Tượng Đồng Đen Một Chân
Chương 4: Ngược về đầu nguồn

Tượng Đồng Đen Một Chân

Chương 4: Ngược về đầu nguồn

Bây giờ tạm thời ra khỏi xóm cái Linh Linh đầy sôi động ấy để lần theo số phận của một con người mà cái chết của anh ta vốn đã làm cả gia đình ông Ngang kinh hoàng. Và rồi đến cái sống của anh còn làm cho tất cả khiếp đảm hơn nhiều lần thế nữa.

Ngô không chết, bởi những kẻ bắt cóc anh ta bằng phép thư thôi miên đã không muốn anh chết. Họ đưa anh đi ngược chiều gió bấc, ngược cả những vùng đồi sỏi, băng qua vùng đá vôi, cuối cùng thì đến miệt rừng già hoang lạnh như thủa trái đất mới khai sinh.

Khi Ngô bừng tỉnh khỏi cơn say thuốc mê, anh cứ tưởng mình vừa mới ngủ dậy. Đầu nặng như có treo đá. Hai bàn chân sưng vù lên. Đôi dép nhựa cũ đã không còn nữa. Vết đá cắt ngang dọc gan bàn chân, vết cây gai cào ở cổ chân đã giúp Ngô đần dần hiểu ra. Hình như không phải mình ngủ mà là đi, đi đâu xa lắm. Rồi anh ngẩng đầu lên, bàng hoàng nhìn bốn phía. Anh kinh hãi đến rụng rời tay chân vì xung quanh chỗ anh đứng là những bờ đá cao vút, đá lồi ra những hòn to hơn con trâu mộng và có vẻ sẵn sàng đổ lăn xuống. Nhưng kinh hãi hơn là phía trước mặt có một phiến đá rộng như tấm giường, trên đó có một người nằm ngủ. Hắn đang ngáy ầm ầm. Nhìn kỹ một chút đó là một trong số ba người lạ đến nhà anh.

Ngô thấy ớn lạnh cả người. Đã ở tuổi bốn lăm, đời cũng đã trải qua nhiều phen mạo hiểm nhưng chưa bao giờ anh trải qua cơn hãi hùng như lúc này. Không biết mình tỉnh hay mê. Ngô cho tay lên nắm hai vành tai lắc lắc. Vành tai lạnh buốt hơi đá núi.

Chợt có tiếng bước chân lội nước rào rào. Ngô hốt hoảng quay lại. Một cậu bé có vẻ còn nhỏ hơn cả em trai anh, nhưng đen như cột nhà cháy đang xách trên tay chiếc đùi thú vật được nướng lửa cháy sém. Cậu ta kêu to lên như hát:

- Pả ơi! Hăng pả cha thiệt!

Người nằm trên phiến đá ngồi dựng dậy như không hề ngủ. Hắn hỏi to:

- Cha đôi?

- Cha thiệt!

Ngô không sao hiểu nổi những câu hỏi quái đản ấy, nhưng nhìn cung cách thì cũng đoán được có lẽ đó là hai bố con và những câu ấy chắc là đứa con mời bố ăn thịt.

Đứa bé trao đùi thịt cho bố rồi lặng lẽ quay đi, chân lội nước ào ào. Ngô cau mày suy nghĩ. Không biết nhà chúng nó ở đâu, mà tại sao thằng bố không về nhà ăn uống lại nằm khoèo ở đây bắt con phải xách ra? Hay vì đang giam giữ mình và không muốn cho mình nhìn thấy nhà nó?

Đang nghĩ lung tung, bất ngờ thằng ngồi trên đá xé một miếng thịt to ném cho anh. Hắn nói bằng tiếng miền xuôi, lơ lớ, nặng chịch:

- Ăn đi. Ba ngày nhịn rồi, chắc mi đói lắm.

Ngô không ngờ mình đã nhịn đến ba ngày. Như thế có nghĩa là từ đây về nhà mình phải đi mất ba ngày. Giả sử có trốn được thì làm sao chạy thoát về cho đến nơi?

- Ăn đi! Hắn nhìn Ngô giục.

Quả thật Ngô không thấy đói. Hơn nữa phải ăn thứ thịt nửa sống nửa chín như thế này anh thấy lợm quá! Nhưng không ăn thì sợ. Anh cúi xuống cầm miếng thịt lên. Ngô chọn một chỗ có vết lửa cháy sém nhất, cấu ra một miếng. Chẳng hiểu là thịt con gì nhưng mà rất thơm và rất béo. Anh ăn thấy ngon. Lại chọn một miếng khác...Thế rồi tự nhiên cơn đói ở đâu đó ùa đến. Ơ sao mà cồn cào thế này? Ngô lật lật miếng thịt, tìm chỗ cháy sém. Hết chỗ cháy sém thì chọn chỗ vừa vừa. Hết cả cháy vừa anh lại cấu miếng chín tái. Rồi chín nhở nhở cũng ăn, chín đỏ nhạt cũng chén. Cuối cùng những miếng còn đỏ lòm nước máu cũng được anh tọng nốt vào mồm.

Ngô đã ăn nhanh, nhưng người ngồi trên phiến đá trước mặt lại còn ăn nhanh hơn. Cả đùi thịt lớn như vậy loáng một cái đã hết nhẵn. Những chiếc xương được ném xuống suối. Rồi cả người hắn cũng cúi vục xuống suối. Hắn uống một ngụm nước no nê. Làm xong tất cả các công việc ấy, hắn lại bò lên xếp bằng trên phiến đá nhìn Ngô, hỏi:

- Mi có biết vì răng mi bị bắt lên đây không?

Ngô lắc đầu.

- Vì mi có giữ cái tượng mẹ đất.

Ngô lại lắc đầu. Người ngồi trên đá trợn mắt lên.

- Ta là Ke mo, tiếng ở dưới chúng mi kêu bằng thầy mo. Ta có nhiều phép thư độc lắm. Mi coi đây!

Nói rồi hắn đứng phắt dậy bước sát tới chỗ Ngô. Anh hoảng hốt lùi lại. Hắn kéo tay anh, chỉ cho anh thấy một cây mọc bên bờ suối. Ngô chẳng biết cây gì, lá to như lá bông nhưng rất dày, cây nhỏ và nõn nà như cây dâm bụt. Ngô đang sợ hãi chưa biết thằng thầy mo kia định làm gì thì dã thấy hắn trợn mắt lên, phùng má thổi phù phù như rắn hổ mang. Tức thì lá trên ngọn cây kia xìu lại, rồi cả cành cũng héo. Hắn chỉ phì phì độ vài phút mà cả bụi cây đã héo queo như bị trốc rễ phơi một ngày giữa nắng. Ngô thấy sởn hết gai ốc. Anh đã từng nghe đồn về các phép thư của người dân tộc, nhưng đó là những dân tộc mà anh thường xuyên tiếp xúc như Vân Kiều, Tà ôi. Chưa bao giờ anh gặp loại người này và cũng không tưởng tượng được phép thư của nó lại ghê gớm đến thế.

Tên thầy mo trở lại phiến đá, hắn cố nói thật rõ từng lời cho Ngô hiểu:

- Ta không có ý giết mi. Nếu giết thì mi đã chết ngay trong nhà. Nhưng ta muốn hỏi về pho tượng. Có thể mi giữ nó nhưng không hiểu biết về nó. Còn dân chúng ta ai cũng biết. Trẻ con sinh ra khi nào đến tuổi nghe được chuyện kể thì bắt đầu được kể về pho tượng ấy. Mi có được nghe cha mi kể lại không?

Ngô lại lắc đầu.

- Vậy thì ta kể cho mi nghe. Cha đã kể với ta rằng, pho tượng Mẹ Đất có hai tay chống nạnh là thuỷ tổ của người Rạc. Mà người Rạc là thuỷ tổ của chúng mi. Tức là ta với mi cùng một tổ. Nhưng vào một cái năm nào đó, xa hung, bọn người như mi đã ăn cắp đi một chân. Sau đó, chúng mi lại đánh đuổi bọn ta lên rừng để ăn cắp cả pho tượng. Người Rạc ta tuy phải lên ở đầu nguồn nước, nhưng không khi nào quên thuỷ tổ của mình. Đời ông kể lại cho đời cha. Đời cha kể cho con. Con kể cho con chúng nó... Bất kỳ đời nào tìm thấy thuỷ tổ thì cũng đưa về. Khi nào có pho tượng ấy, người Rạc chúng ta sẽ làm nhà hai kèo và chuyển về xuôi ở. Ta biết ở dưới đó loại người chúng mi chừ đã tốt bụng, không ác như chuyện trước đây. Ta có về bán thuốc nhiều lần ta biết. Có điều, tốt thì có tốt nhưng vẫn tham. Cứ ôm giữ Mẹ Đất là tham rồi!

Tên thầy mo ngừng lại thở. Có lẽ hắn cũng đã nhiều tuổi. Nhưng cái khuôn mặt và dáng người ấy không thể nào đoán tuổi được.

