Vợ Nhặt - Kim Lân
Đề bài 17: So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

Vợ Nhặt - Kim Lân

Đề bài 17: So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

I. Mở bài 

+ Giới thiệu Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt. 

+ Giới thiệu Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ. 

+ Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Những điểm giống và khác nhau trong tư tưởng nhân đạo của Kim Lân và Tô Hoài được thể hiện qua hai tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ.

 II. Thân bài 

1. Định nghĩa khái niệm giá trị nhân đạo (Luận điểm phụ) 

Giá trị nhân đạo trong văn chương truyền thống thể hiện ở nhiều phương diện, khía cạnh. Song nhìn chung, đó là thái độ thương yêu, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người; đó là sự đồng cảm với những đau khổ cũng như ngợi ca, đề cao những khát vọng của con người; lên án, tố cáo những thế lực áp bức, bóc lột người lao động... Một tác phẩm hàm chứa những nội dung trên được coi là có tính nhân văn sâu sắc.

2. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong “Vợ nhặt" 

a. Số phận bi thảm của con người

(Phân tích cảnh ngộ, số phận của các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ để làm rõ vấn đề này).

b. Khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai

 - Vợ nhặt không chỉ cho chúng ta thêm trân trọng những phẩm giá đáng quý của con

người mà còn giúp chúng ta hiểu được khát vọng sống của họ. Cái đói, cái chết có thể khiến người ta phần nào tha hóa nhân cách nhưng hạnh phúc đã như một nguồn sinh lực thay đổi cuộc đời họ.

  Cuộc hôn nhân lạ lùng của Tràng với người vợ nhặt là một minh chứng. Không phải trước đó Tràng không khát khao có một gia đình, có một người vợ chăm sóc mẹ anh lúc già yếu. Không phải Tràng không mơ về một ngày nhà cửa quang quẻ, đàn gà ấp nở trong sân, vợ chồng mẹ con vui vầy. Cái cảnh chết chóc, tiếng khóc tỉ tê, cái đói đã khiến con người ta có lúc tưởng như không đủ sức với tới hạnh phúc nhỏ bé ấy. Chỉ tới khi người đọc bắt gặp ánh mắt rạng rỡ, hân hoan của cả Tràng và bà cụ Tứ trước ngọn đèn hiếm hoi, chúng ta mới hiểu rằng nỗi khát khao giờ phút đó đã cháy bỏng da diết như thế nào trong lòng họ. Hai hào dầu phung phí đổi lấy một chút “sáng sủa" đón mừng hạnh phúc của con trai khiến bà cụ như khoẻ lên, như trẻ lại

. - Những mảnh đời nghèo đói đến với nhau, cùng chắp lại thành một cuộc đời ấm áp, nhen nhóm hi vọng. Chủ nghĩa nhân đạo mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm vào nhân vật, vào tác phẩm của mình vừa trực tiếp thể hiện qua tâm trạng nhân vật, vừa gián tiếp qua bố cục câu chuyện. Chiều hướng vận động của thời gian trong truyện đi từ chiều tàn, đêm tối tới ánh sáng từ “tuyệt vọng" tới “hi vọng", từ “một ngọn đèn" hiếm hoi được khêu lên đến hình ảnh “lá cờ đỏ" phấp phới trong trí nhớ của Tràng. Tất cả là tích cực, là sự tin tưởng vào khả năng thay đổi cuộc sống, hoàn cảnh của nhà văn và nhân vật.

 + Một nhân cách, một khát vọng mà có một sự chuẩn bị cho tương lai yên ổn chắc chắn sẽ khiến mỗi người tự tin hơn.

 + Qua “lá cờ đỏ trên con đế", Kim Lân như muốn báo trước một ngày mai rạng rỡ hơn, một cuộc đời mới được sưởi ấm bởi ánh sáng của “ngọn đèn" vĩnh cửu là cách mạng.1\

 3. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ"

a) Niềm cảm thông sâu sắc của Tô Hoài đối với những số phận bất hạnh, bị tước đoạt quyền sống, bị lăng nhục, đày đọa mà tiêu biểu là Mị và A Phủ.

- Hai con người bị đày đọa khủng khiếp trong tù ngục nhà thống lí Pá Tra đang chết dần, chết mòn vì khổ đau. 

+ Mị - cô gái trẻ đẹp bị bắt cóc về làm con dâu để gạt nợ nhà thống lí. Mị sống âm

thầm, vật vờ như chiếc bóng, cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", khi thì

tưởng “mình cũng là con trâu, con ngựa". 

• Mi sống mà hầu như mọi quyền lợi bị tước đoạt. Mang tiếng là con dâu nhưng Mị

lại là con dâu gạt nợ. Là con nợ hơn là con dâu. Là con nợ nên Mị thành nô lệ để “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay. Cuối mùa thì đi nương bẻ bắp... lúc nào cũng cài một bó đay ở trong tay để tước thành sợi. Suốt

năm, suốt đời như thể. 

