Ấn Tượng Sai Lầm
Chương 38
Khi Anna thức dậy, Sergei đang ngồi hút thuốc trên nắp cốp xe. Anna vươn vai và dụi mắt. Đây là lần đầu tiên cô ngủ trên ghế sau của một chiếc xe hơi, nhưng rõ ràng là vẫn tốt hơn nhiều so với ghế sau của xe tải. Cô chui ra khỏi xe và duỗi chân.
Chiếc thùng gỗ vẫn còn ở nguyên chỗ cũ.
“Chào cô”, Sergei nói. “Cô ngủ có ngon không?”.
Cô cười. “Có vẻ ngon hơn giấc ngủ của bác”.
“Sau 20 năm trong quân đội, giấc ngủ trở thành một thứ xa xỉ”, Sergei nói. “Nhưng xin mời cô ăn sáng với tôi”. Ông ta quay lại xe và lấy ra một chiếc hộp thiếc nhỏ từ dưới ghế lái. Ông ta mở nắp hộp ra: hai ổ bánh mỳ, một quả trứng luộc, một lát pho mát, hai củ khoai tây, một quả cam và một bình cà phê.
“Bác lấy đâu ra tất cả những thứ này vậy?”, Anna vừa bóc cam vừa hỏi. “Bữa tối của hôm qua”, Sergei giải thích, “do bà vợ chu đáo của tôi chuẩn bị đấy”.
“Bác giải thích việc tối qua bác không về nhà với bác gái như thế nào?”, Anna hỏi.
“Tôi nói thật mọi chuyện với bà ấy”, Sergei nói. “Tôi đã ở bên một người con gái xinh đẹp suốt đêm”, Anna đỏ mặt. “Nhưng tôi sợ mình đã quá già để có thể làm cho bà ấy tin chuyện đó”, ông ta nói thêm. “Vậy tiếp theo chúng ta sẽ làm gì? Cướp ngân hàng à? .
“Nếu bác biết có ngân hàng nào có đủ 50 triệu đôla tiền lẻ”, Anna vừa cười vừa nói. “Nếu không cháu sẽ phải đưa nó lên chuyến bay tiếp theo tới London, vì vậy cháu cần phải tìm hiểu xem khi nào thì người ta mở cửa nhận hàng”.
“Khi người đầu tiên xuất hiện”, Sergei vừa nói vừa bóc vỏ quả trứng. “Thường là vào lúc 7 giờ”, ông ta nói thêm trước khi đưa quả trứng cho Anna.
Anna cắn một miếng. “Vậy thì cháu cần phải có mặt ở đó trước 7 giờ, để đảm bảo rằng chiếc thùng này sẽ được đưa lên máy bay”. Cô nhìn đồng hồ. “Vậy có lẽ ta nên đi thôi bác ạ!”.
“Tôi không nghĩ thế?”.
“Ý bác là gì ạ?”, Anna hỏi bằng một giọng lo lắng.
“Khi một người phụ nữ như cô phải ngủ qua đêm trong một chiếc xe, ắt hẳn phải có lý do. Và tôi nghĩ lý do đang nằm kia”, Sergei vừa nói vừa chỉ vào chiếc thùng. “Vì vậy nếu cô làm thủ tục lên máy bay cùng với một chiếc thùng màu đỏ, đó sẽ là một việc làm thiếu thận trọng”. Anna tiếp tục nhìn ông ta chằm chằm, nhưng cô không nói gì. “Phải chăng trong chiếc thùng đó có đựng một thứ mà cô không muốn chính quyền quan tâm?”. Ông ta dừng lại, nhưng Anna vẫn không nói gì. “Theo tôi thì”, Sergei nói. “Cô biết đấy, khi tôi còn là một đại tá trong quân đội, mỗi khi tôi cần làm một việc gì đó mà không muốn cho ai biết, tôi bao giờ cũng chọn một anh chàng hạ sỹ nào đó dưới quyền để giao nhiệm vụ. Như thế, theo kinh nghiệm của tôi, chẳng bao giờ khiến ai để ý. Tôi nghĩ hôm nay tôi có thể làm một hạ sỹ dưới quyền của cô”.
“Nhưng nếu bác bị bắt thì sao?”.
“Vậy thì tức là tôi đã làm được một việc có ích. Cô có nghĩ nghề lái tắc xi là một nghề rất hợp với một đại tá quân đội, một người đã từng chỉ huy cả một trung đoàn như tôi không? Đừng lo lắng, thưa cô. Một vài nhân viên cũ của tôi làm việc ở hải quan sân bay, và nếu giá cả hợp lý, họ sẽ không đưa ra nhiều câu hỏi”.
Anna mở chiếc cặp, lấy chiếc phong bì mà Anton đã đưa cho cô ra rồi đưa cho Sergei năm tờ 20 đôla. “Không, thưa cô”, ông ta xua tay, “chúng ta không hối lộ cảnh sát trưởng, chỉ là vài nhân viên địa phương thôi”, ông ta nói thêm rồi cầm lấy một tờ. “Và hơn nữa, sau này có thể tôi vẫn còn cần nhờ họ giúp vài chuyện, vì vậy ta không nên phá giá”.
Anna cười. “Và khi ký biên nhận, bác Sergei, bác phải ký làm sao để không ai có thể đọc được nhé”.
