Tuổi Thơ Dữ Dội

Chương 13: Phần thứ năm

Trong những giờ phút nghiêm trọng của lịch sử, nhân dân và Đất nước thường mượn lời nói của con trẻ để nói lên cái tráng khí của mình.

(Lời của người nghĩa quân già thời Trương Định)

1

Người ở các địa phương trong tỉnh bị giắc bắt giải về Ty An ninh ngày càng đông. Thôi thì đủ, thanh niên, trung niên, ông già, cả con nít… Và theo hồ sơ, giấy từ gửi kèm theo thì người nào cũng là loại “Việt minh đầu sỏ", từng làm những việc nghiêng trời lệch đất. Nào là ám sát lý trưởng giữa ban ngày, liệng lựu đạn vào bàn tiệc các quan Tây, nào là treo cờ đỏ sao vàng, căng khẩu hiệu, rải truyền đơn…

Ty An ninh phải xây thêm hai buồng tạm giam rộng gấp đôi buồng cũ, và cũng sát liền ngay đó, vẫn không đủ chỗ giam.

Tên Ty trưởng quyết định chuyển bớt khoảng ba chục tù nhân loại cứng đầu, nguy hiểm nhất sang lao Thừa Phú - nhà tù lớn nhất ở Huế, được xây dựng từ hồi Pháp thuộc.

Chúng rất sợ những tù nhân sắp chuyển đi phản đối. Vì đã vào lao Thừa Phú là coi như chính thức ở tù, chưa biết ngày nào mới được thả ra. Do đó chúng giữ rất kín việc chuyển tù, không cho biết ngày giờ chuyển và chuyển đi đâu.

Một buổi chiều trời mưa tầm tã. Mưa cứ từng đợt từng đợt, ào ào trút xuống, quất ràn rạt trên mái buồng giam. Mưa hắt vào cả bên trong, làm những người gần cửa ra vào ướt lướt thướt. Khoảng quá trưa, trời hơi ngớt mưa, nhưng bầu trời mây đen vẫn ùn ùn đùn lên từ phía biển, báo hiệu những trận mưa sắp tới lớn hơn.

Tiếng khoá cửa lách cách. Cửa buồng giam mở toang. Hai tên Bảo Vệ Quân cầm ngang súng trường “mát" cắm lê đứng chắn hai bên cửa. Một thằng An ninh gầy choắt, má hóp, môi thâm sì, đầu tóc chải “Bi dăng tin" ruồi đậu phải trượt chân, tay cầm một tập giấy đánh máy đứng ngay giữa cửa. Nhìn cách đứng và bộ dạng tức cười của chúng giống bức ký hoạ vẽ nhại cảnh Quan Công đứng giữa đọc sách, Châu Xương, Châu Bình cầm gươm bát xà mâu, đứng hầu hai bên tả hữu.

Thằng An ninh đảo cặp mắt trắng dã nhìn khắp buồng giam một lượt, nói giọng hách dịch:

- Ai nghe đọc đến tên thì dạ lên một tiếng nghe chưa?

- Không dạ mà ừ thì có được không ạ? - Tiêng một người nào đó từ trong góc tối hỏi vọng ra.

Hắn lừ mắt liếc xéo vào góc có tiếng hỏi, rồi bắt đầu đọc. Những người có tên gọi hồi hộp, bồn chồn, đưa mắt nhớn nhác nhìn nhau. Trong buồng giam có hơn năm chục người mà chỉ có ba chục người được gọi. Chính điều này làm cho họ bồn chồn, hồi hộp. Chúng gọi mình để làm gì? Chúng thả chăng? Hay đưa đi bắn? Hay chuyển qua một nhà tù khác? Trong đáy mắt những người được gọi tên trước, ánh lên những tia mừng rỡ, hy vọng… Nhưng đến lúc nghe gọi đến tên Trần Văn Lượm và Nguyễn Văn Cận (anh thợ máy) thì những tia hy vọng trong mắt họ vụt tắt ngấm. Đầu họ rũ xuống, bật lên tiếng thở dài não nuột. Đã đứng chung danh sách với cái anh “Trưởng ban ám sát" và thằng con nít ranh hai lần vượt tù thì chẳng còn hy vọng gì được tha!

