Ấn Tượng Sai Lầm
Chương 45
Leapman chọn một ngày Chủ nhật bởi vì đó là ngày duy nhất trong tuần Fenston không tới văn phòng, cho dù hôm ấy Fenston đã gọi ông ta ba lần. Ông ta ngồi một mình trong căn hộ của mình và ăn bữa tối trước màn hình tivi, nghiền ngẫm kế hoạch của mình, cho đến khi ông ta tin chắc rằng sẽ không có sai sót nào. Ngày mai, và tất cả các ngày mai của ngày mai, ông ta sẽ ăn tối tại những nhà hàng sang trọng nhất, và chẳng cần phải chờ Fenston.
Sau khi đã vét đến mẩu thức ăn cuối cùng, ông ta quay về phòng ngủ của mình và cởi quần lót ra. Ông ta mở tủ lấy ra bộ đồ thể thao mà ông ta cần cho công việc đặc biệt này. Ông ta mặc lên người một chiếc áo phông, một chiếc quần đùi và một chiếc quần dài thụng màu xám mà các cô cậu thanh niên ngày nay không thể tin rằng cha mẹ họ đã từng mặc.
Cuối cùng ông ta đi một đôi tất trắng vào chân, và xỏ chân vào một đôi giày màu trắng. Ông ta không nhìn vào mình trong gương, ông ta bước qua phòng, quỳ xuống và quờ tay dưới gầm giường để lấy ra một chiếc túi thể thao. Một chiếc vợt chơi bóng quần thò cán ra khỏi miệng túi. Lúc này ông ta đã sẵn sàng cho công việc bất thường của mình. Tất cả những gì mà ông ta cần là một chiếc chìa khoá và một bao thuốc lá.
Ông ta bước vào căn bếp, mở một ngăn kéo có chứa một thùng các tông lớn đựng những tút thuốc Marlboro và lấy ra một bao. Ông ta không bao giờ hút thuốc. Hành động cuối cùng của ông ta trong nghi lễ này là luồn tay xuống đáy ngăn kéo và lấy ra một chiếc chìa khoá, vốn được dán chặt vào đáy tủ bằng băng dính. Bây giờ thì ông ta đã có tất cả những gì mình cần.
Ông ta khoá cửa trước bằng hai lần khoá rồi đi xuống tầng trệt. Ông ta mở cửa hậu, leo lên các bậc cầu thang và bước ra phố.
Đối với những người qua đường, ông ta trông giống như một người đang trên đường tới câu lạc bộ bóng quần của mình. Leapman chưa bao giờ chơi bóng quần trong cuộc đời mình. Ông ta đi bộ qua một tòa nhà rồi mới gọi tắc xi. Một thói quen không bao giờ thay đổi. Ông ta đưa cho tài xế địa chỉ cần tới, cách đó năm dặm, và không phải là địa chỉ của một câu lạc bộ bóng quần, ông ta ngồi ở băng ghế sau, cảm thấy nhẹ nhõm khi người tài xế rất ít lời, bởi vì ông ta cần tập trung. Ngày hôm nay, ông ta sẽ có một thay đổi trong lề thói hàng ngày của mình, một sự thay đổi mà ông ta đã lên kế hoạch trong mười năm qua. Đây sẽ là lần cuối cùng ông ta đi làm những công việc lặt vặt cho Fenston, một kẻ đã lợi dụng ông ta suốt mười năm qua. Hôm nay thì không. Không bao giờ còn có chuyện đó nữa. Ông ta nhìn qua cửa xe. Ông ta thực hiện chuyến đi này một lần, đôi khi là hai lần trong một năm, để bỏ những khoản tiền lớn vào một ngăn tủ an toàn tại NYRC, mỗi khi Krantz vừa hoàn thành một công việc được giao. Trong suốt thời gian đó, ông ta đã đặt tổng cộng 5 triệu đôla vào ngăn tủ để đồ số 13 ở nhà nghỉ NYRC trên phố Lincoln, và ông ta biết đó luôn là những chuyến đi một chiều - cho đến ngày cô ta mắc sai lầm.
Khi ông ta đọc thấy trên tờ Thời báo rằng Krantz đã bị bắt sau khi bị bắn vào vai - kể mà bị bắn chết thì tốt biết mấy, ông ta nghĩ - Leapman biết đây là cơ hội có một không hai trong đời mình. Fenston thì thích gọi đó là cánh cửa cơ hội. Suy cho cùng, Krantz là người duy nhất biết trong ngăn tủ đó có bao nhiêu tiền mặt, trong khi ông ta là người duy nhất ngoài cô ta có chìa khoá ngăn tủ đó. “Chính xác là ở đâu?”, người tài xế hỏi.