Sergei nhìn cô chằm chằm. “Tôi hiểu”, ông ta nói rồi dừng lại. “Cô cứ ở đây, và đừng để cho người ta nhìn thấy. Tất cả những gì tôi cần là vé máy bay của cô”.
Anna lại mở cặp ra, cất bốn tờ tiền còn lại vào chiếc phong bì rồi lấy vé đưa cho Sergei, ông ta lên xe, khởi động máy và vẫy tay chào tạm biệt cô.
Anna nhìn theo chiếc xe cho đến khi nó khuất sau góc phố, mang theo bức tranh, hành lý, vé máy bay, cùng 20 đôla của cô. Tài sản bảo lãnh mà cô có cho tất cả những thứ đó là một miếng pho mát, một ổ bánh mỳ và một bình cà phê.
Fenston cầm ống nghe lên sau hồi chuông thứ mười.
“Tôi vừa hạ cánh xuống Bucharest”, cô ta nói. “Chiếc thùng màu đỏ mà ông đang truy tìm đã được đưa lên một chuyến bay tới London, sẽ hạ cánh xuống sân bay Heathrow vào khoảng 4 giờ chiều nay”.
“Thế còn cô ta?”.
“Tôi không biết kế hoạch của cô ta là gì, như khi tôi...”.
“Hãy đảm bảo rằng cô đã vứt cái xác ấy lại Bucharest”.
Tín hiệu tắt.
Krantz bước ra khỏi sân bay, đặt chiếc điện thoại cầm tay xuống dưới bánh một chiếc xe tải và chờ cho nó chuyển bánh rồi mới quay trở lại Cổng vào. Cô ta nhìn lại bảng báo giờ bay và các chuyến bay, nhưng lần này cô ta không nghĩ Anna sẽ bay tới London; buổi sáng hôm ấy cũng có một chuyến bay tới New York.
Nếu Anna đi trên chuyến bay đó, cô ta sẽ phải giết Anna ngay tại sân bay này. Đây không phải là lần đầu tiên, tại nơi này.
Krantz đứng nép vào một chiếc máy bán đồ uống tự động và chờ đợi. Cô ta quan sát để không bỏ qua một chiếc tắc xi nào thả khách xuống sân bay. Cô ta chỉ quan tâm tới một chiếc tắc xi đặc biệt, và một vị khách đặc biệt. Petrescu sẽ không thể lừa cô ta lần nữa, bởi vì lần này, cô ta đã được đảm bảo.
Sau ba mươi phút, Anna bắt đầu cảm thấy bồn chồn. Sau bốn mươi phút, cảm giác bồn chồn biến thành lo lắng. Sau năm mươi phút, cảm giác của cô đã gần với sự kinh hãi. Một giờ sau khi Sergei rời đi, cô bắt đầu có ý nghĩ rằng biết đâu Sergei đang làm việc cho Fenston. Vài phút sau đó, một chiếc Mercedes cũ màu vàng hiện ra ở góc cua.
Sergei mỉm cười. “Trông cô có vẻ như vừa trút được nỗi ngờ vực”, ông ta vừa nói vừa mở cửa xe cho cô và đưa trả cô tấm vé.
“Không, không”, Anna nói và cảm thấy như mình có tội.
Sergei lại mỉm cười. “Chiếc thùng đã được đưa lên cùng chuyến bay đi London với cô”, ông ta nói khi đã ngồi vào sau vô lăng.
“Tốt quá”, Anna nói, “vậy có lẽ bây giờ cháu cũng nên đi ngay là vừa”.
“Đồng ý”, Sergei nói rồi khởi động máy. “Nhưng cô phải cẩn thận, bởi vì gã người Mỹ đã ở sẵn đó để chờ cô”.
“Anh ta không quan tâm tới cháu”, Anna nói, “anh ta chỉ quan tâm tới chiếc thùng thôi”.
“Nhưng gã đã trông thấy tôi đưa nó vào chỗ gửi hàng, và chỉ cần 20 đôla, gã sẽ biết chiếc thùng được chuyển đi đâu”.
“Cháu không cần quan tâm đến chuyện đó nữa”, Anna nói mà không giải thích gì thêm.
Sergei có vẻ ngạc nhiên, nhưng không hỏi gì thêm, ông ta cho xe chầm chậm chạy lên xa lộ và hướng về phía sân bay.
“Cháu nợ bác quá nhiều”, Anna nói. “4 đô”, Sergei nói, “cộng thêm một bữa tối. Tổng cộng là 5 đô”.
Anna mở cặp, lấy chiếc phong bì, rồi cất hết tiền trong đó vào cặp. Sau đó cô cho năm tờ mệnh giá 100 đôla vào lại phong bì rồi dán lại như cũ.
Cô đưa chiếc phong bì cho Sergei.
“5 đôla”, cô nói.
“Cảm ơn cô”, ông già trả lời.
“Anna”, cô nói rồi hôn lên hai bên má ông già. Nếu Anna ngoảnh nhìn lại, cô sẽ trông thấy cảnh một người lính già đang khóc. Cô không biết rằng Đại tá Sergei Slatinarus là người đã ở bên cạnh cha cô khi ông bị thủ tiêu.