Khi nghe gọi đến tên mình, Lượm không dạ, không ừ, mà đáp rất to như ngay ở Đội trong giờ điểm danh: “Có mặt!“. Giọng nó vừa to vừa dỏng dạc, lại không quấy nghịch, làm thằng An ninh phải quặu mặt, gườm gườm nhìn Lượm một lúc khá lâu, mới cúi xuống đọc tiếp. Lượm không chút sợ sệt, nó còn gân mặt lên vẻ ngạo mạn, thách thức “Mi tức lắm à?“. Ánh mắt Lượm như muốn nói: “Tức thì hộc máu mà chết, chứ làm cóc khô chi được ta?“.

Lúc nào cũng vậy, hễ mỗi lẩn có mặt tụi An ninh, Bảo vệ quân thì dù đang vừa mới bị đòn thừa sống thiếu chết, hoặc đang lo buồn đến muốn khóc òa, nó cũng cố làm ra vẻ mặt tươi tỉnh, cười cợt, có khi còn chụm môi huýt sáo. Lòng kiêu hãnh của người chiến sĩ cộng với tính tự ái của con nít, Lượm muốn tỏ cho chúng biết: “Tau coi khinh các trận đòn xé thịt, coi khinh nhà giam, súng ống, khóa xích… của bọn bay“. Đó cũng là một cách nó trả thù những trận đòn tướp thịt của tụi An ninh. Tụi An ninh, thằng cai ngục, mấy tên lính gác tù vẫn thường bàn tán với nhau về Lượm “Đầu chưa sạch cứt trâu nhưng hắn cứng đầu cứng cổ nhất buồng giam! Quân nớ các ông trên không cho đem bắn quách đi, để lớn thêm vài tuổi nữa, hắn cắt cổ tụi mình có ngày!", “Cần chi đợi lớn thêm vài tuổi? Chừ mà hắn có dao trong tay coi hắn có cắt họng cổ tụi mình ngay không?“.

Đặc biệt sau cái lần Lượm mở được khóa xích trốn ngay trước mũi súng của thằng lính Tây gác ở Sở Mật thám Phòng nhì, thì cả Ty An ninh đều phải sợ hãi, kiêng dè. Ngay cái buổi chiều quan ba Sô-lê phải gọi đến lực lượng cảnh sát dã chiến dùng chó béc giê mới phát hiện ra được Lượm trốn trên ngọn cây và cho xe Jeep chở trả nó về Ty An ninh, thằng Ty phó An ninh đã cho gọi lên gặp ngay. Hắn có vẻ đắc chí tưởng đâu nhưng Lượm cùng phe với hắn, và đã giúp hắn trả mối thù bị tên chủ mật thám Tây làm nhục. Hắn hỏi Lượm, không có vẻ gì giận dữ.

- Răng? Công trình đến như rứa mà phải chịu để bại lại à?

Lượm đang cơn uất ức chưa nguôi vì cú thất bại quá cay đắng, nên cũng quên luôn hắn là Ty phó An ninh kiêm Trưởng phòng lấy cung, trả lời rất thành thật:

- Tại tui dại, tui quên mất tụi hắn có chó săn. Tui mà nhớ, thì tui phải lập mẹo khác. Trước khi trèo lên cây tui trèo lên một cây khác xa đó, cởi hết áo quần vứt lên để đánh lạc hướng chó… Tổ cha con chó săn…?

- Hỗn? - Mặt hắn vụt tím lại, quát to.

Tiếng chó săn Lượm nói một cách vô tình nhưng hắn cho là nói cạnh hắn. Hắn dang thẳng cảnh tay tát Lượm mạnh đến nỗi Lượm ngã nhào từ trên ghế xuống đất, nằm chết giấc một lúc. Chuyện đó xảy ra cách đây mới năm hôm.

- Lê Văn Tư, bí danh Tư-dát? - Tên An ninh đọc đến tên cuối cùng của bản danh sách, không ai ừ hoặc dạ. Hắn lại xướng to lên một lần nữa.

Lượm chợt hiểu ra. Nó huých cùi chỏ vào sườn thằng Thúi lúc này đang vươn cái cổ ngẵng như cổ gà con mà ngó tên An không chớp mắt.