Leapman nhìn qua cửa xe. “Hai tòa nhà nữa”, ông ta nói, “anh có thể cho tôi xuống tại góc phố”. Leapman lấy chiếc vợt chơi bóng quần ra khỏi túi rồi đặt nó lên ghế sau.
“23 đôla”, người tài xế vừa nói vừa cho xe dừng lại bên ngoài một cửa hàng bán rượu.
Leapman đưa cho anh ta ba tờ mệnh giá 10 đôla. “Tôi sẽ quay lại sau năm phút. Nếu anh vẫn còn ở quanh đây, anh sẽ được nhận 50 đôla nữa”.
“Tôi sẽ ở quanh đây”, người tài xế tắc xi vội trả lời.
Leapman cầm chiếc túi thể thao lên và bước xuống, để lại chiếc vợt trên xe. Ông ta bước qua đường, hài lòng khi thấy trên vỉa hè có rất đông người đi mua sắm. Một trong những lý do khiến ông ta luôn chọn ngày Chủ nhật. Tại khu Queens, một chiếc túi không đựng gì cũng có thể bị cướp giật.
Leapman bước nhanh cho tới khi ông ta đến trước số nhà 61. Ông ta dừng lại một lát để kiểm tra xem có ai để ý đến mình không. Họ để ý đến Ông ta làm gì? ông ta bước xuống cầu thang về phía tấm biển NYRC và đẩy chiếc cánh cửa chưa bao giờ bị khoá ra. Người gác cửa ngước nhìn lên và khi nhìn thấy vị khách mới bước vào, ông ta gật đầu - hành động nhiệt thành nhất của ông ta trong ngày - rồi lại tập trung vào chuyên mục thể thao. Leapman đặt bao Marlboro lên mặt bàn, và biết rằng nó sẽ biến mất trước khi ông ta quay đi. Ai cũng có giá của mình. Leapman nhìn dọc chiếc hành lang tối mờ được chiếu sáng nhờ một ngọn đèn 40 watt. Đôi khi ông ta băn khoăn tự hỏi không hiểu mình có phải là người duy nhất bước qua chiếc bàn tiếp tân hay không.
Cho dù hành lang rất tối, ông ta vẫn biết chính xác ngăn tủ cần tìm nằm ở vị trí nào. Không phải vì ông ta có thể đọc con số trên cửa, bởi vì giống như mọi thứ khác, nó đã bị mờ đi theo thời gian, ông ta nhìn về phía đầu hành lang, một điếu thuốc nữa đang cháy đỏ trên môi ông già.
Ông ta lấy chiếc chìa khoá trong túi quần ra, cho vào ổ khoá, xoay một vòng rồi mở cửa ra. Ông ta mở khoá chiếc túi thể thao trước khi ngoái nhìn lại phía đầu hành lang. Không quan tâm. Chỉ cần không đầy một phút, ông ta đã vét sạch ngăn tủ, chất đầy chiếc túi, và kéo khoá lại. Leapman đóng cửa tủ và khoá lại lần cuối cùng, ông ta nhấc chiếc túi lên, hơi ngạc nhiên vì sức nặng của nó, rồi bước trở lại chỗ bàn tiếp tân. Ông ta đặt chiếc chìa khoá lên mặt bàn. “Tôi sẽ không cần nó nữa”, ông ta nói với ông già gác cửa. Ông già không ngẩng đầu lên mà vẫn chăm chú đọc chuyên mục thể thao. Leapman bước qua cửa, trèo lên các bậc cầu thang và bước ra ngoài, ông ta lại nhìn dọc con phố. An toàn, ông ta bắt đầu bước nhanh trên phố, tay nắm chặt quai túi, và cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy chiếc tắc xi vẫn đợi ông ta ở góc phố.