Khi Tina bước ra khỏi thang máy, chị thấy Leapman bước ra khỏi phòng mình. Chị lánh vào phòng vệ sinh.
Tim chị đập thình thịch khi chị nghĩ đến những hậu quả mà mình có thể sẽ phải gánh chịu. Liệu ông ta đã biết chuyện chị có thể nghe lỏm mọi cuộc điện thoại của chủ tịch và có thể quan sát tất cả những ai vào ra phòng làm việc của Fenston? Nhưng điều tệ hại hơn là, liệu ông ta có biết chuyện trong suốt một năm qua, chị đã gửi tất cả các tài liệu mật vào hòm thư điện tử của mình? Tina cố giữ nét mặt bình thường khi chị bước trở ra hành lang và chầm chậm đi về phía phòng làm việc của mình. Có một điều mà chị biết chắc, đó là Leapman sẽ không để lại một dấu vết nào cho thấy ông ta đã vào phòng chị.
Chị ngồi xuống bàn làm việc và bật màn hình theo dõi lên. Chị cảm thấy như phát sốt. Leapman đang trong phòng chủ tịch và đang nói gì đó với Fenston, còn Fenston thì đang chú ý nghe.
Khi Anna hôn lên má Sergei, Jack nhận ra đó chính là ông già đã cuỗm 20 đôla của anh hôm trước - một món tiền mà anh không thể đưa vào hoá đơn thanh toán. Anh nghĩ tới chuyện cả hai người phải thức thâu đêm, trong khi Anna có thể ngủ đẫy. Nếu ông già kia chỉ cần chợp mắt một lúc, Jack nghĩ Người Lùn sẽ không bỏ qua cơ hội và sẽ cuỗm chiếc thùng đi, cho dù kể từ khi cô ta lên máy bay đi London, anh không nhìn thấy cô ta đâu nữa. Anh băn khoăn không biết bây giờ cô ta đang ở đâu. Chắc là không xa nơi này. Mỗi giờ trôi qua, Jack càng nhận ra rằng ông già kia không chỉ đơn thuần là một tài xế tắc xi, mà là một người rất trung thành với Anna. Chắc hẳn phải có lý do.
Jack biết không nên lãng phí thời gian vào việc tìm cách hối lộ ông già. Nhưng người quản lý việc tiếp nhận hàng gửi đã ra hiệu cho anh vào văn phòng của mình, và thậm chí còn in cả tờ biên nhận cho anh xem. Chiếc thùng được gửi theo chuyến bay sắp cất cánh. Đích đến là London. Đã được đưa lên máy bay, ông ta khẳng định với anh. Không phải là một khoản đầu tư tồi với năm mươi đôla, dù anh không thể luận ra chữ ký.
Nhưng cô ta có lên cùng chuyến bay đó không? Jack vẫn cảm thấy băn khoăn. Nếu bức Van Gogh vẫn còn trong chiếc thùng kia, vậy thì chiếc thùng mà Anna đưa tới Nhật Bản cho Nakamura đựng gì trong đó? Anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chờ đợi để xem cô ta có lên cùng chuyến bay đó hay không.
Sergei nhìn theo Anna khi cô bước về phía cổng ra vào sân bay, tay kéo theo chiếc vali. Ông sẽ gọi cho Anton ngay, để báo cho Anton biết rằng ông đã đưa Anna đến sân bay một cách an toàn. Anna quay lại vẫy tay chào, và ông không để ý thấy một người khách đang ngồi lên ghế sau xe, cho đến khi ông nghe thấy tiếng sập cửa.
Ông nhìn vào gương chiếu hậu.
“Đi đâu, thưa cô?”, ông hỏi.
“Sân bay cũ”, cô ta nói.
“Tôi nghĩ là sân bay đó không còn được sử dụng nữa”, ông nói, nhưng cô ta im lặng. Một số khách đi xe rất ít lời.
Khi xe đến chỗ rẽ vào sân bay cũ, Sergei lại liếc nhìn vào gương chiếu hậu. Khuôn mặt cô ta trông quen quen. Phải chăng ông đã từng chở cô ta? Ông cho xe chạy nhanh hơn. Chiếc sân bay cũ đúng là đã bị bỏ hoang như ông nói. Không có một chiếc máy bay nào còn đậu ở đó kể từ khi Ceausescu tìm cách tẩu thoát từ sân bay này vào năm 1989. Ông lại nhìn vào gương chiếu hậu, trong khi vẫn giữ đều tốc độ, và thình lình Ông nhớ ra. Bây giờ thì Sergei đã nhớ rõ ông gặp cô ta khi nào. Trước kia tóc dài hơn, có màu vàng, và cho dù đã một thập kỷ trôi qua, đôi mắt kia vẫn không hề thay đổi - một đôi mắt không để lộ bất kỳ cảm xúc nào khi giết người, một đôi mắt mà nạn nhân không thể quên cả khi đã chết. Đại đội của ông bị bao vây tại biên giới với Bulgaria. Họ nhanh chóng bị bắt và bị dồn tới trại tù binh gần nhất. Ông có thể nghe thấy tiếng kêu của những thanh niên tình nguyện trẻ tuổi trong đội quân của mình. Nhiều người trong số họ chỉ vừa mới rời ghế nhà trường. Và rồi, một khi họ đã khai hết với cô ta, hoặc không khai gì, cô ta cắt cổ họ trong khi nhìn chằm chằm vào mắt họ. Khi biết chắc là họ đã chết, bằng một động tác rất nhanh, cô ta cắt đứt đầu họ rồi vứt vào đống đầu lâu trong xà lim. Kể cả những tay đao phủ chai lì nhất cũng phải tránh ánh mắt của các nạn nhân, nhưng cô ta thì không.