- Ông nớ gọi tên mi đến hai lần rồi răng mi không ử, không ừ chi hết cả. Mi vô phép thiệt? - Lượm nói giả vờ giọng trách mắng.

- Nhưng tui có phải tên Tư mô? - Thằng Thúi cãi lại miệng há ra, ngơ ngáe.

Nó vội vàng lập cập đứng lên, dợm bước tới một bước, vòng tay khúm núm thưa với tên An ninh:

- Dạ thưa chú, con không phải tên Tư. Dạ con tên là Thúi, bán kẹo gừng ở chợ Bao Vinh…

Lượm cũng đứng dậy, bước tới nói chen vô như cãi nhau với thằng Thúi:

- Rứa răng hôm mi bị bắt, mi khai với các ông nớ mi tên là Tư-dát, Việt Minh đầu sỏ, mang rá kẹo gừng về đánh đồn Hộ Thành, làm đồn sập cái rầm, còn rá kẹo gừng thì chảy nước hết? Mi còn nhận là trưởng ban ám sát Vê-cu-đê nữa tê mà?

Thằng Thúi cãi lại, nước mắt rớm rớm:

- Tại họ đánh tui đau quá, tui phải khai bậy khai bạ rứa, chứ tui là thằng Thúi bán kẹo gừng thiệt mà… hu hu… - Nó òa khóc to.

Những người trong buồng giam đang lo buồn nẫu ruột nhưng nghe hai đứa cãi vã nhau đều phải phì cười.

Tên An ninh gằn giọng ra lệnh:

- Tất cả những người có tên gọi ra ngay sân tập họp. Có đồ lề của nả chi đáng giá thì mang theo.

Ba chục người tay xách nách mang, lôi thôi lếch thếch nối nhau bước ra khỏi cửa buồng giam. Họ đứng thành một hàng dài dọc cái sân rải đá dăm lổn nhổn, nước đọng từng vũng lớn nhỏ. Thằng Thúi và Lượm nhỏ nhất, đứng ngay ở hàng đẩu. Nhìn thấy thằng Thúi đeo kè kè trước bụng cái rổ và cái mẹt bán kẹo gừng - đồ lề của nả đáng giá nhất của nó - thằng An ninh ngứa mắt giựt phắt cái rá ra khỏi cổ nó, và cầm liệng bay qua bên kia mái nhà. Bị giựt quá bất ngờ, thằng Thúi không kịp giữ lại. Nó nhợm chân định chạy theo nhặt. Thằng Bảo vệ quân chộp cổ áo nó kéo giằng lại và giáng luôn một tát tai, chửi:

- Con mạ mi muốn trốn à - Hắn ngó dọc hàng người, giọng hăm he - Nói trước cho mà biết đứa mô bước ra khỏi hàng là ăn đạn ngay!

Chúng áp giải đoàn tù men theo hè những đường phố ướt át. Gió rung cây xào xạc. Nước mưà đọng trên các tán lá rơi lộp bộp xuống đầu xuống cổ đoàn tù. Khi rẽ đến đường phố thứ ba thì tất cả đều đoán được họ đang bị giải đến nhà lao Thừa Phủ.

2

Gần đến cổng lao Thừa Phủ trời bỗng đổ mưa như xối. Đoàn tù hầu hết không nón không mũ, đội mưa xối xả, cắm cúi lầm lũi đi… Một người nào đó ở quãng giữa hàng, bật tiếng kêu rên:

- Cực chi mà cực lắm ri trời!

Đến trước cổng lao, hai tên lính áp giải hô đoàn tù đứng lại sắp thành hai hàng dọc.

Lượm đưa tay vuốt nước mưa giàn giụa trên tóc, trên mặt ngoảnh đi ngoảnh lại nhìn con đường phố hẹp dẫn đến cổng lao. Nó ngạc nhiên tự hỏi: “Cả cái thành phố Huế ni, có đường phố lớn nhỏ mô mà ngày còn đi học mình không chạy rông? Răng con đường ngang qua cửa lao ni lại không biết hè?":