Ông ta vừa đi được khoảng 20 thước thì bất ngờ bị bao vây bởi hàng chục người mặc quần bò và áo gió, phù hiệu FBI màu vàng in đậm sau lưng áo. Họ lao về phía ông ta từ mọi phía. Vài giây sau, hai chiếc xe lao vào phố Lincoln từ hai phía, cho dù đây là đường một chiều, và thắng gấp ngay sát kẻ tình nghi. Lần này thì những người qua đường dừng lại và nhìn chằm chằm người đàn ông mặc bộ đồ thể thao mang túi thể thao đang bị bắt giữ. Chiếc tắc xi chạy đi, mất 50 đôla, được một chiếc vợt. “Đọc cho ông ta nghe quyền lợi của mình”, Joe nói, khi một sỹ quan khác bẻ quặt tay Leapman ra sau và còng lại, trong khi một người thứ ba cầm lấy chiếc túi.
“Ông có quyền giữ im lặng...”, Leapman im lặng không nói gì.
Sau khi Leapman đã được nghe về những quyền lợi Miranda[3] của mình - đây không phải là lần đầu tiên - ông ta được dẫn tới một chiếc xe, không kèn không trống, và được đẩy vào hàng ghế sau, nơi Đặc vụ Delaney đang ngồi chờ ông ta.
[3] Điều luật của Mỹ quy định các sỹ quan cảnh sát phải cho người tình nghi biết một số quyền lợi pháp lý của mình trước khi bắt giữ và thẩm vấn họ (ND).
***
Anna đang ở trong Bảo tàng Whitney, và đang đứng trước một bức tranh của Rauschenberg có tựa đề Satellite khi chiếc điện thoại di động trong túi cô rung lên. Cô nhìn màn hình và thấy người gọi chính là Người Rình rập.
“Có đây”, Anna nói.
“Tôi tính sai rồi”.
“Cái gì sai?”, Anna nói.
“Hơn hai triệu”.
Krantz lắng nghe tiếng chuông đồng hồ trên tháp nhà thờ gần đó. Cô ta nằm im, cảnh giác, sẵn sàng cho một sự thay đổi.
Chỉ một lát sau, cô nghe thấy có tiếng chìa khoá tra vào ổ, tiếp đến là tiếng cánh cửa mở ra và khép lại. Cô ta không nhìn lên, tất cả đều như bình thường. Người lính gác bước lại gần, đặt một cốc nước lên chiếc bàn bên cạnh giường, lấy gói Silk Cut, và rời khỏi căn phòng mà không nói lấy một lời. Cô ta nghe thấy tiếng cánh cửa được khoá lại.
Cô ta không hề cử động, một tay nắm chặt tờ 100 đôla, một tay nắm chặt chiếc kéo của viên bác sỹ.
20 phút trôi qua trước khi cô ta nghe thấy tiếng chìa khoá xoay trong ổ và chiếc cánh cửa được mở ra lần thứ hai. Cánh cửa được khép lại. Người lính gác thứ hai bước nhanh qua phòng, đặt một chiếc bánh xăngđuých pho mát, một lon coke và một gói Silk Cut lên mặt bàn. Anh ta quay sang nhìn người tù nhân và chờ đợi.
Một nắm tay nhỏ luồn ra từ bên dưới tấm ga, và các ngón tay từ từ mở ra để lộ một tờ 100 đôla. Người lính gác mỉm cười. Khi anh ta cúi xuống để cầm lấy tờ tiền, tờ tiền rơi khỏi bàn tay cô ta và bay xuống sàn.
Người lính gác cúi xuống để nhặt tờ tiền lên, và đến khi anh ta đứng lên, với một nụ cười trên mặt, Krantz đã ngồi dậy và đang chờ trên mép giường. Anh ta vừa định cho tờ tiền vào túi thì Krantz nắm lấy mái tóc dầy của anh ta bằng một tay, và bằng một động tác thành thục, cắt đứt họng anh ta bằng tay còn lại với chiếc kéo của viên bác sỹ. Không phải là vũ khí hiệu quả nhất, nhưng là thứ duy nhất mà cô ta có.
Anh ta ngã xuống đất, và nằm giữa vũng máu của chính mình, trong khi vẫn nắm chặt tờ đôla trong tay. Krantz rời khỏi giường, nhanh chóng tháo chiếc chìa khoá mà cô ta cần từ chùm chìa khoá của anh ta, chạy lại phía cửa và khoá lại. Cô ta kéo chiếc giường lại gần, chỉ vài inch, và nhìn lên chiếc cửa sổ nhỏ không khoá. Krantz muốn tìm hiểu mức độ rủi ro trong công việc mà cô ta sắp làm.