Trước khi rời đi, cô ta sẽ bỏ ra chút thời gian để nhìn qua những người chưa bị giết. Đêm nào cô ta cũng nói lời chia tay bằng một câu: “Tao vẫn chưa quyết định ngày mai sẽ đến lượt đứa nào”. Chỉ có ba người của ông sống sót, vì có một đợt tù nhân mới, với những thông tin mới. Nhưng trong suốt 37 đêm không ngủ, Đại tá Sergei Slatinaru không biết bao giờ thì đến lượt mình. Nạn nhân cuối cùng của cô ta chính là cha của Anna, một trong những người dũng cảm nhất mà ông từng gặp.
Khi cuối cùng họ được giải thoát, một trong những nhiệm vụ đầu tiên của ông là báo cho mẹ Anna về cái chết của Đại uý Petrescu. Ông đã nói dối, và nói với mẹ Anna rằng chồng của bà đã hy sinh một cách anh dũng trên chiến trường. Tại sao lại phải đẩy những cơn ác mộng của ông cho một người phụ nữ vô tội? Và rồi Anton gọi điện nói rằng mình vừa nhận được điện thoại của con gái Đại uý Petrescu; cô đang trên đường tới Bucharest, và liệu ông có thể...
Khi đất nước thay đổi và tình hình lắng xuống, những tội ác của Krantz bị phơi bày. Cô ta bị bắt giam, cô ta trốn thoát sang Mỹ. Cũng có tin đồn cô ta đã bị giết. Sergei cầu nguyện cho cô ta còn sống để ông có được cơ hội tự tay giết chết cô ta. Nhưng ông sợ rằng cô ta sẽ chẳng bao giờ còn xuất hiện ở đất nước Romania này nữa, bởi vì quá nhiều người có thể nhận ra cô ta và sẽ đứng xếp hàng để chờ được báo thù. Nhưng tại sao cô ta lại quay trở lại? Cái gì trong chiếc thùng kia có thể khiến cô ta hành động liều lĩnh như vậy? Sergei cho xe chạy chậm lại khi tới dải đất hoang, nơi trước kia từng là đường băng nhưng bây giờ chỉ toàn cỏ dại. Ông giữ một tay trên vô lăng, còn tay kia từ từ luồn xuống ghế để tìm khẩu súng mà ông đã không sử dụng kể từ khi Ceausescu bị tử hình. “Cô muốn tôi dừng lại ở đâu, thưa cô?”, ông hỏi như thể họ đang ở giữa một con phố đông đúc. Ông nắm chặt lấy báng súng. Cô ta không trả lời. Ông liếc nhìn vào gương chiếu hậu, và hiểu rằng mọi cử động bất thường nào của ông cũng sẽ khiến cô ta cảnh giác. Không những cô ta có lợi thế ngồi sau lưng ông, mà giờ đây cô ta còn theo dõi mọi cử động của ông. Ông biết một trong hai người sẽ phải chết trong vòng một phút nữa.
Sergei luồn ngón tay trỏ vào cò súng, chầm chậm lấy khẩu súng ra khỏi ghế và từ từ giơ tay lên, từng li một. Ông vừa chuẩn bị thắng phanh thì một bàn tay túm lấy tóc ông và giật mạnh đầu ông ra đằng sau. Chân ông trượt ra khỏi chân ga và chiếc xe từ từ dừng lại giữa đường băng.
Ông giơ khẩu súng lên 1 inch nữa. “Cô ta đi đâu?”, Krantz vừa hỏi vừa kéo mạnh đầu ông ra đằng sau và nhìn vào mắt ông.
“Cô gái nào?”, ông cố nói, và có thể cảm thấy một lưỡi dao chạm vào da mình ngay bên dưới mang tai.
“Đừng giở trò với tôi, ông già. Cô gái mà ông đã thả xuống sân bay ấy”.
“Cô ta không nói”. Thêm 1 inch nữa. “Cô ta không nói, dù ông đã chở cô ta đi khắp nơi? Đi đâu?” cô ta hét lên, và lưỡi dao ấn mạnh hơn vào da ông.
Thêm 1 inch nữa.
“Tôi cho ông một cơ hội cuối cùng”, cô ta rít lên và ấn sâu lưỡi dao vào cổ ông. Máu đã bắt đầu chảy. “Cô - ta - đi - đâu?”, Krantz gằn từng tiếng. “Tôi không biết”, Sergei la to, đồng thời giơ súng lên, chĩa về phía đầu cô ta và bóp cò.
Viên đạn xuyên qua vai Krantz và làm cô ta bật về phía sau, nhưng cô ta vẫn không buông tóc Sergei ra. Sergei kéo cò lần nữa, nhưng giữa hai lần bắn là cả một giây đồng hồ. Vừa đủ để cô ta cắt đứt cổ họng ông chỉ bằng một động tác.