Nó chợt nhớ có lần mạ kể: “Ngày cha mới bị bắt, tòa án chưa kết án đi đày, tụi Tây giam cha gần một năm ở lao Thừa Phủ. Mỗi tuần mấy lần mạ bới cơm, bới nước tới cho cha. Lần mô gặp mạ, cha cũng năn nỉ: Em đến thăm anh ít thôi kẻo mất công mất việc ở nhà. Em còn phải làm lụng nuôi con… Cứ theo anh bới sách hoài ri, cực chịu chi thấu… Mạ không nói câu chi, cứ đứng trân trân ngó cha, nước mắt chảy như tắm.“. Lượm bỗng thấy lồng ngực trống rỗng, tim đau nhói, hai mắt cay xè như bị xông khói. Nó chưa bao giờ thấy cảm thương người cha mà nó chưa hề biết mặt như giây phút này. Nó mếu máo nói thẩm: “Rứa là chừ tụi Tây lại bắt con giải đến đây như cha ngày đó… Mà mạ con thì ở tận ngoài Ưu Điềm, Mỹ Chánh chưà hay biết chi chuyện con ở đây.“. Nó cúi xuống đường, miên man nghĩ: “Chưa chừng ngày đó, cũng như buổi chiều mưa gió tầm tã như chiều ni, mạ co ro trong cái áo tơi lá, tay xách cái bị lác đựng cơm canh đứng đợi cha… đúng cái chỗ mà mình đang đứng đây cũng nên… Đời mạ khổ chi khổ lắm rứa mạ ơi!“.

Nước mắt trào ra từng đợt ròng ròng trên hai má, nó cũng chẳng buồn đưa tay lên quệt. Nó cứ để mặc cho nước mắt hòa với nước mưa.

Nhà lao Thừa Phủ được xây dựng cùng một kiểu với hầu hết các nhà tù mà bọn thực dân đã xây suốt gần một thế kỷ trên khắp nước ta. Khu vực nhà lao hình vuông, có hai lớp tường. Lớp tường ngoài cao hơn lớp trong, xây bằng đá, cao vòi vọi nóc tường cắm chi chít mảnh chai. Như sợ chưa đủ cao, trên nóc tường còn chạy quanh một hàng cọc sắt cao gần một mét, giăng đầy dây điện. Cổng lao cao vượt ìên như một cái tháp, hai cánh cửa lớn bằng gỗ lim ghép kín mít viền nẹp sắt, tán đình sắt tròn. Trên nóc cổng cắm một cột cờ sơn xanh, treo hai lá cờ xanh trắng đỏ và vàng quẻ ly(1). Hai lá cờ ướt sũng, như hai con gà rù đứng sã cánh dưới mưa. Bên phải cổng, có một chòi canh. Trong chòi một tên Bảo vệ quân cầm súng cắm lưỡi lê đứng gác. Một tên lính áp giải tù đi đến chòi canh trình báo với tên lính gác. Lát sau, một cánh cổng lao nặng nề hé mở chỉ vừa hai người qua lọt. Khi người tù cuối cùng vừa vào khỏi, cánh cổng đóng ập ngay lại. Thành phố đã hoàn toàn khép kín đằng sau lưng họ. Không ai bảo ai mà tất cả đều ngoái lại. Tầm mắt họ bị chặn đứng bởi màu tường đá xám xịt, che khuất cả những ngọn cây cao ngoài đường phố. Hàng mảnh chai tua tủa lóng lánh nước, như đang cắt xé bầu trời sầm tối trút mưa. Cặp mắt Lượm nhòe nhoẹt nước mưa, nước mắt, ngước lên mãi, đăm đăm buồn bã nhìn hàng mảnh chai. Chưa lúc nào như lúc này nó thấy tiếc đến cồn cào cả ruột gan lần vượt tù thất bại vừa rồi. Nó như nghe tiếng chó sủa dử tợn chiều hôm đó, làm nó đang ôm siết cành cây ngủ mê mệt như chết, phải choàng tỉnh dậy. Phải mất đến một phút nó mới nhớ lại được tất cả mọi chuyện. Nhìn xuống gốc cây, nó thấy một bọn đông lố nhố, đội mũ sắt sơn trắng, tay cầm súng lục, tiểu liên. Con chó lông màu vàng nhạt, to bằng con bò con, nhảy chồm chồm, răng nhe nhọn hoắt, sủa váng đầu váng óc, hai chân trước ôm gốc cây cào cào như hóa dại. Nếu nhảy lên được đến nơi chắc con chó như con cọp này sẽ xé xác nó ra từng mảnh. Qua mấy phút đẩu hoảng sợ, một nỗi uất giận chưa từng thấy bốc lên đầu nó, làm nó muốn phát điên. Trời ơi, nó nhớ rất rõ lúc ấy nó thấy thèm ghê gớm có trong tay một trái bom, hoặc một trái mìn ba càng. Nó sẽ ôm trái mìn lao thẳng từ ngọn cây xuống, nhắm trúng vào chính giữa cái tụi người và chó kia. Quả mìn sẽ nổ chuyển rung cả đường phố, nò cùng tan xác với bọn chúng. Hả hê biết mấy? Những giọt nước mắt nóng bỏng trào ra khóe mắt nó - những giọt nước mắt uất giận vì bất lực. Nó đã phải tụt xuống gốc cây, giữa tiếng cười ré của bọn giặc, Tây có ta có… Bây giờ vụt nhớ lại cả người nó còn run lên vì uất giận.