Cô ta chạy ba bước tính từ cửa, nhảy lên tấm đệm, trèo lên thành giường, như thể đó là một thanh xà, tung người lên như một vận động viên nhào lộn, và luồn hai chân qua cửa sổ.
Cô ta bị kẹt, một nửa ở trong, một nửa ở ngoài. Krantz xoay người, vặn vẹo một lúc, cuối cùng cô ta đã chui qua được chiếc cửa sổ nhỏ và bám chặt tay vào mép cửa. Không nhìn xuống, không chần chừ. Cô ta thả tay ra, rơi qua hai tầng nhà xuống một luống hoa, và lăn tròn như thể cô ta vừa thả tay rơi xuống từ một chiếc xà cao.
Cô ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía bức tường được chăng dây thép gai, cũng là lúc người lính gác nghiện thuốc lá mở cửa ra để xem tại sao đồng đội của anh ta lại lâu đến vậy.
Mấy giây sau, tiếng còi báo động vang lên, và toàn bệnh viện ngập trong ánh đèn pha, giống như một sân bóng trong một trận đấu đêm. Krantz chỉ còn cách mục tiêu của mình vài thước khi cô ta nghe thấy tiếng chó sủa đầu tiên. Không bao giờ nhìn lại, bởi vì điều đó sẽ làm giảm tốc độ.
Krantz nhảy lên nắm lấy lớp dây thép gai, và những con chó đầu tiên cũng nhảy lên theo cô ta. Nhưng chúng chỉ còn biết sủa theo khi con người kia gác chân qua lớp dây thép gai trần và nhanh chóng rơi xuống phía bên kia bức tường. Ba người lính gác đã chạy đến chân tường, nhưng không ai dám bắt chước kẻ đào tẩu. Một người trong số họ rút súng ra khi Krantz bắt đầu chạy qua đường. Anh ta bắn phát thứ nhất - rất gần, nhưng chưa đủ. Và đến khi anh ta bóp cò lần thứ hai thì cô ta đã mất hút trong rừng.
Viên bác sỹ trẻ quỳ xuống bên cái xác để tìm hiểu xem thứ vũ khí giết người mà kẻ sát nhân sử dụng là gì. Anh ta phát hiện thấy chiếc kéo của mình trong gầm giường, và vội vàng cho chiếc kéo vào túi áo khoác. Anh ta nhìn lên và thấy người lính gác nghiện thuốc lá đang đứng nhìn chiếc cửa sổ nhỏ bằng một vẻ mặt kinh ngạc.
Rồi anh ta nhớ ra. Cô ta từng là vận động viên trong đội tuyển Olympic.
Sau khi đã vét đến mẩu thức ăn cuối cùng, ông ta quay về phòng ngủ của mình và cởi quần lót ra. Ông ta mở tủ lấy ra bộ đồ thể thao mà ông ta cần cho công việc đặc biệt này. Ông ta mặc lên người một chiếc áo phông, một chiếc quần đùi và một chiếc quần dài thụng màu xám mà các cô cậu thanh niên ngày nay không thể tin rằng cha mẹ họ đã từng mặc.
Cuối cùng ông ta đi một đôi tất trắng vào chân, và xỏ chân vào một đôi giày màu trắng. Ông ta không nhìn vào mình trong gương, ông ta bước qua phòng, quỳ xuống và quờ tay dưới gầm giường để lấy ra một chiếc túi thể thao. Một chiếc vợt chơi bóng quần thò cán ra khỏi miệng túi. Lúc này ông ta đã sẵn sàng cho công việc bất thường của mình. Tất cả những gì mà ông ta cần là một chiếc chìa khoá và một bao thuốc lá.
Ông ta bước vào căn bếp, mở một ngăn kéo có chứa một thùng các tông lớn đựng những tút thuốc Marlboro và lấy ra một bao. Ông ta không bao giờ hút thuốc. Hành động cuối cùng của ông ta trong nghi lễ này là luồn tay xuống đáy ngăn kéo và lấy ra một chiếc chìa khoá, vốn được dán chặt vào đáy tủ bằng băng dính. Bây giờ thì ông ta đã có tất cả những gì mình cần.
Ông ta khoá cửa trước bằng hai lần khoá rồi đi xuống tầng trệt. Ông ta mở cửa hậu, leo lên các bậc cầu thang và bước ra phố.