Thứ mà Sergei nhìn thấy trước khi chết là đôi mắt lạnh lùng kia.
Chiếc thùng gỗ vẫn còn ở nguyên chỗ cũ.
“Chào cô”, Sergei nói. “Cô ngủ có ngon không?”.
Cô cười. “Có vẻ ngon hơn giấc ngủ của bác”.
“Sau 20 năm trong quân đội, giấc ngủ trở thành một thứ xa xỉ”, Sergei nói. “Nhưng xin mời cô ăn sáng với tôi”. Ông ta quay lại xe và lấy ra một chiếc hộp thiếc nhỏ từ dưới ghế lái. Ông ta mở nắp hộp ra: hai ổ bánh mỳ, một quả trứng luộc, một lát pho mát, hai củ khoai tây, một quả cam và một bình cà phê.
“Bác lấy đâu ra tất cả những thứ này vậy?”, Anna vừa bóc cam vừa hỏi. “Bữa tối của hôm qua”, Sergei giải thích, “do bà vợ chu đáo của tôi chuẩn bị đấy”.
“Bác giải thích việc tối qua bác không về nhà với bác gái như thế nào?”, Anna hỏi.
“Tôi nói thật mọi chuyện với bà ấy”, Sergei nói. “Tôi đã ở bên một người con gái xinh đẹp suốt đêm”, Anna đỏ mặt. “Nhưng tôi sợ mình đã quá già để có thể làm cho bà ấy tin chuyện đó”, ông ta nói thêm. “Vậy tiếp theo chúng ta sẽ làm gì? Cướp ngân hàng à? .
“Nếu bác biết có ngân hàng nào có đủ 50 triệu đôla tiền lẻ”, Anna vừa cười vừa nói. “Nếu không cháu sẽ phải đưa nó lên chuyến bay tiếp theo tới London, vì vậy cháu cần phải tìm hiểu xem khi nào thì người ta mở cửa nhận hàng”.
“Khi người đầu tiên xuất hiện”, Sergei vừa nói vừa bóc vỏ quả trứng. “Thường là vào lúc 7 giờ”, ông ta nói thêm trước khi đưa quả trứng cho Anna.
Anna cắn một miếng. “Vậy thì cháu cần phải có mặt ở đó trước 7 giờ, để đảm bảo rằng chiếc thùng này sẽ được đưa lên máy bay”. Cô nhìn đồng hồ. “Vậy có lẽ ta nên đi thôi bác ạ!”.
“Tôi không nghĩ thế?”.
“Ý bác là gì ạ?”, Anna hỏi bằng một giọng lo lắng.
“Khi một người phụ nữ như cô phải ngủ qua đêm trong một chiếc xe, ắt hẳn phải có lý do. Và tôi nghĩ lý do đang nằm kia”, Sergei vừa nói vừa chỉ vào chiếc thùng. “Vì vậy nếu cô làm thủ tục lên máy bay cùng với một chiếc thùng màu đỏ, đó sẽ là một việc làm thiếu thận trọng”. Anna tiếp tục nhìn ông ta chằm chằm, nhưng cô không nói gì. “Phải chăng trong chiếc thùng đó có đựng một thứ mà cô không muốn chính quyền quan tâm?”. Ông ta dừng lại, nhưng Anna vẫn không nói gì. “Theo tôi thì”, Sergei nói. “Cô biết đấy, khi tôi còn là một đại tá trong quân đội, mỗi khi tôi cần làm một việc gì đó mà không muốn cho ai biết, tôi bao giờ cũng chọn một anh chàng hạ sỹ nào đó dưới quyền để giao nhiệm vụ. Như thế, theo kinh nghiệm của tôi, chẳng bao giờ khiến ai để ý. Tôi nghĩ hôm nay tôi có thể làm một hạ sỹ dưới quyền của cô”.
“Nhưng nếu bác bị bắt thì sao?”.
“Vậy thì tức là tôi đã làm được một việc có ích. Cô có nghĩ nghề lái tắc xi là một nghề rất hợp với một đại tá quân đội, một người đã từng chỉ huy cả một trung đoàn như tôi không? Đừng lo lắng, thưa cô. Một vài nhân viên cũ của tôi làm việc ở hải quan sân bay, và nếu giá cả hợp lý, họ sẽ không đưa ra nhiều câu hỏi”.
Anna mở chiếc cặp, lấy chiếc phong bì mà Anton đã đưa cho cô ra rồi đưa cho Sergei năm tờ 20 đôla. “Không, thưa cô”, ông ta xua tay, “chúng ta không hối lộ cảnh sát trưởng, chỉ là vài nhân viên địa phương thôi”, ông ta nói thêm rồi cầm lấy một tờ. “Và hơn nữa, sau này có thể tôi vẫn còn cần nhờ họ giúp vài chuyện, vì vậy ta không nên phá giá”.
Anna cười. “Và khi ký biên nhận, bác Sergei, bác phải ký làm sao để không ai có thể đọc được nhé”.
Sergei nhìn cô chằm chằm. “Tôi hiểu”, ông ta nói rồi dừng lại. “Cô cứ ở đây, và đừng để cho người ta nhìn thấy. Tất cả những gì tôi cần là vé máy bay của cô”.