Như bất ngờ bị trói, nó vụt nhắm mắt lại, cay đắng nhủ thầm: “Chừ thì hết rồi. Có tài thánh cũng đừng có hòng mà lọt qua được bức tường đã cắm mảnh chai, giăng dây điện tê!“. Từ lớp tường ngoài đến lớp tường trong cách khoảng mười thước. Bức tường trong thấp hơn nhưng dày đến hàng thước. Mấy thằng lính gác mặc áo mưa đi lại trên nóc tường. Bốn góc tường nhô cao bốn cái chòi canh có lỗ châu mai nhìn ra bốn phía. Qua bức tường này có một khuôn cửa hẹp rộng chừng một mét, với một cánh cửa sắt đồ sộ chấn song lớn cỡ bắp tay. Khoảng cách giữa hai bức tường chạy dài về phía bên phải khuôn cửa một dãy nhà bán mái. Đó là chỗ ở của bọn lính ngục, văn phòng nhà lao, bếp ăn nhà tù. Phía trái là ngôi lầu một tầng, tầng dưới thềm khá cao có hiên rộng, tường quét vô trắng bốp, cửa sổ, cửa ra vào sơn xanh, treo rèm thêu rua trắng muốt, kính cửa được lau chùi sáng choang: Đây là ngôi lầu của tên chúa ngục. Ngôi lầu nổi lên lạc lõng, trơ trẽn giữa khung cảnh xám xịt, dơ dáy, ảm đạm của nhà tù. Chẳng khác nào một mụn vải hoa mới vá trên cái quần vá chằng vá đụp. Hai tên lính áp giải, gầm gừ, quát nạt, dùng mũi súng dồn toán tù đứng thành ba hàng dọc gần sát mái hiên đầu hồi nhà tên chúa ngục. Mưa vẫn không ngớt, cái ống máng kẽm đầu nóc nhà nghẹn nước, tuôn ồng ộc. Những tên lính coi ngục khoác áo mưa đi lại. Chúng ngang qua trước mặt toán tù đang đứng co ro ướt sũng, chẳng buồn đưa mắt nhìn. Chúng đã quá quen thuộc cảnh tượng này.

Phía sau lớp tường thứ hai, nhô lên những lớp nóc nhà. Từ trong đó vọng ra tiếng ồn ào khác nào chợ Đông Ba đang họp vào lúc đông nhất. Mọi người nghểnh cổ nhìn những mái nhà trắng xóa sau màn mưa, nghĩ bụng: “Chắc tù nhốt trong đó phải đông lắm mới ồn ào đến mức ấy“.

Thằng Thúi từ nãy tới giờ cứ đứng trố mắt nhìn khuôn cửa sắt trông như cửa nhốt ông Ba mươi ở vườn Bách thú, hai hàm răng nó va nhau lập cập vì mưa thấm lạnh thấu ruột. Nó hỏi Lượm, mắt không rời những chấn song sắt.

- Anh nì. Họ nhốt ai trong đó anh hè?

- Nhốt tau với mi chứ còn nhốt ai nữa!

- Thiệt à anh?