Đối với những người qua đường, ông ta trông giống như một người đang trên đường tới câu lạc bộ bóng quần của mình. Leapman chưa bao giờ chơi bóng quần trong cuộc đời mình. Ông ta đi bộ qua một tòa nhà rồi mới gọi tắc xi. Một thói quen không bao giờ thay đổi. Ông ta đưa cho tài xế địa chỉ cần tới, cách đó năm dặm, và không phải là địa chỉ của một câu lạc bộ bóng quần, ông ta ngồi ở băng ghế sau, cảm thấy nhẹ nhõm khi người tài xế rất ít lời, bởi vì ông ta cần tập trung. Ngày hôm nay, ông ta sẽ có một thay đổi trong lề thói hàng ngày của mình, một sự thay đổi mà ông ta đã lên kế hoạch trong mười năm qua. Đây sẽ là lần cuối cùng ông ta đi làm những công việc lặt vặt cho Fenston, một kẻ đã lợi dụng ông ta suốt mười năm qua. Hôm nay thì không. Không bao giờ còn có chuyện đó nữa. Ông ta nhìn qua cửa xe. Ông ta thực hiện chuyến đi này một lần, đôi khi là hai lần trong một năm, để bỏ những khoản tiền lớn vào một ngăn tủ an toàn tại NYRC, mỗi khi Krantz vừa hoàn thành một công việc được giao. Trong suốt thời gian đó, ông ta đã đặt tổng cộng 5 triệu đôla vào ngăn tủ để đồ số 13 ở nhà nghỉ NYRC trên phố Lincoln, và ông ta biết đó luôn là những chuyến đi một chiều - cho đến ngày cô ta mắc sai lầm.
Khi ông ta đọc thấy trên tờ Thời báo rằng Krantz đã bị bắt sau khi bị bắn vào vai - kể mà bị bắn chết thì tốt biết mấy, ông ta nghĩ - Leapman biết đây là cơ hội có một không hai trong đời mình. Fenston thì thích gọi đó là cánh cửa cơ hội. Suy cho cùng, Krantz là người duy nhất biết trong ngăn tủ đó có bao nhiêu tiền mặt, trong khi ông ta là người duy nhất ngoài cô ta có chìa khoá ngăn tủ đó. “Chính xác là ở đâu?”, người tài xế hỏi.
Leapman nhìn qua cửa xe. “Hai tòa nhà nữa”, ông ta nói, “anh có thể cho tôi xuống tại góc phố”. Leapman lấy chiếc vợt chơi bóng quần ra khỏi túi rồi đặt nó lên ghế sau.
“23 đôla”, người tài xế vừa nói vừa cho xe dừng lại bên ngoài một cửa hàng bán rượu.
Leapman đưa cho anh ta ba tờ mệnh giá 10 đôla. “Tôi sẽ quay lại sau năm phút. Nếu anh vẫn còn ở quanh đây, anh sẽ được nhận 50 đôla nữa”.
“Tôi sẽ ở quanh đây”, người tài xế tắc xi vội trả lời.
Leapman cầm chiếc túi thể thao lên và bước xuống, để lại chiếc vợt trên xe. Ông ta bước qua đường, hài lòng khi thấy trên vỉa hè có rất đông người đi mua sắm. Một trong những lý do khiến ông ta luôn chọn ngày Chủ nhật. Tại khu Queens, một chiếc túi không đựng gì cũng có thể bị cướp giật.
Leapman bước nhanh cho tới khi ông ta đến trước số nhà 61. Ông ta dừng lại một lát để kiểm tra xem có ai để ý đến mình không. Họ để ý đến Ông ta làm gì? ông ta bước xuống cầu thang về phía tấm biển NYRC và đẩy chiếc cánh cửa chưa bao giờ bị khoá ra. Người gác cửa ngước nhìn lên và khi nhìn thấy vị khách mới bước vào, ông ta gật đầu - hành động nhiệt thành nhất của ông ta trong ngày - rồi lại tập trung vào chuyên mục thể thao. Leapman đặt bao Marlboro lên mặt bàn, và biết rằng nó sẽ biến mất trước khi ông ta quay đi. Ai cũng có giá của mình. Leapman nhìn dọc chiếc hành lang tối mờ được chiếu sáng nhờ một ngọn đèn 40 watt. Đôi khi ông ta băn khoăn tự hỏi không hiểu mình có phải là người duy nhất bước qua chiếc bàn tiếp tân hay không.