• Bị bóc lột sức lao động đã đành, Mị lại còn bị tước đoạt tuổi xuân, hạnh phúc, bị

thần quyền áp chế. Nơi Mị sống chỉ độc “một ô cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay trông ra ngoài không biết sương hay là nắng". Đó là chốn địa ngục trần gian mà

người chồng A Sử đã trói buộc Mị vào đó, vùi dập tuổi xuân của Mị ở đó.

 + A Phủ, một chàng trai khoẻ mạnh, hồn nhiên, phóng khoáng, yêu đời, lao động

giỏi. A Phủ không nợ nần gì nhà thống lí mà rốt cục cũng biến thành kẻ phải đi ở trừ nợ, suốt đời bị đánh đập, bị trói buộc một cách tàn nhẫn đến mức gần như tê

liệt cả sức phản kháng.

 • Cảnh xử kiện tàn bạo như thời trung cổ tàn nhẫn và độc ác. A Phủ bị đánh đập gần như cả ngày, “đầu, đuôi mắt giập chảy máu" nhưng “chỉ quỳ và im như cái tượng đá".

 • Vì để hổ bắt mất một con bò, A Phủ đã bị trói đứng lên cái cột với dây mây quấn từ chân lên đến cổ, phải chờ chết một cách vô lí trên cái cọc ấy giữa đêm đông rét

mướt nếu không có bàn tay cứu giúp của Mị.

 b. Sự tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của nhân dân lao động Tây Bắc mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. 

- Chúng đã lợi dụng chính sách cho vay nặng lãi để nô lệ hoá con người mà Mị và A Phủ chính là nạn nhân của chúng. Mị và A Phủ đại diện cho những người trẻ tuổi yêu tự do, giàu tài năng nhưng đã trở thành những kẻ nô lệ suốt đời bị đối xử như con vật. 

- Nợ nần là sợi dây trói buộc thể xác của Mị và A Phủ vào nhà thống lí nhưng thần

quyền mới là sợi dây trói oan nghiệt nhất đã trói buộc tinh thần Mị và A Phủ vào nhà thống lí. Họ đã bị thần quyền làm cho tê liệt cả ý thức phản kháng, trở thành những con người cam chịu kiếp sống trâu ngựa.

c. Nhà văn phát hiện, nâng niu và trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao đẹp của nhân vật Mị và A Phủ. 

- Mị là cô gái trẻ đẹp, giàu tài năng. “Mị thổi sáo hay, thổi lá cũng hay như thổi sáo"; có tấm lòng hiếu thảo với cha già. Khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, dù cuộc sống nhiều khổ cực, khổ như trâu ngựa nhưng trong Mị luôn ẩn chứa sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức phản kháng mạnh mẽ. 

+ Trong đêm tình mùa xuân, khi nghe tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi" Mị đã sống lại những phút giây tuổi trẻ ngày nào. Đó là lúc tài năng âm nhạc trong Mị được đánh thức. “Mị ngồi nhẩm thầm lời người đang thổi sáo". Từ một cô Mị câm lặng, vô cảm, mà hôm nay bỗng sống dậy. Bài hát cũ lâu rồi không hát, điệu sáo ấy lâu rồi không thôi nhưng Mị vẫn nhớ, Mị không quên nghĩa là sức sống trong Mị chưa nguội tắt mà vẫn âm ỉ như hòn than trong lớp tro tàn. 

+ Đó là hình ảnh một cô Mị nổi loạn cùng men rượu cay đêm tình. Rượu đã đưa Mị từ cõi quên về với cõi nhớ, rượu và tiếng sáo ngất ngây gọi bạn tình đã làm Mị nhận ra “Mị trẻ lắm. Mị còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Khát vọng ấy là khát vọng của con người yêu tự do, khát vọng tự do mãnh liệt. 

+ Hành động “Mị cuốn lại tóc. Mị với tay lấy chiếc váy hoa vắt ở phía trong vách... Mị rút thêm cái áo" đã cho thấy sự bứt phá của Mị với bản năng sống mãnh liệt bất chấp cả cường quyền, thần quyền.

 + Ngay cả khi bị A Sử trói đứng vào cột, bị A Sử cuốn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được đầu nữa, nhưng Mị vẫn thản nhiên, Mị không hề biết mình đang bị trói, thậm chí khi tiếng sáo nhập vào hồn Mị, Mị đã “vùng bước đi".

 » Sức sống tinh thần trong Mị đã lớn dậy, nó đã lấn át cả nỗi đau về thể xác. Bóng ma thần quyền, cường quyền đã khuất phục trước sức sống ấy của Mị. 

+ Sức sống mãnh liệt trỗi dậy trong đêm cứu A Phủ. Lúc đầu, Mị dửng dưng vô cảm trước cái chết cận kề của A Phủ. Nhưng sau đó, dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" đã thức dậy lòng thương cảm trong Mị. Lòng thương người ấy đã làm sống dậy trong Mị sức phản kháng mạnh mẽ.

