một người làm thuê có gia đình đã lưu lại đây một thời gian, và vợ anh ta đã sinh một đứa bé ở đây. Nhưng chưa từng có một đám cưới nào. Thật lạ lùng khi nghĩ đến việc Anne lấy chồng. Theo một cách nào đó, với tôi nó dường như vẫn là con bé anh Matthew mang về nhà mười bốn năm về trước. Tôi không tài nào nhận ra nổi là nó đã trưởng thành. Tôi sẽ không bao giờ quên mình đã cảm thấy thế nào khi Matthew mang vào nhà một đứa con gái. Tôi tự hỏi đứa con trai chúng tôi đáng lẽ đã nhận được sẽ ra sao nếu không có sự nhầm lẫn đó. Tôi tự hỏi số phận của nó thế nào rồi.”
“Ừ, đấy là một sự nhầm lẫn may mắn,” bà Rachel Lynde nói, “mặc dù, nhắc cho chị nhớ, đã có lúc tôi không nghĩ thế đâu… cái buổi tối tôi đếm xem mặt Anne và con bé đã đãi chúng ta một màn kịch ra trò. Nhiều thứ đã thay đổi từ đó đến giờ, thế đấy.”
Bà Rachel thở dài, rồi lại hoạt bát lên gay. Cứ hễ sắp có đám cưới là bà Rachel sẵn sàng vùi chôn quá khứ.
“Tôi sẽ cho con bé Anne hai tấm trải trang trí giường bằng vải sợi bong đan dọc của tôi,” bà nói tiếp. “Một có họa tiết sọc nâu đen và một hình lá táo. Nó bảo giờ chúng lại đang mốt. Hừm, mốt hay không mốt, tôi không tin có thứ gì xinh hơn một tấm trải hình lá táo đẹp cho một phòng ngủ trống, thế đấy. Tôi phải sửa soạn đem chúng ra tẩy mới được. Từ hồi Thomas mất tôi đã khâu chúng vào trong mấy cái túi đựng vải sợi bong, đảm bảo là màu sắc trông tệ lắm. Nhưng còn tới một tháng nữa, và phơi sương sẽ cho tác dụng diệu kỳ.”
Chỉ còn một tháng! Bà Marilla thở dài rồi tự hào nói:
“Tôi sẽ cho Anne nửa tá thảm bện tôi để trên gác xép. Tôi chả bao giờ nghĩ là con bé sẽ muốn lấy chúng… chúng lỗi mốt quá rồi, và dạo này có vẻ như chẳng ai thích gì khác ngoài mấy cái thảm đan. Nhưng nó hỏi xin tôi… bảo là nó muốn có mấy cái thảm ấy để trải sàn nhà của nó hơn bất cứ thứ gì khác. Chúng cũng đẹp mà. Tôi dùng những mẩu vải đẹp nhất mà bện thành sọc. Rất được việc trong mấy mùa đông vừa qua. Và tôi sẽ làm đủ mứt mận tía cho nó trữ cả năm trong tủ mứt. Kể cũng lạ lùng. Mấy cây mận tía đó ba năm rồi chưa nở hoa, tôi cứ tưởng chắc phải chặt đi rồi. Thế mà mùa xuân vừa rồi chúng nở hoa trắng xóa, và chưa bao giờ tôi nhớ ở Chái Nhà Xanh lại có một đợt mận sai quả đến thế.”
“Ôi, cảm ơn Chúa là cuối cùng Anne và Gilbert cũng sắp cưới nhau. Lúc nào tôi cũng cầu nguyện cho điều này xảy ra,” bà Rachel nói, bằng giọng điệu của một người tin tưởng một cách thoải mái là những lời cầu nguyện của mình kiểu gì cũng ứng nghiệm. “Thật nhẹ nhõm khi biết tin nó không định cưới cái cậu người Kingsport kia. Cậu ta giàu, dĩ nhiên, còn Gilbert thì nghèo… ít nhất bây giờ thì thế; nhưng mà Gilbert là con trai đảo.”
“Nó là Gilbert Blythe,” bà Marilla nói vẻ hài lòng. Bà Marilla thà chết còn hơn nói thành lời ý nghĩ lúc nào cũng ở tận sâu trong tâm khảm bà khi bà ngắm nhìn Gilbert từ lúc cậu còn bé đến nay… rằng nếu không phải vì lòng kiêu hãnh ngang ngạnh của mình từ lâu, rất lâu rồi, thì cậu đáng lẽ đã là con trai bà. Bà Marilla cảm thấy rằng, theo một cách kỳ lạ nào đó, cuộc hôn nhân của cậu với Anne sẽ sửa chữa sai lầm cũ đó. Tốt đẹp đã đến từ sự xấu xí của niềm cay đắng cũ xưa.