- Ta không có ý giết mi - Thầy mo nhắc lại - Nhưng mi phải nói cho ta biết tượng Mẹ Đất hiện ở chỗ nào? Nếu mi nói, ta với mi sẽ kết nghĩa anh em, vì ta ở đầu nguồn mà. Tên ta là Sẩu. Mi tên chi?

Ngô hốt hoảng bật ra tiếng nói không kịp suy nghĩ:

- Ngô!...

- Ngô. Rứa là ta biết mi tên là Ngô. Ta với mi rõ là anh em , tiếng người Rạc kêu bằng Phu, Tệ. Ta là Phu Sẩu, mi là Tệ Ngô. Có ưng không?

Ngô gật đầu. Cái chết đang đe doạ anh. Không có cách nào khác. Tên thầy mo cười ha hả. Hắn bước xuống đặt tay lên vai Ngô.

- Thề đi Tệ Ngô!

- Thề... răng?

- Đứa nào bạc nghĩa sẽ chết!

Ngô loáng choáng, lạnh buốt chân tay. Câu thề độc địa quá. Nhưng lỡ rồi, tháo lui sao kịp.

- Thề đi!

- Tao thề.

- Đứa nào bạc nghĩa sẽ chết!

- Đứa nào bạc nghĩa ... nghĩa... sẽ... chết!

Nói xong câu thề Ngô như muốn xỉu luôn. Còn Phu Sẩu thì ngửa cổ lên trời cười vang cả núi đá!

Sau khi chịu thề độc kết nghĩa anh em, Phu Sẩu thôi không truy bức về pho tượng nữa. Hắn tỏ ra vui mừng thực sự. Phu Sẩu dọn cho Ngô một chỗ nằm phía trong chỗ nằm của hắn. Ngô buột mồm hỏi:

- Không có nhà à, Phu Sẩu?

- Có chứ. Ta có vợ và ba con. Vợ con ta ở cái hang bên kia núi. Ta đang trong tháng luyện phép nên phải ra đây ở riêng. Mi cũng cần ở riêng...Hết tháng ni, ta dẫn mi về nhà.

Ngô nhăn nhó:

- Nhưng mà ở đây rét quá...

- ừ, càng rét càng tốt. Cái da mi cần phải quen với đá. Ta cũng phải luyện rứa.

Ngô thấy ngao ngán. Đã cuối tháng chạp. Mùa này ở nhà được ngồi bên bếp lửa, hay chui vào trong tấm chăn chiên còn cảm thấy rét, huống chi chừ lại phải ở trên phiến đá, nằm trên đá. Không khéo chết cóng mất.

Đêm đầu tiên Ngô thức trắng, còn Phu Sẩu vẫn ngáy ầm ầm. Cái rét ngấm vào từng đốt xương nhức buốt. Hai hàm răng cứ đánh vào nhau cầm cập. Nhiều lần Ngô định liều mạng bỏ trốn, nhưng đêm tối quá, đường đi hoàn toàn không biết, chỉ cần trượt chân một cái cũng có thể lăn nhào xuống vực. Sợ chết nên anh đành ngồi chịu rét.

Đêm mới dài làm sao, cứ ngỡ như qua trọn một kiếp người. Vô vàn những tiếng động kỳ lạ. Tiếng suối trong đêm nghe ồ ồ như thác cuốn. Gió cứ hú dài từng cơn. Tiếng côn trùng râm ran bốn phía. Rồi những vết sáng lập loè dày đặc, lập loè trên ngọn cây, lập loè hai bên vách đá, dưới bờ suối, trong thung lũng sâu, đâu đâu cũng nhấp nháy. Đôi lúc Ngô ngỡ mình đang bị chôn sống xuống âm ti.

Một đêm trôi qua. Một ngày lại đến. Ngày cũng hoang lạnh không kém gì đêm. Cũng may dạo này không mưa, gió hanh làm se da mặt và đến gần trưa thì thấy mặt trời. Một ngày ba lần, cậu con trai mang đồ ăn tối. Lúc thì ngô luộc, lúc thì đùi thịt cháy sém, lúc thì xôi nếp. Ngô đã cố chịu đựng để cùng ngồi ăn với Phu Sẩu.

Buổi sáng tên thầy mo luyện phép chừng một giờ. Buổi chiều cũng vậy. Ngô để ý thấy những lúc như thế, hắn cho vào mồm một nắm vỏ cây, nhai nhai như bọn Mỹ ăn kẹo cao su. Sau đó hắn nằm ngửa lên phiến đá, mắt hơi khép lại, má phùng ra phì phì lên trời. Nước bọt hắn bắn lên cao rơi xuống đầy mặt, đầy cổ. Ngô sợ hãi lùi ra xa. Anh nhớ tới cái cây hôm trước mà lạnh buốt sống lưng. Rồi Phu Sẩu ngồi dựng dậy, mắt mở trừng trừng, hắn nhúng cả mười ngón tay vào một bát nước đặt trước mặt. Sau đó đưa cả hai tay lên phía trước búng tanh tách cả mười ngón. Không sao hiểu được những trò nó làm, nhưng nói chung là Ngô thấy ghê rợn. Anh chỉ cầu trời làm sao để thoát khỏi đây.

Ngoài giờ luyện phép , Phu Sẩu trở nên vui tính và thích nói chuyện. Hắn giải thích cho Ngô:

- Ta đã ở riêng hơn nửa tháng rồi. Về xuôi hơn một tuần để tìm cây thuốc. Chỉ còn một tuần nữa là ta về nhà...

Ngô tò mò hỏi:

- Một năm phải luyện mấy lần?

- Tuỳ, khi nào có đám ma thì phải luyện. Có lúc được cả tháng nếu biết trước con ma sẽ chết sau một tháng. Có khi chỉ luyện được vài ba ngày nếu chỉ biết trước vài ba ngày. Cũng có khi không kịp luyện.

- Nhưng...làm sao biết trước được sau một tháng sẽ có đám ma?

- ồ, coi bệnh là biết chứ. Cách đây hơn nửa tháng, trong bản ra mời ta vô làm phép chữa cho con Ki, ta coi, biết nó bị độc thằng Mu Thoòng. Ta không chữa được. Một tháng sau là nó chết.

Ngô nghe nói lạ quá, anh cố gắng hỏi:

- Một tháng sau mới chết... Nhưng Phu Sẩu luyện phép một tháng để làm chi?

Phu Sẩu cố gắng giải thích:

- Tệ Ngô không hiểu chi cả. Mỗi lần có đám ma, bọn ta đều phải đến. Mình không đến coi như mình đã chết, sau này không ai sợ mình nữa, không ai kêu mình cúng nữa. Hàng chục thầy mo khắp các bản xung quanh đều kéo đến. ở trong đám ma thầy mo nào cũng phải trổ hết phép ra. Mình vượt qua được độc của thầy mo bản khác thì mình sống, hắn chết. Nếu không thì hắn sống mình chết...

Thấy Ngô còn ngơ ngác không hiểu, Phu Sẩu vỗ vào vai:

- Yên chí! Một tuần nữa, ta dắt Tệ Ngô đi đám ma. Đến đó sẽ biết.

Ngô cuống cuồng kêu lên:

- Không không. Tôi chết mất. Tôi có phép gì đâu?...

- Không mà. Các thầy mo chỉ ra phép với nhau, còn dân bản thì cứ việc uống rượu, ăn thịt, không can chi hết.

Hắn ngừng lại, giọng hạ xuống đầy vẻ hằn học:

- Trong đám ma này, ta chỉ ngại có thuốc độc của thằng Mu Thoòng, còn nữa thì thua ta hết.

Ngô lại tò mò:

- Mu Thoòng là ai mà ghê rứa?

- Hắn vốn không phải dân Rạc ta. Trước đây bọn ta tưởng hắn là dân Tà Ôi, hay Vân Kiều. Nhưng vừa rồi, thầy Linh Linh mới cho ta hay hắn chính là dân xuôi chúng mày.

Hai tiếng thầy "Linh Linh" làm cho Ngô kinh ngạc. Cái tên sao lại trùng với tên xóm của anh? Anh chưa kịp hỏi thì Phu Sẩu đã hằn học kể tiếp:

- Thầy Linh Linh nói, hắn là cháu nội của một tên kẻ cướp đã từng chôn pho tượng đồng đen Mẹ Đất cùng với một đứa con gái nữa ở trong lèn Linh Linh. Sau đó không hiểu vì sao cả hai vật kia đều bị mất. Tên cướp ấy nghi là dân Rạc cất giữ. Hắn đã vác gươm lên đánh nhau với các bậc thuỷ tổ của ta. Hắn bị độc. Về đến nhà khoảng nửa tháng thì ốm nặng, nửa năm thì mửa ra máu mà chết. Cái thằng kẻ cướp ấy đã truyền mối thù lại cho đứa con trai. Thằng con trai ấy không biết đi học phép ở đâu, có lẽ học ở dân bên Xiêm hoặc Lào , rồi lại mò lên đây nhân dịp có đám ma để trả thù. Nhưng lần đó, hắn bị thầy Linh Linh thư độc. Hắn bị độc và chết. Hắn lại truyền mối thù lại cho thằng con hắn, cái thằng Mu Thoòng ấy. Lần này thằng Mu Thoòng đã thư độc được con Ki, con gái út của thầy Linh Linh. Thầy Linh Linh nhận ra đó là thứ độc của một loại cây dưới vùng biển. Thầy không chữa được. Ta cũng không chữa được. Các thầy mo khác của người Rạc cũng không chữa được. Căm quá, bọn ta đã mò về xuôi tìm thuốc, vì chuyến đó mà ta gặp được mi.