 + Nếu nói đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ" thì đêm cứu A Phủ là “đám cháy lớn". Đám cháy ấy bùng lên khi Mị nhận thức được tội ác cha con nhà thống lí.

 + Đó là nhận thức bằng lí trí, bằng sự tỉnh táo. Từ nhận thức ấy, Mị đã cắt đứt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị cũng vụt chạy theo A Phủ để tự cứu mình. Đó cũng là vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng của con người lao động Tây Bắc và niềm tin của nhà văn vào khả năng vươn dậy của nhân vật. 

d. Nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động đi từ tự phát đến tự giác. 

+ Mị và A Phủ từ tăm tối đau thương đã vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm. Họ đã cùng nhau đạp qua đêm tối, vươn đến ngày mai ở Phiềng Sa, nên vợ nên chồng.

 + Cả hai người đã theo Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê hương và thay đổi số phận của mình. 

> Tác giả đã bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ. 

* Giá trị nghệ thuật của tác phẩm: Bên cạnh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, Vợ chồng A Phủ còn có những đặc sắc về phương diện nghệ thuật. Đó là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, miêu tả phong tục, tập quán, phong cảnh thiên nhiên sinh động; nghệ thuật kể chuyện sinh động, tự nhiên, hấp dẫn; ngôn ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. 

4. So sánh điểm giống và khác nhau của hai tác phẩm 

* Giống nhau: Đều thể hiện sự cảm thông sâu sắc trước số phận của người nông dân trong xã hội cũ; đều tố cáo, lên án các thế lực tàn bạo đã gây ra bi kịch cho con người và sự trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của người lao động. 

* Khác nhau:

 - Ở truyện ngắn Vợ nhặt: 

       + Đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt, tác giả bày tỏ sự cảm thương trước số phận bi thảm của người nông dân bị nạn đói dồn đẩy đến bước đường cùng, giá trị con người cũng trở nên rẻ mạt (phân tích quang cảnh xóm ngụ cư ngày đói, hình ảnh 

người đàn bà nhặt về làm vợ...).

 + Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp.

 + Phát hiện và ngợi ca khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, tình cảm cưu mang, 

đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng chung cảnh ngộ và niềm tin hướng về tương lai của họ (hành động táo tợn, liều lĩnh của thị; hành động và tâm trạng của Tràng khi gặp thị, mời thị ăn và đưa thị về; suy nghĩ của bà cụ Tứ, của dân xóm ngụ 

cư trước hạnh phúc của Tràng...).

- Ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ: 

+ Nhà văn cảm thông trước số phận bi thảm của người lao động vùng cao Tây Bắc, 

đặc biệt là thân phận người phụ nữ dưới ách áp bức bóc lột của bọn chúa đất phong kiến (thân phận và cảnh ngộ của Mị khi về làm dâu nhà thống lí Pa Tra, số phận của A Phủ...).

 + Tố cáo, lên án tội ác của giai cấp phong kiến thống trị (điển hình là cha con thống 

lí Pá Tra: bắt trả lãi cắt cổ, bắt người gạt nợ, trói người dã man, xử kiện không cho | thanh minh...). 

+ Trân trọng khát vọng tự do, tinh thần đấu tranh phản kháng của quần chúng bị áp 

bức (tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân, khi cắt dây trói cứu A Phủ...). 

5. Lí giải sự giống và khác nhau 

+ Do hoàn cảnh sáng tác. 

+ Do phong cách, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn. III. Kết bài 

Đánh giá vấn đề: 

+ Tóm lại, qua hai tác phẩm văn xuôi cách mạng trên, ta thấy nổi bật lên giá trị nhân đạo không chỉ dừng lại ở sự đồng cảm, thương yêu con người, sự trân trọng phẩm chất tốt đẹp của con người mà các nhà văn đã có ý thức thể hiện, bộc lộ sự phản kháng nguyên nhân gây nên nỗi khổ ấy. Đặc biệt, các nhà văn cách mạng đã tìm ra những giải pháp đưa con người ra khỏi bế tắc, tối tăm. 

+ Kim Lân và Tô Hoài là những cây bút truyện ngắn nổi tiếng trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ là hai truyện ngắn có giá trị nhân đạo sâu sắc nhưng tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn trong từng tác phẩm vẫn có những nét riêng.

 + Đóng góp riêng của mỗi nhà văn đã góp phần làm phong phú, mới mẻ cho truyền thống nhân đạo của văn học dân tộc (đặc biệt là ở cái nhìn đầy lạc quan, tin tưởng vào tương lai), tạo nên diện mạo mới cho văn xuôi giai đoạn 1945 – 1975.




Tác giả : Kim Lân
4/5 của 3 đánh giá

Bình luận

Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi
Nguyen 2 năm trước
Đã ra chap mới rồi nhé mọi người, link đây nha: bit.ly/newchap247

Truyện cùng thể loại