Anna lại mở cặp ra, cất bốn tờ tiền còn lại vào chiếc phong bì rồi lấy vé đưa cho Sergei, ông ta lên xe, khởi động máy và vẫy tay chào tạm biệt cô.
Anna nhìn theo chiếc xe cho đến khi nó khuất sau góc phố, mang theo bức tranh, hành lý, vé máy bay, cùng 20 đôla của cô. Tài sản bảo lãnh mà cô có cho tất cả những thứ đó là một miếng pho mát, một ổ bánh mỳ và một bình cà phê.
Fenston cầm ống nghe lên sau hồi chuông thứ mười.
“Tôi vừa hạ cánh xuống Bucharest”, cô ta nói. “Chiếc thùng màu đỏ mà ông đang truy tìm đã được đưa lên một chuyến bay tới London, sẽ hạ cánh xuống sân bay Heathrow vào khoảng 4 giờ chiều nay”.
“Thế còn cô ta?”.
“Tôi không biết kế hoạch của cô ta là gì, như khi tôi...”.
“Hãy đảm bảo rằng cô đã vứt cái xác ấy lại Bucharest”.
Tín hiệu tắt.
Krantz bước ra khỏi sân bay, đặt chiếc điện thoại cầm tay xuống dưới bánh một chiếc xe tải và chờ cho nó chuyển bánh rồi mới quay trở lại Cổng vào. Cô ta nhìn lại bảng báo giờ bay và các chuyến bay, nhưng lần này cô ta không nghĩ Anna sẽ bay tới London; buổi sáng hôm ấy cũng có một chuyến bay tới New York.
Nếu Anna đi trên chuyến bay đó, cô ta sẽ phải giết Anna ngay tại sân bay này. Đây không phải là lần đầu tiên, tại nơi này.
Krantz đứng nép vào một chiếc máy bán đồ uống tự động và chờ đợi. Cô ta quan sát để không bỏ qua một chiếc tắc xi nào thả khách xuống sân bay. Cô ta chỉ quan tâm tới một chiếc tắc xi đặc biệt, và một vị khách đặc biệt. Petrescu sẽ không thể lừa cô ta lần nữa, bởi vì lần này, cô ta đã được đảm bảo.
Sau ba mươi phút, Anna bắt đầu cảm thấy bồn chồn. Sau bốn mươi phút, cảm giác bồn chồn biến thành lo lắng. Sau năm mươi phút, cảm giác của cô đã gần với sự kinh hãi. Một giờ sau khi Sergei rời đi, cô bắt đầu có ý nghĩ rằng biết đâu Sergei đang làm việc cho Fenston. Vài phút sau đó, một chiếc Mercedes cũ màu vàng hiện ra ở góc cua.
Sergei mỉm cười. “Trông cô có vẻ như vừa trút được nỗi ngờ vực”, ông ta vừa nói vừa mở cửa xe cho cô và đưa trả cô tấm vé.
“Không, không”, Anna nói và cảm thấy như mình có tội.
Sergei lại mỉm cười. “Chiếc thùng đã được đưa lên cùng chuyến bay đi London với cô”, ông ta nói khi đã ngồi vào sau vô lăng.
“Tốt quá”, Anna nói, “vậy có lẽ bây giờ cháu cũng nên đi ngay là vừa”.
“Đồng ý”, Sergei nói rồi khởi động máy. “Nhưng cô phải cẩn thận, bởi vì gã người Mỹ đã ở sẵn đó để chờ cô”.
“Anh ta không quan tâm tới cháu”, Anna nói, “anh ta chỉ quan tâm tới chiếc thùng thôi”.
“Nhưng gã đã trông thấy tôi đưa nó vào chỗ gửi hàng, và chỉ cần 20 đôla, gã sẽ biết chiếc thùng được chuyển đi đâu”.
“Cháu không cần quan tâm đến chuyện đó nữa”, Anna nói mà không giải thích gì thêm.
Sergei có vẻ ngạc nhiên, nhưng không hỏi gì thêm, ông ta cho xe chầm chậm chạy lên xa lộ và hướng về phía sân bay.
“Cháu nợ bác quá nhiều”, Anna nói. “4 đô”, Sergei nói, “cộng thêm một bữa tối. Tổng cộng là 5 đô”.
Anna mở cặp, lấy chiếc phong bì, rồi cất hết tiền trong đó vào cặp. Sau đó cô cho năm tờ mệnh giá 100 đôla vào lại phong bì rồi dán lại như cũ.
Cô đưa chiếc phong bì cho Sergei.
“5 đôla”, cô nói.
“Cảm ơn cô”, ông già trả lời.
“Anna”, cô nói rồi hôn lên hai bên má ông già. Nếu Anna ngoảnh nhìn lại, cô sẽ trông thấy cảnh một người lính già đang khóc. Cô không biết rằng Đại tá Sergei Slatinarus là người đã ở bên cạnh cha cô khi ông bị thủ tiêu.
Khi Tina bước ra khỏi thang máy, chị thấy Leapman bước ra khỏi phòng mình. Chị lánh vào phòng vệ sinh.