Không thể ngờ chuyện đời lại vòng vo đến như vậy. Ngô lưỡng lự một lúc rồi lại hỏi:

- Nì, tại sao có lèn Linh Linh rồi lại có thầy Linh Linh?...

- à... Linh linh là hang động đầu tiên của người Rạc ta. Cho nên người già của mỗi bản đều được gọi là Linh Linh... Thầy Linh Linh ta năm nay đã sống trên trăm tuổi rồi. Thầy là kẻ cao phép nhất, là thầy dạy của ta. Nhưng khi đã trở thành già bản mang tên Linh Linh thì được ngồi trên, không tham dự đọ phép ở các đám ma nữa.

Ngô thôi không hỏi nữa. Anh cố nhớ lại câu chuyện về pho tượng đồng đen một chân mà mẹ La anh vẫn thường kể lại. Có phải tên kẻ cướp kia chính là kẻ đã từng mua mệ Li anh rồi đem lên trên này chôn không?

° ° °

Chiếc quan tài bằng cả một khúc gỗ tròn cắt ngang hai đầu, khoét rỗng ở giữa. Người chết được liệm vào trong một cây gỗ. Quan tài đặt giữa đất. Phía trên, chếch qua tay trái, một ông già ngồi bệt xuống một tảng đá, đầu ông ta trọc lóc không còn sợi tóc, người nhỏ quắt lại, mặt nhăn nheo. Đôi mắt ông già đỏ ngầu. Thỉnh thoảng già lại đưa tay lên chùi mắt.

Vòng quanh cỗ quan tài có chín người ngồi quay mặt vào giữa. Mặt mũi ai cũng dữ tợn, đen xám. Có một quãng hở hình như cố tình để dành chỗ cho ai đó. Cách đó một đoạn là dân chúng. Toàn là người lớn , cả đàn ông lẫn đàn bà. Đại đa số đều mặc quần áo bằng vải đen, may cũn cỡn. Nhưng cũng còn một số ở trần, mặc quần áo bằng vỏ cây.

Mười cái chiêng lớn được dựng phía sau lưng người già. Những người đánh chiêng ở trần, đóng quần áo bằng vỏ cây, tóc xoã gần kín mặt, vừa đánh vừa nhún qua, nhún lại như những kẻ say rượu. Tiếng chiêng náo động rừng già.

Phu Sẩu dắt tay Ngô đến chỗ đám dân làng đang ngồi uống rượu. Hắn ấn Ngô ngồi xuống cạnh một phụ nữ mặc áo vải đen. Hắn nói một tràng rất dài bằng một thứ tiếng riêng quái đản với người đàn bà. Rồi hắn ngất ngưởng bước lên phía đặt quan tài. Cả chín người đều ngước lên nhìn hắn. Phu Sẩu ngất ngưỡng bước vào cái chỗ trống đang để dành cho hắn.

Chắc là các thầy mo đó rồi! Ngô nghĩ vậy và nghếch cổ lên nhìn đầy vẻ hồi hộp. Nhưng cả mười con người hung dữ kia đang uống rượu. Họ uống bằng bình rượu riêng của từng người. Ngô nghĩ thầm chắc chắn trong mỗi bình rượu ấy có pha thuốc độc của riêng mỗi đứa.

Người đàn bà ngồi bên cạnh Ngô bất ngờ ngó đăm đăm vào anh và chợt hỏi:

- Mi anh em với Ke mo Sẩu à?

Ngô giật bắn mình. Hoá ra đám người rừng này ai cũng nói được tiếng miền xuôi. Anh lúng túng gật đầu. Người đàn bà lại hỏi:

- Mi người xuôi?

Ngô lại gật đầu

- Người xuôi răng lại phu tệ với mo Sẫu?

Ngô thật thà buột miệng:

- Tôi bị hắn bắt...

Nói xong anh hoảng hốt ngậm miệng lại. Nhưng người đàn bà đó gật đầu ra vẻ hiểu:

- Rứa thì... tốt nhất là trốn đi. Đừng có ở gần kẻ ác.

- Kẻ ác? Ngô tròn mắt hỏi lại.

- Bọn Ke mo đều là những kẻ mi không gần được . Gần hắn rồi mi cũng trở thành người ác thôi.

Ngô không thể ngờ giữa bãi người rừng này lại được nghe một lời chân thực như vậy. Anh len lén đảo mắt một vòng nhìn khắp bãi đất. ờ , mà cũng đúng thiệt. Đám thầy mo đang ngồi tách ra, dân bản ngồi riêng thành một khối xa hơn bọn người hung dữ ấy. Người ta đang uống rượu, nhưng vẻ mặt không vui. Không ai nói to. Họ ghé sát vai vào nhau lào xào cái thứ tiếng của riêng họ.

Ngược lại, phía trên kia, quanh chiếc quan tài người chết, đám thầy mo đang đỏ mặt cãi nhau dữ dội. Ngồi ở dưới xa, không thể nghe được tiếng của họ, hơn nữa tiếng chiêng đang kêu vang lấn át hết mọi tiếng cãi vã. Nhưng cứ nhìn vào mặt mũi, vào tay chân họ hua lên, Ngô đoán chắc là bọn chúng đang chửi bới nhau. Thế rồi bất ngờ tất cả đều đặt rượu xuống, tất cả cùng chồm người lên. Những cặp mắt trợn ngược, những bầu má căng phồng, môi nhọn hoắt ra. Tất cả đều thổi phù phù ra trước. Chúng giở phép ra với nhau rồi! Ngô thầm kêu lên như vậy. Không hiểu sao anh thấy run rẩy cả tay chân. Những tên thầy mo vẫn phùng má lên thổi. Hết một hơi, chúng tợp một ngụm rượu rồi lại phù phù phun ra. Chiếc quan tài người chết ướt đẫm nước.

Đột ngột, một thằng trong bọn mười thằng ấy chụp hai tay lên đầu hét lên một tiếng khủng khiếp rồi lăn đùng ra giữa đất. Ngô giật thót cả bụng, quay mặt đi. Nhưng đám dân bản ở dưới này vẫn thản nhiên uống rượu và thì thầm với nhau như không hề có chuyện gì xẩy ra. Ngô chợt thấy rùng mình. Có lẽ người ta đã quá quen với những chuyện như thế này rồi!

Lại một tiếng thét ghê rợn khác và một cái xác lăn đùng ra, những tên còn lại vẫn tiếp tục tợp rượu vào mồm và tiếp tục thổi phì phì như bầy rắn. Ba tên, bốn tên, năm tên nữa ngã xoài. Có lẽ đã đến giai đoạn ngấm thuốc. Ngô hoảng hốt nhổm cả người nhìn lên. Sáu đứa, bảy đứa, tám đứa... Còn lại chỉ hai đứa. Một bên là Phu Sẩu, một bên là thằng có cặp lông mày rậm như sâu róm. Hai đứa quay hẳn lại đối diện với nhau, tợp rượu liên tục và thóp bụng lại mà thổi.

Đột ngột, người già ngồi trên tảng đá kêu to lên một tiếng.

- Khỉ mày!

Hai thầy mo dừng thổi và cùng một lúc quay ra. Cả hai cùng đồng thanh hét to:

- Khỉ mày!

Ngô ngoảnh mặt nhìn. Từ phía bìa rừng bên phải một hình người trông cực kỳ quái dị đang ngất ngưỡng bước vào. Lúc này bãi người mới thực sự lao xao. Tất cả dân bản đều ngừng uống rượu ngước mắt nhìn. Chị phụ nữ ngồi sát bên Ngô kêu lên một tiêng thảng thốt "Mu Thoòng!".

Mu Thoòng! Trời ơi, chẳng lẽ cái hình người gớm ghiếc kia mà lại là người xuôi như Ngô sao! Một cái đầu rậm rịt tóc như tổ quạ. Chiếc áo ngắn xẻ làm bốn vạt bay lất phất phơi trần cả da thịt. Quần lửng lơ ngang đầu gối. Người hắn cao và gầy, mắt trắng dã, cằm không râu nhưng môi trên ria dài phủ miệng.