Về phần mình, Anne hạnh phúc đến nỗi cô gần như sợ hãi. Sự mê tín trong cô mách bảo rằng các vị thần không thích chứng kiến những phàm nhân quá ư hạnh phúc. Ít nhất có một điều chắc chắn… một vài người không thích điều đó. Hai trong số đó “giáng” xuống gặp Anne một buổi hoàng hôn màu tím nọ và xúc tiến làm những gì có thể để chọc vào quả bong bóng cầu vồng mãn nguyện của cô. Nếu cô tưởng kiếm được anh bác sĩ trẻ Blythe đã là một phần thưởng gì ghê gớm lắm, hoặc nếu cô mơ mộng cho rằng anh vẫn còn say đắm cô như cái thuở ngờ nghệch ngày xưa, thì hiển nhiên nhiệm vụ của họ là đặt vấn đề trước mặt cô dưới một ánh sáng mới. Thế nhưng hai người phụ nữ xứng đáng này không phải là kẻ thù của Anne; ngược lại, thực ra họ khá mến cô, và nếu có ai khác công kích cô thì họ sẽ đứng ra bảo vệ cô như con cái của chính mình vậy. Bản chất của con người không phải lúc nào cũng nhất quán.
Bà Inglis - tức Jane Andrews, theo tờ Daily Enterprise - đến cùng mẹ và bà Jasper Bell. Nhưng ở Jane, dòng sữa tình cảm con người đã không bị đóng cặn theo những năm tháng vật vãnh của hôn nhân. Cuộc sống của cô đã đi vào những nề nếp dễ chịu. Mặc dù cô cưới một triệu phú - như bà Rachel Lynde hay nói - cô đã có một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Sự giàu sang đã không làm hỏng cô. Cô vẫn là cô Jane má hồng điềm đạm, dễ mến của bộ tứ ngày nào, sẻ chia với hạnh phúc của người bạn cũ và cũng hứng thú nhiệt thành với những chi tiết nhỏ xinh trong bộ đồ hồi môn của Anne như thể chúng có thể tranh đua với những món lụa là trang sức sang trọng của chính cô vậy. Jane không phải là người sáng láng, và có lẽ trong đời mình cô chưa bao giờ đưa ra được một nhận xét gì đáng để lắng tai nghe; nhưng cô cũng chưa bao giờ nói điều gì làm tổn thương đến ai… có thể đấy là một khả năng hơi tiêu cực nhưng vẫn là một khả năng hiếm có và đáng ghen tị.
“Vậy là Gilbert cũng không quay lưng lại với cháu nhỉ,” bà Harmon Andrews nói, cố truyền đạt một chút ngạc nhiên trong giọng nói. “Ừ, nhà Blythe thường đã nói lời thì sẽ giữ lấy lời, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa. Để ta xem nào… cháu hai mươi lăm rồi Anne nhỉ? Thời của ta, hai lăm tuổi là bước ngoặt đầu tiên đấy. Nhưng trông cháu cũng khá trẻ. Mấy người tóc đỏ lúc nào trông cũng trẻ hơn tuổi.”
“Tóc đỏ giờ đang mốt,” Anne nói, cố gắng mỉm cười nhưng giọng vẫn khá lạnh lùng. Cuộc đời đã nuôi lớn trong cô một khiếu hài hước giúp cô vượt nhiều khó khăn; nhưng vẫn chưa điều gì che chắn được cho cô khỏi những ám chỉ liên quan đến mái tóc của mình.
“Đúng thế… đúng thế,” bà Harmon nhượng bộ. “Chả ai nói trước được những thứ đồng bóng quái dị mà thời trang đi theo. Anne à, mấy món đồ của cháu đẹp đấy, và rất hợp với địa vị hiện tại của cháu trong cuộc sống, đúng không Jane nhỉ? Ta hy vọng cháu sẽ rất hạnh phúc. Ta chúc cho cháu những gì tốt nhất, chắc chắn rồi. Một hôn ước kéo dài thường không mấy khi kết thúc tốt đẹp. Nhưng dĩ nhiên, trong trường hợp của cháu thì đấy là chuyện chẳng đặng đừng.”
“Gilbert trông quá trẻ để làm bác sĩ. Ta sợ là mọi người sẽ không tin tưởng cậu ấy lắm,” bà Jasper Bell nói vẻ u ám. Rồi bà ngậm chặt miệng lại, như thể bà đã nói xong cái điều bà cho là nghĩa vụ phải nói và giờ thì lương tâm bà sạch sẽ. Bà thuộc loại luôn thủ sẵn một sợi lông đen dai nhách trong mũ và một vài lọn tóc rối trên cổ.
Niềm vui bề mặt của Anne với những món đồ cưới xinh đẹp của mình tạm thời bị phủ bóng; nhưng những tầng sâu hạnh phúc bên dưới không vì thế mà xáo trộn; và những vết châm chích nhỏ nhặt của hai quý bà Bell và Andrews đã được lãng quên sau đó khi Gilbert đến, và họ tha thẩn tản bộ tới hàng bu lô bên suối, mới hôm nào khi Anne đến Chái Nhà Xanh còn là những cây non, giờ đã là những hàng cột cao lớn màu ngà trong lâu đài thần tiên của ráng chiều và những vì sao. Anne và Gilbert thì thầm kiểu-những-người-yêu-nhau về ngôi nhà mới và cuộc đời mới của họ dưới bóng những hàng bu lô ấy.