Tim chị đập thình thịch khi chị nghĩ đến những hậu quả mà mình có thể sẽ phải gánh chịu. Liệu ông ta đã biết chuyện chị có thể nghe lỏm mọi cuộc điện thoại của chủ tịch và có thể quan sát tất cả những ai vào ra phòng làm việc của Fenston? Nhưng điều tệ hại hơn là, liệu ông ta có biết chuyện trong suốt một năm qua, chị đã gửi tất cả các tài liệu mật vào hòm thư điện tử của mình? Tina cố giữ nét mặt bình thường khi chị bước trở ra hành lang và chầm chậm đi về phía phòng làm việc của mình. Có một điều mà chị biết chắc, đó là Leapman sẽ không để lại một dấu vết nào cho thấy ông ta đã vào phòng chị.
Chị ngồi xuống bàn làm việc và bật màn hình theo dõi lên. Chị cảm thấy như phát sốt. Leapman đang trong phòng chủ tịch và đang nói gì đó với Fenston, còn Fenston thì đang chú ý nghe.
Khi Anna hôn lên má Sergei, Jack nhận ra đó chính là ông già đã cuỗm 20 đôla của anh hôm trước - một món tiền mà anh không thể đưa vào hoá đơn thanh toán. Anh nghĩ tới chuyện cả hai người phải thức thâu đêm, trong khi Anna có thể ngủ đẫy. Nếu ông già kia chỉ cần chợp mắt một lúc, Jack nghĩ Người Lùn sẽ không bỏ qua cơ hội và sẽ cuỗm chiếc thùng đi, cho dù kể từ khi cô ta lên máy bay đi London, anh không nhìn thấy cô ta đâu nữa. Anh băn khoăn không biết bây giờ cô ta đang ở đâu. Chắc là không xa nơi này. Mỗi giờ trôi qua, Jack càng nhận ra rằng ông già kia không chỉ đơn thuần là một tài xế tắc xi, mà là một người rất trung thành với Anna. Chắc hẳn phải có lý do.
Jack biết không nên lãng phí thời gian vào việc tìm cách hối lộ ông già. Nhưng người quản lý việc tiếp nhận hàng gửi đã ra hiệu cho anh vào văn phòng của mình, và thậm chí còn in cả tờ biên nhận cho anh xem. Chiếc thùng được gửi theo chuyến bay sắp cất cánh. Đích đến là London. Đã được đưa lên máy bay, ông ta khẳng định với anh. Không phải là một khoản đầu tư tồi với năm mươi đôla, dù anh không thể luận ra chữ ký.
Nhưng cô ta có lên cùng chuyến bay đó không? Jack vẫn cảm thấy băn khoăn. Nếu bức Van Gogh vẫn còn trong chiếc thùng kia, vậy thì chiếc thùng mà Anna đưa tới Nhật Bản cho Nakamura đựng gì trong đó? Anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chờ đợi để xem cô ta có lên cùng chuyến bay đó hay không.
Sergei nhìn theo Anna khi cô bước về phía cổng ra vào sân bay, tay kéo theo chiếc vali. Ông sẽ gọi cho Anton ngay, để báo cho Anton biết rằng ông đã đưa Anna đến sân bay một cách an toàn. Anna quay lại vẫy tay chào, và ông không để ý thấy một người khách đang ngồi lên ghế sau xe, cho đến khi ông nghe thấy tiếng sập cửa.
Ông nhìn vào gương chiếu hậu.
“Đi đâu, thưa cô?”, ông hỏi.
“Sân bay cũ”, cô ta nói.
“Tôi nghĩ là sân bay đó không còn được sử dụng nữa”, ông nói, nhưng cô ta im lặng. Một số khách đi xe rất ít lời.
Khi xe đến chỗ rẽ vào sân bay cũ, Sergei lại liếc nhìn vào gương chiếu hậu. Khuôn mặt cô ta trông quen quen. Phải chăng ông đã từng chở cô ta? Ông cho xe chạy nhanh hơn. Chiếc sân bay cũ đúng là đã bị bỏ hoang như ông nói. Không có một chiếc máy bay nào còn đậu ở đó kể từ khi Ceausescu tìm cách tẩu thoát từ sân bay này vào năm 1989. Ông lại nhìn vào gương chiếu hậu, trong khi vẫn giữ đều tốc độ, và thình lình Ông nhớ ra. Bây giờ thì Sergei đã nhớ rõ ông gặp cô ta khi nào. Trước kia tóc dài hơn, có màu vàng, và cho dù đã một thập kỷ trôi qua, đôi mắt kia vẫn không hề thay đổi - một đôi mắt không để lộ bất kỳ cảm xúc nào khi giết người, một đôi mắt mà nạn nhân không thể quên cả khi đã chết. Đại đội của ông bị bao vây tại biên giới với Bulgaria. Họ nhanh chóng bị bắt và bị dồn tới trại tù binh gần nhất. Ông có thể nghe thấy tiếng kêu của những thanh niên tình nguyện trẻ tuổi trong đội quân của mình. Nhiều người trong số họ chỉ vừa mới rời ghế nhà trường. Và rồi, một khi họ đã khai hết với cô ta, hoặc không khai gì, cô ta cắt cổ họ trong khi nhìn chằm chằm vào mắt họ. Khi biết chắc là họ đã chết, bằng một động tác rất nhanh, cô ta cắt đứt đầu họ rồi vứt vào đống đầu lâu trong xà lim. Kể cả những tay đao phủ chai lì nhất cũng phải tránh ánh mắt của các nạn nhân, nhưng cô ta thì không.