Cả hai thầy mo cùng nhất loạt đứng dậy và cùng tiến ra. Người già trên tảng đá cũng đứng lên. Ông rút từ trong lưng quần ra một cái lục lạc và lắc lên inh ỏi. Mu Thoòng lững thững bước vào. Hai thầy mo người Rạc vội vàng tợp rượu và vội vàng thổi. Mu Thoòng xoè một tay ra phía trước rồi rút nhanh về, lại xoè tay kia. Cứ thế hai tay hắn xoè ra, thu lại liên tục như múa. Còn Phu Sẩu và con người có cặp lông mày rậm như sâu róm thì cong cả người mà thổi. Trận đọ sức diễn ra quá lâu, khiến cho dân chúng cả bãi nín thở đến ngột ngạt.

Bất ngờ thầy mo có lông mày rậm hét lên như bị cắt cổ và bổ vật ra. Phu Sẩu có vẻ hoang mang, hắn lùi lại một bước. Cả đám dân bản nhớn nhác chực chạy. Ngô cũng thấy rụng rời cả chân tay.

Nhưng bất ngờ Phu Sẩu chụp tay vào lưng quần mình lôi nhanh ra một túm rễ cây. Hắn nhét vội vào miệng nhai ngấu nghiến. Trong giây lát ấy. Ngô nhìn thấy thằng Mu Thoòng có vẻ sững ra , hai tay hắn dừng lại một chút nhưng liền đó Mu Thoòng ào ào lướt tới . Hình như hắn cũng đã nhận ra kẻ thù đã có được thứ thuốc kháng độc nên cố tình đánh nhanh. Phu Sẩu nhảy lùi hai bước nữa, mồm vẫn nhai ngấu nghiến. Rồi hắn nhổ nhanh một bãi nước ra hai lòng bàn tay, xoa xoa vào nhau mấy cái. Xong, Phu Sẩu bắt đầu phản công. Hắn cũng xoè một bàn tay ra trước, thụt lại, lại xoè tay kia. Mồm Sẩu vẫn thổi phù phù... Hai bên cứ đứng trụ như vậy một lúc khá lâu nữa thì đột ngột Mu Thoòng hét lên và quay phắt người bỏ chạy. Nhưng Phu Sẩu không đuổi theo. Hắn lảo đảo bước lên một bước và ngã quỵ xuống. Lão già đứng trên đá rung lục lạc tít mù. Cả bãi người đứng lên, nháo nhác tìm đường lẩn tránh.

Lợi dụng lúc lộn xộn, Ngô bước tới nhòm vào mặt Sẩu. Hắn nằm nghiêng, nước bọt sủi ra như bọt ếch tràn đầy hai mép. Mặt xanh xám màu xanh lá chuối héo. Dân bản chẳng thèm ngó ngàng gì tới Sẩu cũng như mấy thầy mo khác. Ngô lưỡng lự một lúc rồi co chân đi như chạy. Anh lẫn vào trong đám dân bản, nhanh chóng vượt khỏi bãi trống. Vào đến rừng, lợi dụng lúc không ai nhìn thấy, Ngô bỏ đường mòn lách vào rừng rậm. Trời không bóng nắng, nhưng gió hanh thổi se se. Ngô biết gió này thổi từ hướng Bắc vào. Anh đạp rừng cắt ngang hướng gió, chếch về phía đông.

Vừa chạy, Ngô vừa run. Cái cảnh tượng mới xẩy ra khủng khiếp đến mức anh không còn tin ở mắt mình nữa. Lạy trời lạy đất cho anh thoát ra khỏi cái vùng rừng quái đản này. Nhưng đây là đâu, đất đai nước mình hay nước khác, địa phận ngang với tỉnh của anh hay tỉnh ngoài, tỉnh trong? Ngô không tài nào xác định được.

Cây rừng càng ngày càng dày đặc. Loại cây leo chằng chịt um tùm. Lá mục phủ dày cộm. Nhiều chỗ đất sụp xuống thành hố sâu hun hút. Và khe suối nữa, sao mà nhiều khe đến vậy. Có khe dày đặc đá, ở giữa chỉ một lạch nước nhỏ trong veo. Có khe nước cuộn trắng xoá, bờ hẻm sâu, cỏ và lau mọc kín mít. Càng đi Ngô càng rủa mình ngu ngốc. Sao lại liều mạng đến mức này. Nếu gặp cọp thì sao? Gặp voi hay gấu nữa? Cũng may suốt cả buổi chiều hôm ấy anh chưa gặp một con thú dữ nào. Trời trong rừng mau tối. Biết không thể đi tiếp được, lợi dụng lúc trời đang sáng anh ngước lên tìm một cây nào đó dễ trèo. Chếch lên về phía tay trái chừng vài chục bước chân, có một cây to bằng cây mít, lá nhỏ, nhiều cành ngang dọc. Ngô không biết thứ cây ấy là cây gì. Anh chạy lại và trèo lên. Ngô tìm một chạng ba, bẻ thêm vài cành nhỏ cài qua cài lại để có thể gác chân lên được. Loay hoay một lúc anh cũng đã có được một chỗ ngồi tựa lưng ra cành chính và nếu ngủ thì không rơi xuống đất.

Trời tối hẳn. Ngô cố sức mở căng hai mắt nhìn vào khoảng đen trước mặt. Lại nhấp nháy muôn vàn đốm sáng và ra rả tiếng côn trùng. Cũng may hơn một tuần qua anh đã được đào luyện trong cảnh mịt mùng và ghê rợn này nên cảm giác sợ hãi có phần giảm đi. Tuy vậy suốt một đêm, mặc dầu mệt mỏi đến rã rời chân tay và cột sống, anh vẫn mở căng mắt. Cũng có lúc mệt qúa anh thiếp đi , nhưng ngay tức khắc choàng tỉnh dậy, nói chung là anh thức trắng.

Ngày hôm sau Ngô có phần bình tĩnh hơn. Anh vừa đi vừa để mắt nhìn xem có quả rừng gì có thể ăn được. Cũng đôi lần tìm được quả chín nhưng vì không biết loại cây gì nên Ngô không dám ăn. Mãi cho đến khi cơn đói cào cấu đến mức tưởng như không thể bước tiếp được nữa thì anh mới bắt gặp được loại quả quen thuộc. Quả hồng dây leo. Một bụi hồng dây leo um tùm, quả buông dày đặc, mỗi quả to bằng quả trứng vịt, tròn vo, đỏ rực. Ngô mừng quá, với cả hai tay mà tuốt. Rồi không kịp đập cho hồng vỡ ra, anh dùng cả hai hàm răng mà cắn. Thứ hồng này có mủ dẻo như mủ mít. Chỉ cần ăn xong một quả là mủ đã bệt dày hai môi. Nhưng lúc này Ngô đâu có thèm quan tâm đến chuyện đó. Anh cạp liên tục. Nhoáng một cái đã hết năm quả. Bây giờ cơn đói đã dịu lại. Ngô thấy cần phải tranh thủ thời gian nên anh hái hồng nhét đầy hai túi áo, lại nhét căng hai túi quần. Anh cầm thêm năm quả ở tay. Không còn chỗ cất nữa, Ngô vẫn thấy tiếc. Anh bước đi và cứ ngoảnh cổ lại nhìn bụi hồng dây leo.

Vừa đi vừa ăn, ít nhất cũng làm cho trí não anh bớt căng thẳng. Thế rồi Ngô tự lý sự rằng, cái lo sợ nhất là vô ích. Bởi nếu gặp thú dữ hay bất kỳ một rủi ro nào thì dù lo sợ cũng không thoát khỏi được. Nói chung cuộc sống của một con người cái phần nắm được trong bàn tay thì ít, cái phần may rủi bên ngoài thì nhiều. Lo sợ, tính toán cũng chỉ làm cho mình thêm rối trí. Đó cũng là kinh nghiệm hơn bốn chục năm có mặt với đời, là những thấm thía nhất của hai mươi lăm năm phiêu dạt từ làng Linh Linh vô Huế, từ Huế trốn ra phá Tam Giang, từ phá Tam Giang ngước lên ngã ba Tuần, rồi cứ thế mà đi ngược, ngược đến vùng A Lưới và chừ lại ngược lên tận những khe nước đầu nguồn này. Ngần ấy năm biết bao nhiêu phen hoảng hốt, bao nhiêu lần cắm cổ chạy muốn đứt hơi vì tiếng còi và tiếng súng... Tất nhiên cũng chưa lần nào hãi hùng như lần này. Nhưng nói chung sự sợ hãi và nỗi cô đơn là cảm giác thường xuyên có mặt trong từng ngày sống, từng bữa ăn, giấc ngủ của anh. Bất giác Ngô chợt nảy ra một ý nghĩ, không biết đến lúc nào con người mới hết săn đuổi, thù ghét và hãm hại nhau. Mà vì lẽ chi hè?