Cho dù hành lang rất tối, ông ta vẫn biết chính xác ngăn tủ cần tìm nằm ở vị trí nào. Không phải vì ông ta có thể đọc con số trên cửa, bởi vì giống như mọi thứ khác, nó đã bị mờ đi theo thời gian, ông ta nhìn về phía đầu hành lang, một điếu thuốc nữa đang cháy đỏ trên môi ông già.
Ông ta lấy chiếc chìa khoá trong túi quần ra, cho vào ổ khoá, xoay một vòng rồi mở cửa ra. Ông ta mở khoá chiếc túi thể thao trước khi ngoái nhìn lại phía đầu hành lang. Không quan tâm. Chỉ cần không đầy một phút, ông ta đã vét sạch ngăn tủ, chất đầy chiếc túi, và kéo khoá lại. Leapman đóng cửa tủ và khoá lại lần cuối cùng, ông ta nhấc chiếc túi lên, hơi ngạc nhiên vì sức nặng của nó, rồi bước trở lại chỗ bàn tiếp tân. Ông ta đặt chiếc chìa khoá lên mặt bàn. “Tôi sẽ không cần nó nữa”, ông ta nói với ông già gác cửa. Ông già không ngẩng đầu lên mà vẫn chăm chú đọc chuyên mục thể thao. Leapman bước qua cửa, trèo lên các bậc cầu thang và bước ra ngoài, ông ta lại nhìn dọc con phố. An toàn, ông ta bắt đầu bước nhanh trên phố, tay nắm chặt quai túi, và cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy chiếc tắc xi vẫn đợi ông ta ở góc phố.
Ông ta vừa đi được khoảng 20 thước thì bất ngờ bị bao vây bởi hàng chục người mặc quần bò và áo gió, phù hiệu FBI màu vàng in đậm sau lưng áo. Họ lao về phía ông ta từ mọi phía. Vài giây sau, hai chiếc xe lao vào phố Lincoln từ hai phía, cho dù đây là đường một chiều, và thắng gấp ngay sát kẻ tình nghi. Lần này thì những người qua đường dừng lại và nhìn chằm chằm người đàn ông mặc bộ đồ thể thao mang túi thể thao đang bị bắt giữ. Chiếc tắc xi chạy đi, mất 50 đôla, được một chiếc vợt. “Đọc cho ông ta nghe quyền lợi của mình”, Joe nói, khi một sỹ quan khác bẻ quặt tay Leapman ra sau và còng lại, trong khi một người thứ ba cầm lấy chiếc túi.
“Ông có quyền giữ im lặng...”, Leapman im lặng không nói gì.
Sau khi Leapman đã được nghe về những quyền lợi Miranda[3] của mình - đây không phải là lần đầu tiên - ông ta được dẫn tới một chiếc xe, không kèn không trống, và được đẩy vào hàng ghế sau, nơi Đặc vụ Delaney đang ngồi chờ ông ta.
[3] Điều luật của Mỹ quy định các sỹ quan cảnh sát phải cho người tình nghi biết một số quyền lợi pháp lý của mình trước khi bắt giữ và thẩm vấn họ (ND).
***
Anna đang ở trong Bảo tàng Whitney, và đang đứng trước một bức tranh của Rauschenberg có tựa đề Satellite khi chiếc điện thoại di động trong túi cô rung lên. Cô nhìn màn hình và thấy người gọi chính là Người Rình rập.
“Có đây”, Anna nói.
“Tôi tính sai rồi”.
“Cái gì sai?”, Anna nói.
“Hơn hai triệu”.
Krantz lắng nghe tiếng chuông đồng hồ trên tháp nhà thờ gần đó. Cô ta nằm im, cảnh giác, sẵn sàng cho một sự thay đổi.
Chỉ một lát sau, cô nghe thấy có tiếng chìa khoá tra vào ổ, tiếp đến là tiếng cánh cửa mở ra và khép lại. Cô ta không nhìn lên, tất cả đều như bình thường. Người lính gác bước lại gần, đặt một cốc nước lên chiếc bàn bên cạnh giường, lấy gói Silk Cut, và rời khỏi căn phòng mà không nói lấy một lời. Cô ta nghe thấy tiếng cánh cửa được khoá lại.
Cô ta không hề cử động, một tay nắm chặt tờ 100 đôla, một tay nắm chặt chiếc kéo của viên bác sỹ.