Trước khi rời đi, cô ta sẽ bỏ ra chút thời gian để nhìn qua những người chưa bị giết. Đêm nào cô ta cũng nói lời chia tay bằng một câu: “Tao vẫn chưa quyết định ngày mai sẽ đến lượt đứa nào”. Chỉ có ba người của ông sống sót, vì có một đợt tù nhân mới, với những thông tin mới. Nhưng trong suốt 37 đêm không ngủ, Đại tá Sergei Slatinaru không biết bao giờ thì đến lượt mình. Nạn nhân cuối cùng của cô ta chính là cha của Anna, một trong những người dũng cảm nhất mà ông từng gặp.
Khi cuối cùng họ được giải thoát, một trong những nhiệm vụ đầu tiên của ông là báo cho mẹ Anna về cái chết của Đại uý Petrescu. Ông đã nói dối, và nói với mẹ Anna rằng chồng của bà đã hy sinh một cách anh dũng trên chiến trường. Tại sao lại phải đẩy những cơn ác mộng của ông cho một người phụ nữ vô tội? Và rồi Anton gọi điện nói rằng mình vừa nhận được điện thoại của con gái Đại uý Petrescu; cô đang trên đường tới Bucharest, và liệu ông có thể...
Khi đất nước thay đổi và tình hình lắng xuống, những tội ác của Krantz bị phơi bày. Cô ta bị bắt giam, cô ta trốn thoát sang Mỹ. Cũng có tin đồn cô ta đã bị giết. Sergei cầu nguyện cho cô ta còn sống để ông có được cơ hội tự tay giết chết cô ta. Nhưng ông sợ rằng cô ta sẽ chẳng bao giờ còn xuất hiện ở đất nước Romania này nữa, bởi vì quá nhiều người có thể nhận ra cô ta và sẽ đứng xếp hàng để chờ được báo thù. Nhưng tại sao cô ta lại quay trở lại? Cái gì trong chiếc thùng kia có thể khiến cô ta hành động liều lĩnh như vậy? Sergei cho xe chạy chậm lại khi tới dải đất hoang, nơi trước kia từng là đường băng nhưng bây giờ chỉ toàn cỏ dại. Ông giữ một tay trên vô lăng, còn tay kia từ từ luồn xuống ghế để tìm khẩu súng mà ông đã không sử dụng kể từ khi Ceausescu bị tử hình. “Cô muốn tôi dừng lại ở đâu, thưa cô?”, ông hỏi như thể họ đang ở giữa một con phố đông đúc. Ông nắm chặt lấy báng súng. Cô ta không trả lời. Ông liếc nhìn vào gương chiếu hậu, và hiểu rằng mọi cử động bất thường nào của ông cũng sẽ khiến cô ta cảnh giác. Không những cô ta có lợi thế ngồi sau lưng ông, mà giờ đây cô ta còn theo dõi mọi cử động của ông. Ông biết một trong hai người sẽ phải chết trong vòng một phút nữa.
Sergei luồn ngón tay trỏ vào cò súng, chầm chậm lấy khẩu súng ra khỏi ghế và từ từ giơ tay lên, từng li một. Ông vừa chuẩn bị thắng phanh thì một bàn tay túm lấy tóc ông và giật mạnh đầu ông ra đằng sau. Chân ông trượt ra khỏi chân ga và chiếc xe từ từ dừng lại giữa đường băng.
Ông giơ khẩu súng lên 1 inch nữa. “Cô ta đi đâu?”, Krantz vừa hỏi vừa kéo mạnh đầu ông ra đằng sau và nhìn vào mắt ông.
“Cô gái nào?”, ông cố nói, và có thể cảm thấy một lưỡi dao chạm vào da mình ngay bên dưới mang tai.
“Đừng giở trò với tôi, ông già. Cô gái mà ông đã thả xuống sân bay ấy”.
“Cô ta không nói”. Thêm 1 inch nữa. “Cô ta không nói, dù ông đã chở cô ta đi khắp nơi? Đi đâu?” cô ta hét lên, và lưỡi dao ấn mạnh hơn vào da ông.
Thêm 1 inch nữa.
“Tôi cho ông một cơ hội cuối cùng”, cô ta rít lên và ấn sâu lưỡi dao vào cổ ông. Máu đã bắt đầu chảy. “Cô - ta - đi - đâu?”, Krantz gằn từng tiếng. “Tôi không biết”, Sergei la to, đồng thời giơ súng lên, chĩa về phía đầu cô ta và bóp cò.
Viên đạn xuyên qua vai Krantz và làm cô ta bật về phía sau, nhưng cô ta vẫn không buông tóc Sergei ra. Sergei kéo cò lần nữa, nhưng giữa hai lần bắn là cả một giây đồng hồ. Vừa đủ để cô ta cắt đứt cổ họng ông chỉ bằng một động tác.
Thứ mà Sergei nhìn thấy trước khi chết là đôi mắt lạnh lùng kia.
Tác giả :
Jeffrey Archer