Ý nghĩ chợt kéo anh về với đám thầy mo, với Phu Sẩu. Mình với hắn có thù ghét chi nhau thế mà ông trời lại xui hắn mò đến nhà mình! Lẽ nào anh với thằng man rợ ấy lại có duyên nợ từ trước? Khó mà tin được cái điều Phù Sẩu vừa kể, rằng người Rạc và người xuôi là một tổ. Tuy vậy, nếu nhìn vào đám dân bản ngồi uống rượu ở đám ma thì Ngô lại thấy cũng có thể. Bởi họ hiền lắm, không dữ tợn như mấy thằng thầy mo. Mà họ cũng thù ghét và sợ hãi chúng nó y như Ngô vậy. Cái chị ngồi bên Ngô nói gì nhỉ? Đừng có gần kẻ ác! Chị ấy tốt bụng quá. Chị ấy có khác gì anh đâu.

Ý nghĩ loay hoay trong đầu Ngô đần đần quy tụ lại ở pho tượng đồng đen một chân. Nó là nguyên nhân để bọn thầy mo bắt anh. Nếu chuyện ấy mà có thật thì lỗi ở ai? Có trời mà xử được. Nhưng rõ ràng dòng họ anh đã dính đến chuyện này. Mà nói cho thật công bằng thì nếu không có nó sẽ không có mối tình duyên lạ lùng của ông với mệ, sẽ không có chuyện bố anh đến làm rể xóm Linh Linh và đương nhiên sẽ không có lũ các anh... Ô hay, hoá ra cái tượng quái đản ấy là cội nguồn của dòng họ anh, là nguyên nhân sản sinh ra cái xóm của anh và cả gia đình đông đúc của anh nữa. Rồi cũng vì nó, cái tượng huyền hoặc ấy mà anh phải thề độc phải kết nghĩa anh em với một thằng thầy mo gớm ghiếc ở chốn đầu nguồn này. Hoá ra hắn nói đúng. Pho tượng là thuỷ tổ của tất cả. Nhưng lẽ nào tổ tông lại làm khổ con cháu đến mức này?...

Mãi nghĩ mông lung mà đôi chân Ngô đã bước ra giữa một bãi đất trống lúc nào không hay. Anh vội dừng bước, tay chân run lên. Trước mặt anh lại là một tốp người rừng. Người đi trước cầm chiếc cọc chọc chọc xuống đất. Một phụ nữ đi sau cúi lom khom nhặt cái chi đó sau gùi bỏ xuống. Có vài đứa trẻ lăng xăng đùa nghịch ở phía sau. Ngô định thần nhìn kỹ. Đây là một cái rẫy. Có lẽ kia là một gia đình.

Đang hoảng hốt chưa biết xử lý thế nào thì bất ngờ đứa trẻ phía sau lưng người đàn bà quay phắt lại. Nó nhìn Ngô chằm chằm rồi đột ngột kêu lên một tiếng. Ngô hết hồn vùng chạy. Hai ba tiếng kêu tiếp theo, toàn là những tiếng lạ lùng. Ngô không còn hồn vía gì nữa, anh cứ lao bừa vào giữa rừng rậm mà chạy. "Huỵt". Một dây rừng cán ngang vào cổ chân khiến Ngô ngã sấp mặt xuống đất. Tiếng kêu xáp đến gần. Ngô cuống cuồng vùng dây lao qua trái, đâm thẳng theo một lối hở giữa hai bụi rậm. Được chừng mười bước chân thì tắc lối, Ngô liều mạng nhảy ào qua một lùm gai. Bỗng anh thấy hững chân. Cả người Ngô lạnh toát vì kinh hãi. Chỉ một giây ngắn ngủi, anh biết rằng mình bị rơi xuống vực. Sau đó một cơn đau buốt xoáy lên trên màng óc. Anh chỉ còn kịp nghe lào xào tiếng nước cuốn. Rồi sau đó là im lặng. Một cõi im lặng vô biên.

Ngô tỉnh dậy và thấy mình nằm trong một vòm hang hẹp. Dưới lưng anh lá khô được lùa thành một lớp dày như đệm. Bên phải, ngang người anh là bếp lửa đang cháy. Chao ôi, gần mười ngày ở chốn hoang dã nay mới được nhìn thấy bếp lửa.

Cách xa chỗ Ngô nằm một đoạn, một người đàn bà đang ngồi cho con bú. Thoáng nhìn anh cứ tưởng người đàn bà hôm nọ ở đám ma. Nhưng nhìn kỹ thì không phải. Chị này có vẻ trẻ hơn. Ngô khẽ cựa mình muốn co chân ngồi dậy. Nhưng cơn đau đột ngột xói lên làm mặt anh nhăn nhúm lại. Mình làm sao thế này? Ngô khẽ nhấc hai cánh tay rồi áp bàn tay vào người sờ dần từng chỗ. Không...không sao cả. Anh lại định ngồi lên. Cơn đau lại buốt óc. Bình tâm một chút anh khẽ động đậy hai chân. Ôi!..Cái chân trái làm sao thế này? Không còn có cảm giác gì cả. Chỉ thấy đau buốt.

Thấy anh tỉnh, người đàn bà ngước lên hỏi:

- Khi lung áp tả, hi?

Ngô lắc đầu. Anh biết trong tình cảnh này không nói thật thì khốn nạn. Người đàn bà vẫn tròn mắt nhìn anh. Ngô băn khoăn không biết chị ta có biết tiếng xuôi không? Anh nói lưỡng lự:

- Tôi người xuôi...

- Ô, người xuôi.

Chị ta kêu lên vẻ sửng sốt. Một lúc sau lại hỏi:

- Lên đây làm chi?

Ngô buột miệng:

- Tìm trầm.

- Ô, tìm trầm - Chị kêu lên rồi lại bất ngờ toét miệng cười - Vì răng trông thấy lũ ta lại chạy?

Đã lỡ nói dối, Ngô cứ phải theo đà huyên thuyên:

- Tôi sợ

- Ô, sợ lũ ta. Nhưng đi tìm trầm răng lại đi một mình?

- Tôi bị lạc.

- Ô, lạc, trách chi!

Chị lại bế con lên tay, nhấc người lại gần bếp. Một tay đun lửa, một tay ẵm con. Có vẻ chị thích hỏi chuyện.

- ở xuôi có xa đây không?

- Xa lắm.

- Phía nào?

- Phía đông.

- Phía đông là phía nào?

- Phía mặt trời mọc.

- Ô... mặt trời mọc là biển.

Ngô kinh ngạc mở tròn hai mắt. Tại sao chị ta lại biết biển?

- Chị thấy biển rồi à?

- Chưa.

- Răng biết?

- Nghe cha kể.

- Tức là cha chị đã thấy biển?

- ồ, chưa đâu. Nhưng cha nghe ông kể...

Bất giác Ngô thầm nghĩ, hình như người dân ở đây thích kể chuyện, và hình như bất kỳ chuyện gì của tổ tông cũng được truyền kể lại cho đời sau, không bỏ sót chuyện nào!

Thấy người đàn bà vừa hiền hậu lại vừa vui tính, Ngô hỏi thăm dò:

- Ai dạy tiếng xuôi cho chị?

- Cha dạy.

- Rứa các em chị có biết tiếng xuôi không?

- Biết hết chớ. Biết nói là được dạy. Dạy cả tiếng Rạc lẫn tiếng xuôi.

- Vì răng phải dạy tiếng xuôi.

- Không biết. Cha ta bảo là phải dạy cho con. Ta không biết.

Ngần ngại một lúc Ngô lại hỏi:

- Vậy, cha có kể chuyện tượng đồng đen một chân không?

Người đàn bà chợt nhíu lông mày lại nhìn Ngô chằm chằm. Anh hoảng hốt tự trách mình ngu dốt, vạ miệng.

- Có chớ. Đó là thuỷ tổ của bọn ta. Nhưng mi cũng biết à?

- Tôi lên trên này mới nghe kể.

Người đàn bà đẩy thêm mấy que củi nữa vào bếp. Ngọn lửa bốc cao hơn, khói tuôn ra phía cửa hang. Chị nhìn theo làn khói, ánh mắt vẫn trở nên xa xăm.

- Cha ta nói trên đời này, có cái sinh ra để mà ăn, có cái sinh ra để mà thờ. vật ăn mà đem thờ thì không thiêng, vật thờ mà đưa ra ăn thì loạn. Tượng Mẹ Đất là vật thờ tổ, thế mà bọn xấu cứ cố giành nhau để ăn. Thế nên sinh loạn. Người với người mà cứ đâm chém nhau. Khi nào tượng Mẹ Đất được đặt lên để thờ thì người ta mới thương nhau được...

Ngô không hiểu hết những điều người đàn bà vừa nói. Nhưng anh cũng mang máng thấy rằng có lẽ chị nói đúng. Ngày nay người ta tham ăn quá mới sinh ra hư.

- Ồ, ta quên, chồng ta dặn khi mô mi tỉnh thì lấy xôi cho mi ăn. Cứ nhìn cái bụng lép kẹp kia là biết mi đói...

Người đàn bà đặt đứa con đã ngủ lên trên một đống lá khô rồi với tay keó một chiếc nồi đất lại gần. Chị cho tay vào trong nồi vắt xôi đưa cho Ngô. Một lần nữa Ngô định chồm dậy.