“Anh đã tìm được một tổ ấm mới cho chúng ta, Anne ạ.”
“Ôi, ở đâu? Em hi vọng không phải ở ngay trong làng chứ ạ. Em sẽ chẳng thích thế đâu.”
“Không. Chẳng có ngôi nhà cho thuê nào trong làng cả. Đây là một căn nhà nhỏ màu trắng bên bờ cảng, nằm giữa làng Glen St. Mary và mũi đất Bốn Làn Gió. Hơi biệt lập một tí, nhưng khi nào có điện thoại thì điều đó sẽ không quá quan trọng nữa. Vị trí rất đẹp. Nó nhìn về phía hoàng hôn và có một vịnh cảng xanh tuyệt diệu trước mặt. Những đụn cát cũng không cách quá xa… gió biển thổi qua chúng và sóng biển nhúng ướt chúng.”
“Nhưng còn căn nhà thì sao, Gilbert… mái ấm đầu tiên của chúng ta? Trông nó như thế nào?”
“Không quá to, nhưng đủ rộng cho hai ta. Một phòng khách tuyệt vời có lò sưởi ở tầng dưới, rồi một phòng ăn nhìn ra vịnh cảng, và một căn phòng nhỏ vừa làm văn phòng cho anh. Căn nhà được khoảng sáu mươi tuổi rồi - căn nhà cao tuổi nhất ở Bốn Làn Gió. Nhưng nó được giữ gìn tu sửa khá tốt, và đã được trùng tu toàn bộ khoảng mười lăm năm trước - lợp mái, trát vữa và làm lại sàn. Căn bản nó cũng là một căn nhà được xây kiên cố. Theo anh hiểu thì đã từng có một câu chuyện lãng mạn nào đó gắn với nó, nhưng người anh hỏi thuê lại không biết. Ông ta nói thuyền trưởng Jim là người duy nhất kể được câu chuyện cũ đó.”
“Thuyền trưởng Jim là ai?”
“Người gác đèn trong ngọn hải đăng của mũi Bốn Làn Gió. Em sẽ yêu ngọn đèn đó cho mà xem, Anne ạ. Đó là một ngọn đèn xoay, nó lóe sáng như một ngôi sao rực rỡ trong buổi chiều tà. Ta có thể nhìn thấy nó từ các cửa sổ phòng khách và cửa chính nhà ta.”
“Ai sở hữu căn nhà vậy?”
“À, giờ thì nó là tài sản của Giáo hội Trưởng lão Glen St. Mary, và anh thuê nó từ ban ủy thác. Nhưng mãi đến gần đây nó vẫn thuộc về một quý bà rất già, bà Elizabeth Russell. Bà mất mùa xuân vừa rồi, và vì bà không có họ hàng gần nào cả nên bà để lại tài sản cho nhà thờ Glen St. Mary. Đồ đạc của bà vẫn còn ở trong nhà, và anh đã mua lại gần hết - giá rẻ như cho không em ạ, vì chúng lỗi mốt đến nỗi ban ủy thác đã hết hy vọng bán được chúng. Dân ở Slen St. Mary thích nệm bọc gấm và tủ búp phê kính với đồ trang trí hơn, anh đoán thế. Nhưng đồ gỗ của bà Russell rất tốt và anh tin chắc là em sẽ thích, Anne ạ.”
“Từ đầu đến giờ thì ổn,” Anne nói, gật đầu tán thành một cách thận trọng. “Nhưng mà, Gilbert ạ, người ta không thể sống chỉ bằng đồ gỗ mà thôi. Anh còn chưa nhắc đến một thứ hết sức quan trọng. Có cây cối quanh căn nhà này không?”
“Vô khối, ôi, cả một nữ thần rừng! Có một rừng linh sam lớn sau nhà, hai hàng dương Lombardy dọc lối đi, và một hàng bu lô trắng bao quanh một khu vườn vô cùng tuyệt diệu. Cửa chính nhà chúng ta mở ngay ra vườn, nhưng còn một lối vào nữa - một vòm cổng nhỏ treo ngay giữa hai cây linh sam. Bản lề ở thân cây bên này và then cửa ở bên kia. Các cành cây tạo thành một mái vòm ở trên đầu.”
“Ôi, em sung sướng quá! Em không thể sống được ở nơi nào không có cây… một phần thiết yếu trong em sẽ chết mòn đi mất. Ừm, sau hết, chắc em không cần hỏi anh liệu có một con suối nào gần đó nữa đâu nhỉ. Như thế thì quả là hy vọng quá nhiều.”
“Nhưng có một con suối mà… mà nó còn cắt ngang một góc khu vườn nữa kìa.”
“Thế thì,” Anne nói, với một tiếng thở dài mãn nguyện cực kỳ, “ngôi nhà anh tìm thấy này, không đâu khác, chính là ngôi nhà mơ ước của em.”
Tác giả :
Lucy Maud Montgomery