20 phút trôi qua trước khi cô ta nghe thấy tiếng chìa khoá xoay trong ổ và chiếc cánh cửa được mở ra lần thứ hai. Cánh cửa được khép lại. Người lính gác thứ hai bước nhanh qua phòng, đặt một chiếc bánh xăngđuých pho mát, một lon coke và một gói Silk Cut lên mặt bàn. Anh ta quay sang nhìn người tù nhân và chờ đợi.
Một nắm tay nhỏ luồn ra từ bên dưới tấm ga, và các ngón tay từ từ mở ra để lộ một tờ 100 đôla. Người lính gác mỉm cười. Khi anh ta cúi xuống để cầm lấy tờ tiền, tờ tiền rơi khỏi bàn tay cô ta và bay xuống sàn.
Người lính gác cúi xuống để nhặt tờ tiền lên, và đến khi anh ta đứng lên, với một nụ cười trên mặt, Krantz đã ngồi dậy và đang chờ trên mép giường. Anh ta vừa định cho tờ tiền vào túi thì Krantz nắm lấy mái tóc dầy của anh ta bằng một tay, và bằng một động tác thành thục, cắt đứt họng anh ta bằng tay còn lại với chiếc kéo của viên bác sỹ. Không phải là vũ khí hiệu quả nhất, nhưng là thứ duy nhất mà cô ta có.
Anh ta ngã xuống đất, và nằm giữa vũng máu của chính mình, trong khi vẫn nắm chặt tờ đôla trong tay. Krantz rời khỏi giường, nhanh chóng tháo chiếc chìa khoá mà cô ta cần từ chùm chìa khoá của anh ta, chạy lại phía cửa và khoá lại. Cô ta kéo chiếc giường lại gần, chỉ vài inch, và nhìn lên chiếc cửa sổ nhỏ không khoá. Krantz muốn tìm hiểu mức độ rủi ro trong công việc mà cô ta sắp làm.
Cô ta chạy ba bước tính từ cửa, nhảy lên tấm đệm, trèo lên thành giường, như thể đó là một thanh xà, tung người lên như một vận động viên nhào lộn, và luồn hai chân qua cửa sổ.
Cô ta bị kẹt, một nửa ở trong, một nửa ở ngoài. Krantz xoay người, vặn vẹo một lúc, cuối cùng cô ta đã chui qua được chiếc cửa sổ nhỏ và bám chặt tay vào mép cửa. Không nhìn xuống, không chần chừ. Cô ta thả tay ra, rơi qua hai tầng nhà xuống một luống hoa, và lăn tròn như thể cô ta vừa thả tay rơi xuống từ một chiếc xà cao.
Cô ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía bức tường được chăng dây thép gai, cũng là lúc người lính gác nghiện thuốc lá mở cửa ra để xem tại sao đồng đội của anh ta lại lâu đến vậy.
Mấy giây sau, tiếng còi báo động vang lên, và toàn bệnh viện ngập trong ánh đèn pha, giống như một sân bóng trong một trận đấu đêm. Krantz chỉ còn cách mục tiêu của mình vài thước khi cô ta nghe thấy tiếng chó sủa đầu tiên. Không bao giờ nhìn lại, bởi vì điều đó sẽ làm giảm tốc độ.
Krantz nhảy lên nắm lấy lớp dây thép gai, và những con chó đầu tiên cũng nhảy lên theo cô ta. Nhưng chúng chỉ còn biết sủa theo khi con người kia gác chân qua lớp dây thép gai trần và nhanh chóng rơi xuống phía bên kia bức tường. Ba người lính gác đã chạy đến chân tường, nhưng không ai dám bắt chước kẻ đào tẩu. Một người trong số họ rút súng ra khi Krantz bắt đầu chạy qua đường. Anh ta bắn phát thứ nhất - rất gần, nhưng chưa đủ. Và đến khi anh ta bóp cò lần thứ hai thì cô ta đã mất hút trong rừng.
Viên bác sỹ trẻ quỳ xuống bên cái xác để tìm hiểu xem thứ vũ khí giết người mà kẻ sát nhân sử dụng là gì. Anh ta phát hiện thấy chiếc kéo của mình trong gầm giường, và vội vàng cho chiếc kéo vào túi áo khoác. Anh ta nhìn lên và thấy người lính gác nghiện thuốc lá đang đứng nhìn chiếc cửa sổ nhỏ bằng một vẻ mặt kinh ngạc.
Rồi anh ta nhớ ra. Cô ta từng là vận động viên trong đội tuyển Olympic.
Tác giả :
Jeffrey Archer