- ồ, đừng dậy. Cái chân mi gẵy mất rồi.

Ngô sững người, hốt hoảng hỏi:

- Gãy à? Chết cha tôi rồi...

- Chồng ta dặn phải bắt mi nằm im. Chồng ta đi tìm thầy thuốc.

Ngô hốt hoảng hơn:

- Tìm thầy mo à?

- ừ

- Không.

- ồ, phải chữa. Thầy mo nhiều phép tài lắm. Chữa khỏi liền.

Biết làm thế nào. Giá mình đừng ngất đi thì hay biết bao. Bây giờ cái người chồng tốt bụng ấy đã đi rồi, lát nữa chắc chắn thầy mo sẽ đến. Cứ nhớ lại những khuôn mặt dữ tợn ấy là Ngô cảm thấy lạnh người. Chao, cũng là những người ấy, sao cái nhà chị này lại hiền dịu và tốt bụng đến thế, mà những lão mo thì gớm ghiếc làm vậy?

Vừa lúc ấy có tiếng rầm rì ngoài cửa hang. Ngô đoán chắc là thầy mo đã đến. Người anh hâm hấp như lên cơn sốt. Lạy trời, mong sao cái thằng này đừng hung dữ như những cái thằng mà anh đã gặp.

Một người đàn ông bước vào. Ngô nhìn thấy và đoán ngay là chủ nhà tốt bụng. Vì nét mặt anh coi bộ hiền lắm. Nhìn thấy Ngô tỉnh táo anh toác miệng cười

Một người nữa khom khom bước tới. Hắn ngẩng lên. Ngô bỗng há miệng ra, tắc nghẹn cổ không kêu thành tiếng được: Thằng Phu Sẩu!

Phu Sẩu bước thẳng tới đứng sát vào mặt Ngô. Hắn có vẻ không lấy chi làm ngạc nhiên cho lắm. Phu Sẩu cúi xuống, giọng khàn khàn.

- Nghe Cà Tiềng kể, tau đoán ra là Tệ Ngô. Vì răng mà mi lạc về đây?

Không còn cách nào khác, Ngô phải trổ tài nói dối.

- Tôi tưởng Phu Sẩu đã chết, sợ quá bỏ chạy.

Phu Sẩu đột ngột phá lên cười.

- Định phản phải không?

- Không không! Ngô hoảng hốt kêu lên - Nếu phản răng tôi lại tìm vô bản?

- Hừ, chết được ta khó lắm. Ta bị độc của hắn, nhưng đã có thuốc kháng trong người. Chỉ cần ta luyện độ năm ngày nữa là thoát hết.

Nghe hai người nói chuyện với nhau, cặp vợ chồng người chủ nhà cứ tròn mắt mà nhìn. Một lúc Phu Sẩu quay lại phía họ nói một tràng dài bằng thứ tiếng riêng. Thế là đột ngột, ánh mắt người đàn bà bỗng trở lên lạ lẫm, còn người chồng thì quay ra ngoài hang. Từ đó đến tối không thấy anh ta về nữa.

Phu Sẩu thụt lùi lại một bước và ngồi xuống bên chiếc chân gãy của Ngô. Hắn đưa tay nắn nắn. Cơn đau nhói lên nhưng Ngô cắn răng lại không dám kêu. Phu Sẩu lôi từ trong lưng quần ra một tý vỏ cây bỏ vào mồm nhai, rồi hắn rút trong túi áo ra một be rượu nhỏ. Hắn tợp một ngụm rượu sau đó cúi mặt xuống chân gãy của Ngô và bắt đầu thổi phù phù.

Ngô sởn cả gai ốc. Trong phút chốc anh nhớ lại cái cây bị héo chết bên bờ suối, nhớ lại toàn cảnh sát phạt nhau ở đám ma. Những tiếng phù phù chết người kia như bóng tử thần lởn vởn quanh anh.

Nhưng cả cơ thể anh bắt đầu biến chuyển. Trước hết là một cảm giác mát lạnh. Sự mát lạnh cứ râm ran chuyển động từ cẳng chân truyền lên da bụng truyền lên ngực, lên cổ, rồi lên mặt, ra tận từng chân tóc. Dẫu sao cũng thấy dễ chịu. Nhưng chỉ được một lúc, thay cho sự mát lạnh là một cơn nóng hâm hấp, cũng từ cẳng chân truyền đi. Cả cơ thể anh phút chốc nóng bừng lên như một cục than hồng. Thế rồi bắt đầu đau. Đau buốt, đau nhức nhối, đau như có ai cầm lấy cái chân mà vặn. Không thể chịu đựng được nữa, Ngô kêu lên. Thoạt đầu là tiếng kêu khe khẽ, sau đó là kêu to, la oai oái, kêu như bị cắt cổ.

Phu Sẩu đã ngừng thổi nhưng cơn đau vẫn chưa ngừng. Mồ hôi vã ra đầy trán Ngô. Phu Sẩu uống nốt chỗ rượu còn lại, nói với người đàn bà một câu gì đó bằng tiếng riêng rồi hắn bước ra. Ngô vẵn nửa tỉnh, nửa mê trong cơn đau như muốn đứt ruột.

Đến quá trưa thì cơn đau đã dịu lại. Da thịt anh mát dần. Anh cố với bàn tay xuống dưới sờ vào bắp đùi. Vẫn sưng to, nhưng cảm giác có vẻ nhẹ nhõm hơn.

Nhưng lại có một sự nặng nề phía khác. Đấy là đôi mắt bỗng trở nên xa lạ và sẩm tối của chủ nhà. Ngô đã hiểu ra nguyên nhân. Anh suy từ những câu nói của người đàn bà ở chỗ đám ma để hiểu. Tất cả những người dân lương thiện đều không có thiện cảm với bọn thầy mo. Chắc thằng Phu Sẩu ấy đã giới thiệu mình là anh em.

Có nên nói thật ra không? Nhưng cái chân gãy còn cần đến hắn. Dù sao cũng phải lành chân đã. Còn nằm dài ở đây thì mạng sống vẫn còn trong tay hắn. Suy đi tính lại, Ngô dành thở dài nằm im.

Phu Sẩu lui tới năm lần. Cái chân của Ngô đã không còn sưng nữa. Rồi cái đau cũng hết. Anh có thể ngồi dậy sau lần thổi thứ năm, Phu Sẩu dặn.

- Từ mai ta không làm thuốc nữa. Nhưng mi phải tập đứng dậy, tập đi. Nhớ đừng để ngã lại. Khi nào khỏi hẳn ta sẽ đón về.

Hắn đi ra được vài bước thì chợt dừng lại, quay lui nới:

- Đừng có phản ta. Dù mi có về đến tận nhà mi ta chỉ cần cắm một nhành cây xuống dấu chân mi thì mi lăn đùng ra chết liền, nhớ nghe!

Một viễn cảnh u tối bao trùm lấy trí não Ngô. Nếu quả thật hắn có phép thư ấy thì coi như cuộc đời từ nay hoàn toàn nằm trong tay hắn rồi!

Sự tuyệt vọng đè bẹp Ngô nằm dài trên đống lá. Đã qua thêm một ngày nữa mà anh không hề trở mình, không hề đứng dậy. Suốt cả thời gian đó, vợ chồng chủ nhà cũng không hề nói với anh một câu. Đến bữa ăn, có vẻ như bắt buộc, họ kéo nồi xôi sát lại mặt anh để anh tự bốc lấy. Ngô chán nản không muốn động tay. Thêm một ngày nữa, Ngô vẫn năm im. Có lẽ quá sốt ruột người chồng buộc miệng hỏi:

- Mi không tập đi à?

- Không.

- Thì mi sẽ không khi nào đi được nữa.

Ngô thở dài:

- Đi được mà làm chi!

- ồ... Hoá ra mi không ưng đi à? Mi cứ ưng nằm vậy à?

Nước mắt Ngô bất ngờ ùa ra.

- Tao muốn đi, muốn chạy trốn khỏi tay hắn. Nhưng chừ tau chịu rồi. Hắn bảo, dù tao có về đến nhà hắn thư vẫn chết.

Người chồng nhíu mày lại;

- Nhà mi ở đâu?

- Xa lắm.

- Vì răng mi lại lên đây? Vì răng lại Phu Tệ với mo Sẩu?

Ngô lật hẳn người lại, nhìn người đàn ông chủ nhà đầy căm tức:

- Tao mà anh em với cái thứ phù thuỷ ấy à? Tao đang ở nhà với vợ con tao. Tao cũng có vợ, có con trai, còn lớn hơn cả con đầu của mày đó! Tao nào có quen biết chi hắn, nào có thù oán chi hắn. Rứa mà bỗng dưng hắn tới giở phép ra bắt tao theo, giam tao gần nửa tháng rồi. Cái lũ người rừng chúng bay sao lại ác thế. Tao căm thù chúng bay!