- Rứa mi tưởng họ dắt tau với mi tới đây để cho vô ở trong cái nhà ni, - Lượm hất hàm chỉ lầu tên chúa ngục - rồi mời lên nằm giường nệm lò xo chắc?

Thằng Thúi rùng mình, mếu máo:

- Ui chao! Tui chẳng có tội chi mà họ bắt nhốt vô đó…

Lượm giả làm mặt giận, làu bàu nói:

- Mần trưởng ban ám sát Việt Minh kiêm chỉ huy đánh đồn Hộ Thành mà mi cứ kêu hoài không có tội chi!

Thằng Thúi định cãi nhưng vừa mới mở miệng đã vội vàng câm bặt. Hai cánh cửa kính đầu hồi nhà bất thẩn mở rộng. Từ bên trong nhà một thằng Tây cao lênh khênh, đầu gần chạm khuôn cửa, bước ra. Hắn mặc bộ đồ “soóc" kaki vàng nên nhìn nó càng cao. Cẳng chân, cẳng tay dài đuỗn không có tý thịt, lông lá tua tủa. Trán hắn hói đến tận đỉnh đầu, tóc loăn xoăn màu bã điếu, sống mũi gồ rất cao, gãy khúc ở giữa. Hàm râu quai nón cùng màu với tóe, bao quanh khuôn mặt dài và nhọn như cái nêm. Cặp mắt hắn sâu một cảch lạ lùng, đáy hố mắt lấp lánh cặp đồng tủ của loài ác thú. Miệng hắn ngậm cái ống điếu lệch về một bên mép, cần điếu cong như cái dấu hỏi, nỏ điếu rất to chạm hình sọ người. Trên đỉnh sọ bốc lên một làn khói xanh lơ. Bên hông đeo xệ khẩu “côn đu", một tay cầm cây roi da đen.

Vừa thoạt nhìn thấy hắn, toán tù có nhiều tiếng xì xầm khiếp đảm:

- Một Điếu, Một Điếu!

Nghe tên Một Điếu, Lượm sực nhớ những ngày bị giam ở Ty An ninh, nhiều lẩn nó được nghe kể: Một Điếu là tên chúa ngục hung thần lao Thừa Phủ. Hắn đóng lon quan một, lúc nào miệng cũng ngậm ống điếu, do đó mà có tên Một Điếu. Một Điếu có máu điên. Một tay hắn đã đánh và bắn chết khá nhiều tù.

Một Điếu bước ra gần sát mép thềm, tay chống nạnh bàn tay tì lên báng súng lục, tay cầm cây roi da khẽ nhịp nhịp vào cẳng chân lông lá. Tên quản xếp, phó đề lao, đứng khúm núm sau lưng hắn. Hắn đưa cán roi da chỉ toán tù hỏi tên quản xếp: - Việt Minh? - Dạ bẩm bên Ty An ninh vừa báo là toàn loại Việt Minh hạng nặng cả đấy ạ. Một Điếu dọc theo mép thềm đi từ đầu đến cuối đoàn tù. Cây roi da ngúc ngoắc như một con rắn đen bị hắn nắm chặt đầu. Thằng Thúi mắt mở tròn xoe nhìn theo Một Điếu với tính hiếu kỳ muôn thuở của con nít. Nó quên cả sợ hãi, mà đang thắc mắc tự hỏi “Tại răng lúc mở miệng nói mà cái ống điếu không rớt? Ông Tây ni tài thiệt!“. Lúc Một Điếu quay trở lại, nó vân không rời mắt cái ống điếu chạm hình đầu lâu ngậm lệch bên mép, chờ coi ông nói lần nữa cái ống điếu có rớt không… Lượm hoảng sợ thúc cùi chỏ vào sườn thằng Thúi, thì thào: “Mi muốn chết à mi?“.

Một Điếu ngoắc ngoắc ra hiệu cho toán tù.

- Viên i xi? Lại đây! Lại đây! - (cái ống điếu vẫn không rớt).