Cả hai vợ chồng người chủ nhà quay lại nhìn nhau. Rồi bất ngờ người vợ thở dài, chị ngước nhìn Ngô đầy vẻ thương cảm:

- Bọn ta không biết ác đâu. Bọn ta cũng không ưa loại người như Phu Sẩu!

Người chồng ngồi sát lại bên Ngô, cầm tay anh lắc lắc:

- Nếu đúng như vậy thì ta giúp mi tập đi. Cứ tập đi đã. Khi nào đi vững, chạy mau, ta sẽ tính cách.

- Cách chi? Có chạy về được cũng chết mà!

Người chồng đột ngột đứng lên:

- Không, nếu có được thuốc kháng độc thì không chết.

- Nhưng mi có thuốc ấy không?

- Ta không có, nhưng ta sẽ nghĩ cách kiếm cho mi.

Chưa dám tin hẳn vào điều hứa hẹn ấy, nhưng dù sao Ngô cũng thấy chan chứa hy vọng, Và bỗng dưng anh ứa nước mắt. Run rủỉ làm sao trời lại cho anh gặp được cặp vợ chồng tốt bụng đến mức này!

° ° °

Ngô ở lại nhà vợ chồng Cà Tiềng thêm nửa tháng nữa. Cà Tiềng đã giúp anh đứng lên và tập đi. Trong thời gian ấy Phu Sẩu không hề đến.

Cho đến một đêm Cà Tiềng bàn với Ngô cách trốn . Sau đó Cà Tiềng tìm lên già bản Linh Linh xin thuốc. Cà Tiềng dẫn Ngô tranh thủ ngủ một giấc cho thật no để lấy sức mai đi xa. Cà Tiềng vừa ra khỏi nhà một lúc thì bất ngờ Phu Sẩu đến.

- Mi phải theo ta về chừ.

Ngô sợ hãi kêu lên:

- Chân tôi đi chưa mạnh. Mà đi ban đêm thì sợ lắm...

Phu Sẩu cười

- Chân chưa mạnh thì ta cõng. Còn đi ban đêm là để cho mi không nhớ được đường. Nào, đứng lên! Đừng có dại mà cãi ta.

Ngô ngước mắt nhìn vợ Cà Tiềng. Người đàn bà cũng nhìn anh thương cảm. Họ đều là những kẻ bất lực trước thầy mo.

Ngô chậm rãi bước ra khỏi hang. Trăng lờ mờ sáng. Rừng dày sương và lạnh buốt. Bất giác Ngô rùng mình. Anh có cảm giác mình đang đi vào cõi chết.

Họ đi chậm. Ngô lấy cớ chân còn đau, anh đi thất thểu từng bước. Phu Sẩu kiên nhẫn chờ đợi. Hắn cố tình ba hoa cho Ngô khuây khoả nỗi buồn.

- Mi thấy thuốc ta có tài không?

- Tài.

- Cả một cái chân gãy như rứa mà ta chỉ thổi có năm lần. Nếu mi không phải là Phu Tệ với ta thì phải cúng đó. Mỗi lần ta chữa thuốc xong, người được chữa phải cúng gà một con, rượu một chai, xôi một chõ. Nếu không cúng ta làm cho đau lại.

Ngô sởn tóc gáy. Anh rủa thầm sao hôm nọ hắn không trúng độc thằng Mu Thoòng mà chết rấp đi luôn. Bất giác anh gợi chuyện:

- Phu Sẩu đã giải hết độc Mu Thoòng chưa?

- Rồi, vì phải đi chữa cho mi nên ta phải luyện tới bảy ngày.

- Thế còn... những mo khác? Họ có chết không?

- Thằng Kình chết. Cái thằng có lông mày rất rậm ấy. Nó là đứa cao phép hơn bọn kia nhưng không có thuốc kháng được độc Mu Thoòng. Còn bọn mo bị độc của ta với của thằng Kình thì đều được già Linh Linh giải cho hết.

Ngô dừng hẳn lại, hỏi:

- Thầy Linh Linh có phải ông già ngồi trên đá sát chỗ các thầy mo ngồi không?

- Phải!

- Vì răng khi đó ông già lại lắc lắc cái lục lạc và dân bản bỏ chạy?

- à, đó là hiệu lệnh để cho dân bản chạy đi để già làng làm phép giải độc. Thuốc độc của thầy Linh Linh là một thứ bột rất mịn bay được trong gió. Người đang bị độc của ta ngửi vào thì giải độc, nhưng kẻ đang bình thường ngửi vào thì rụng hết tóc; sau đó phát điên. Gia Linh Linh luyện phép đó nên già cũng rụng hết tóc. Già không dạy cho ta, cũng không dạy cho ai thuốc đó cả.

Những câu chuyện lạ lùng của Phu Sẩu quả thật đã làm cho Ngô quên mất tình cảnh bi đát của mình. Họ vượt qua hai vùng rẫy, lội một con suối. Sau đó đi ngược dốc một đoạn dài. Ngô mệt quá, thở hổn hển. Cuối cùng hai người cùng bước xuống một khe sâu dày đặc đá. Họ lội ngược chiều nước chảy. Đi thêm một đoạn dài nữa thì Ngô đã nhìn thấy lèn đá! Trăng và sương đang nhuộm lên đỉnh lèn một màu sáng quái dị. Phu Sẩu dắt tay Ngô leo lên mấy bậc đá cao. Chừ thì Ngô đã có thể nhận ra chỗ cũ, chỗ luyện phép của Phu Sẩu và cũng là nơi đã giam hãm anh gần mười ngày.

Khác với lần trước, lần này Phu Sẩu tự nhóm lửa. Những gốc củi to và khô được đưa vào lèn từ lúc nào. Bếp lửa cháy rần rật hắt sáng lên hai vách núi đá. Hơi ấm phả ra. Ngô cảm thấy bình tĩnh trở lại. Hai người ngồi xa nhau và cũng xa bếp lửa.

Sau một hồi im lặng khá lâu, Phu Sẩu bắt đầu nói:

- Chừ thì mi phải nói thiệt Tệ Ngô ạ. Mi phải nói cho ta về pho tượng Mẹ Đất. Hiện tại mi cất giữ nó ở đâu? Còn nguyên vẹn không? Mi nói thật thì mi được sống. Còn không thì chẳng bao giờ mi nhìn thấy lại được mặt vợ con mi cả.

Thấy Ngô vẫn ngồi im bất động, Phu Sẩu nhổm người dậy, xích lại gần. - - Nếu mi chết thì pho tượng ấy có ích chi cho mi nữa? Một pho tượng dù là đồng đen hay vàng mười thì nó cũng chỉ có ích cho người sống thôi, còn khi mi đã thành ma thì dù có đến mười pho cũng chẳng để làm chi. Nếu ta là mi, ta chẳng dại chi đem mạng sống của mình để đổi cái cục đồng đen ấy cả. Nó có thiêng đến mấy cũng không thiêng bằng cái sống của mình... Đó, ta nói hết bụng rồi, mi cứ nghĩ đi. Dù sao ta với mi cũng đã thề độc nhau. Ta không muốn hại đến người anh em mình, Tệ Ngô ạ!

Ngô vẫn ngồi im, nhưng thực ra trong lòng đã lay chuyển. Mà quả thật, pho tượng ấy với anh chỉ là một huyền thoại, nào đã được nhìn thấy tận mắt đâu. Mà cho dù nó có thật thì anh cũng chẳng được chấm mút tí gì. Anh bây giờ đã trở thành kẻ tha phương. Toàn bộ cuộc sống của anh, cơ nghiệp của con cái anh chỉ cậy nhờ vào những con rối. Đã vậy thì việc gì phải dấu, việc gì phải lấy mạng sống của mình để đánh đổi! Tình thế này xem ra không còn hy vọng bỏ trốn được nữa. Thôi thì hãy kể đi, biết sao kể vậy, may ra có thể thoát khỏi chỗ này!

Thế là Ngô kể. Anh kể tất cả những gì mà anh được nghe qua lời kể của mẹ La thủa còn bé. Rồi anh kể về cái gia đình đặc biệt của anh. Cái gia đình mà cũng vì pho tượng đồng đen kia nên bảy chị em phải lấy chung một chồng. Câu chuyện mang lại cho anh một nỗi buồn da diết.

Nhưng Phu Sẩu đã không để cho anh kịp ngấm nỗi buồn, hắn hỏi trong hơi thở gấp gáp:

- Từ đó đến ni mi không về lại nhà?

- Không.

- Mi có dám chắc rằng pho tượng vẫn còn chôn không?

- Chắc.

- Lỡ bố mi đã bán?

- Không thể bán được. Thời trước nếu đem ra thì sẽ bị cướp giật ngay. Còn thời này, chắc Nhà nước sẽ trưng mua chứ chẳng ai để cho mình tự do buôn bán thứ ấy. Vì rứa, ta tin bố ta sẽ không dám đưa ra.

Phu Sẩu lặng im, gật gật đầu. Rồi bất ngờ hắn phá lên cười, tiếng cười đột ngột trong đêm khiến những con chim đang ngủ trong lá hoảng hốt bay loạn lên. Ngô ngơ ngác và sợ hãi nhìn Phu Sẩu. Hắn cười chán chê rồi đột ngột bá lấy cổ Ngô, lắc lắc:

- Ta với mi sắp giàu to rồi. Ta là anh sẽ lấy từ háng Đất Mẹ trở lên. Mi là em, ta cho nốt cái chân còn lại của Mẹ. Được không?

Ngô nhăn mặt:

- Nhưng làm răng lấy được?

- Với ta không khó. Nhưng ta không về dưới ấy được. Ta là người Rạc, về đó họ nghi liền. Hơn nữa, ta không biết mặt bố mi. Nếu bố mi chết rồi, thì chắc chắn sẽ có một đứa vợ hay đứa con nào đó cất giữ. Muốn biết đứa nào giữ thì phải ở lâu, hỏi dò đã mới biết. Mà ta không ở lâu nơi đó được. Vì rứa mà ta sẽ cho mi về. Chỉ có mi mới làm được việc đó.

- Nhưng lỡ bố không nói?

- Phải bắt nó nói. Ta sẽ dạy cho mi một phép thư bắt người tỉnh phải nói mê. Phép này chỉ cần học một tuần là được. Ngày mai ta bắt đầu dạy. Bảy ngaỳ nữa là mi được về nhà, ưng không?

° ° °

Hai người cùng ngồi chung trên một phiến đá, chân xếp bằng, tay đặt lên đầu gối, mắt nhìn thẳng về phía trước cửa lèn. Ngô thì hồi hộp, còn Phu Sẩu lại vẻ như đang mơ màng. Hắn bắt đầu nói, giọng lầm rầm như dân đạo cầu kinh, Ngô cứ lắng tai nghe. Đây là bài học vỡ lòng đầu tiên của nghề thầy mo.

- Tệ Ngô hãy nhớ, phép thư của ta hay của bất cứ thầy mo nào là phép đánh người bằng thuốc độc. Thuốc độc thì có nhiều loại. Nhưng không phải hễ ai có thuốc là dùng được. Muốn sử dụng được loại thuốc độc nào, trước hết tự mình phải kháng được chất độc đó. Phải cho chất độc nhiễm vào xác thịt mình rồi sau đó mình sẽ phun cái độc đó ra để hại kẻ khác! Như vậy, phép thư là phép biến chính mình thành một thứ thuốc độc!

- Tệ Ngô hãy nhớ, trong xác thịt mình cái có lợi nhất để cho mình giàu có và đồng loại đến được với mình, gần gũi với mình chính là hai bàn tay và lỗ miệng. Nhưng cũng chính hai thứ đó, bàn tay với lỗ miệng cũng chính là nơi phát độc mạnh nhất, là thứ giết đồng loại mình dễ nhất. Cho nên phép thư của ta chủ yếu là phép luyện độc ở hai bàn tay và thổi hơi từ trong miệng. Ta chữa bệnh cũng bằng phép ấy. Lỗ miệng với bàn tay là phương tiện sống của thầy mo, là vũ khí của thầy mo, là thiện ác của một con người.

Tệ Ngô hãy nhớ, thuỷ tổ mình sinh ra từ trong bọt nước và cây cỏ, đó là những thứ đẻ ra đất trời và con người. Người ta sống không ai không nhờ đến nước và cây. Nhưng cái thứ nuôi sống được người thì lúc nào cũng có đủ sức mạnh giết chết con người. Vì vậy, thuốc độc mạnh nhất cũng là thuốc độc lấy từ trong nước và cây cỏ mà ra. Từ nay về sau, khi đã có phép thư trong người, dù đi đâu, ở đâu Tệ Ngô cũng phải nhìn cây cỏ, sông nước bằng hai con mắt. Một con thấy đó là thức ăn , một con thấy đó là thuốc độc. Có vậy mới đủ sức làm cho mình có ăn và kẻ khác thì không có ăn.

Tệ Ngô hãy nhớ, con người ta có cái đầu và cái bụng thường hay nghĩ ngợi lung tung lắm thứ. Nghĩ ác, nghĩ thiện, nghĩ lành, nghĩ dữ, nghĩ mình và nghĩ tới người khác. Cái sự nghĩ ngợi lung tung ấy làm cho con người vừa khôn ngoan lên vừa ngu dốt đi, vừa dũng cảm lên lại vừa hèn nhát , đôi khi vừa muốn đứng lên lại vừa muốn cúi xuống, vừa đi tới lại vừa thụt lùi. Vì thế phép luyện thư của ta trước hết phải ngồi im, tập trung, nghĩ về một điểm. Chỉ được nghĩ một điểm mà thôi. Phải gạt hết trong đầu, trong bụng những sự nghĩ lui nghĩ tới, phải tâm tâm niệm niệm rằng tất cả là mịt mù, tối đen bịt kín chỉ có một điểm trước mắt, chỉ có một mục đích phải tới. Ví dụ khi luyện, Tệ Ngô có thể nghĩ tới pho tượng Đất Mẹ. Chỉ chằm hăm vào cái tượng ấy thôi, trên trời dưới đất không còn thứ chi khác, trên tất thảy cuộc đời này không có thứ chi nữa hết, chỉ có pho tượng cụt chân ấy, không có nó là trái đất này tan biến thành cát bụi. Phải nghĩ như vậy mới đủ sinh khí để phát độc ra.

Những lý lẽ ghê gớm ấy được phun ra từ miệng Phu Sẩu cũng có tác dụng gần như phun thuốc độc khiến Ngô cảm thấy choáng váng. Phu Sẩu ngừng lại uống liền hai hớp rượu. Còn Ngô thì cố định thần để nhẩm lại những điều cao cả vừa được nghe.

Sau đó, Phu Sẩu rút trong lưng quần ra một đoạn rễ cây. Hắn cấu một tý bằng mẩu tăm bảo Ngô cho vào miệng nhai, còn lại nhét vào cạp quần Ngô. Hắn dặn:

- Mỗi ngày, sau khi ngồi yên, tập trung nghĩ về một điểm thì nhai một tý rễ. Nhớ không được nhai nhiều mà độc. Còn lại phải luôn nhớ nhét ở thắt lưng trong cạp quần. Sau năm ngày, chất độc ngấm được vào da thịt, ta sẽ dạy cho cách phun ra mồm.

Ngô vẫn còn hoang mạng lo sợ, anh nhìn Phu Sẩu dè dặt hỏi:

- Nhưng mà... liệu xác thịt ta có chịu được thuốc độc này không? Lỡ ra...

Phu Sẩu phá lên cười

- Đừng lo. Trong hang có hàng trăm thứ thuốc độc của ta, đây là loại nhẹ nhất . Cứ làm đúng lời ta dặn thì không việc chi đáng sợ cả.

Ngô bắt buộc phải bỏ mẩu rễ cây vào mồm. Có vị đắng làm anh lợm cổ. Ngô định nhổ ra nhưng vì Phu Sẩu vẫn ngồi sát bên cạnh nên anh không dám. Chợt nhớ đến lời dạy cao siêu của Phu Sẩu, Ngô quyết định tập trung nghĩ về pho tượng đồng đen một chân, may ra có thể làm cho vị đắng trong cổ không còn gây nên sự buồn nôn nữa.

"Nào, pho tượng đồng đen một chân! Pho tượng đồng đen một chân! Mi là cái chi? Mi ở đâu? Mi to hay nhỏ? Mi hãy hiện ra, hiện ra trước mặt ta để ta tập trung nhìn vào mi ..

Nào pho tượng cụt chân kia, mi là cái thứ để ăn hay thứ để thờ mà người ta lại khao khát mi đến vậy. Cả đời tao khao khát, đời bố tao khao khát. Cả đời mẹ tao, cả các dì tao, cả ông bà tao nữa tất cả đều bu vào mày. Rồi thằng Phu Sẩu, thằng Mu Thoòng, với hết thảy đám người rừng ở đây ai cũng hau háu chực ôm lấy mi. Mi là nguồn hy vọng không tắt của sự sống, mi cũng là vực sâu của hận thù và tội lỗi. Mi là thức ăn mà cũng là chất độc. Tội của mi to lắm. Nếu lôi cổ được mi ra thì tao không chỉ chặt nốt cái chân mi ra thôi đâu, mà tao sẽ vặn cổ mi. Tội mi đáng vặn cổ. Bố tao nếu còn sống sẽ xẻo tai mi. Các em tao chắc chắn sẽ bẻ quặp tay mi. Rồi cái lũ người rừng sẽ băm xác mi ra. Phải trừng trị mi như thế mới hả dạ. Nhưng tất nhiên sau khi đã tùng xẻo mi ra
Tác giả : Xuân Đức
5/5 của 1 đánh giá

Bình luận

Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi
Nguyen 1 năm trước
Đã ra chap mới rồi nhé mọi người, link đây nha: bit.ly/newchap247

Truyện cùng thể loại