Hai tên lính áp giải ngang súng, một đứa đầu, một đứa cuối ép toán tù đứng sát vào thềm ngay dưới bức rèm mưa. Chưa ai kịp hiểu chuyện gì thì ngọn roi da như con rắn đen trong bàn tay lông lá của tên chúa ngục đã vung lên, quất vun vút xuống đầu xuống cổ toán tù. Toán tù khiếp đảm giạt ra ngoài cố tránh tầm roi. Nhưng hai tên lính áp giải cùng với hai lính gác ngục vừa kịp chạy tới, dùng báng súng thúc vào mạng sườn toán tù, ép họ sát vào để nhận phần roi. Mưa rơi đã mau mà trận roi càng mau hơn. Một Điếu vừa đi vừa quất, như muốn phân phát thật đều ngọn roi xé thịt “Việt Minh! Việt Minh! Việt Minh!.“. Hắn vừa quất vừa gẩm gừ rít lên, điểm nhịp cho mỗi nhát roi. Cái ống điếu bên mép vẫn không rớt, lại còn bốc khói xanh lơ, tưởng chừng như đã được hàn chặt vào mép hắn. Việt Minh? Việt Minh? Việt Minh?… Hình như càng đánh hắn càng hào hứng, roi quất càng nhanh hơn, tiếng gầm rít điểm nhịp càng dồn dập hơn.

Không còn cách gì tránh thoát, toán tù cúi rạp người đưa lưng nhận roi, nhiều mảnh lưng áo nhòe máu. Ở ty An ninh, lúc bị đòn thằng Thúi la to đến thế, mà lúc này nó như bị cấm khẩu, không la được mệt tiếng. Trận đòn roi da làm cho nó sợ đến cứng lưỡi. Nó bị hai ba roi liền quất đúng ngang cổ, rát bỏng như lừa cháy. Nó chúi đầu vào nách Lượm. Lượm cũng bị mấy roi quất chéo ngang vai đau xé thịt, nhưng thương thằng Thúi quá, nó liều mạng chìa lưng ra che roi cho thằng Thúi…

Khi thấy cả đám tù suốt lượt roi quất không còn sót ai, Một Điếu mới chịu dừng tay. Hắn nhún vai, vung cây roi ra lệnh cho mấy tên lính gác ngục:

- Dẫn chúng nó vào ca-sô!

Hai tên lính ngục dồn đẩy toán tù đi qua khuôn cửa sắt lớp tường thứ hai. Qua một khoảng sân lầy lội bùn ngập đến mắt cá chân, toán tù dừng lại trước một dãy nhà, chiều ngang rất hẹp mà Một Điếu gọi là ca-sô.

Ca-sô xây kiểu như nhà xí công cộng. Hai bên hai dãy buồng con, cửa đối diện nhau, cánh cửa niềng sắt, chốt khóa kiên cố, giữa là lối đi hẹp, dài hun hút.

Toán tù bước lên mấy bậc tam cấp bùn nhày nhụa đứng thành hàng dọc lối đi. Cửa ca-sô mở rầm rầm. Mỗi ca-sô, mấy thằng lính gác ngục xô vào một hoặc hai người tù, và đóng ập ngay cửa lại, đập mạnh chốt sắt. Lườm và Thúi bị đẩy vào ca-sô thứ ba, dãy bên trái.

Ngoài trời đã xẩm tối, bên trong ca-sô không đèn đóm, càng tối như hũ nút. Hai đứa đứng gần sát nhau mà không nhìn thấy mặt nhau. Lượm nghe tiếng thằng Thúi khóc thút thít. Lượm lúc này cũng đang muốn khóc lắm. Bị ướt sũng suốt từ đầu đến chân, tóc tai, mặt mũi, quần áo, nước chảy ròng ròng. Nước mưa thấm vào người lạnh thấu gan ruột. Áo quẩn dính hết vào các vết đòn tra tấn cũ chưa lành, và những làn roi rướm máu của Một Điếu làm da thịt rát như phải bỏng. Mùi hôi thối xông lên nồng nặc và tiếng muỗi kêu như sáo bay loạn xạ quanh người. Mười bốn tuổi đầu, trong hoàn cảnh đó, gan mấy mà không khóc? Nhưng nghe tiếng thằng Thúi khóc ti tỉ bên cạnh tự nhiên nó không khóc được nữa, mà đâm nổi cáu.

Nó đưa tay sờ soạng:

- Mi mô rồi Thúi?

- Tui đây!… Hu hu hu!…

- Ai đánh đập chi mi mà mi cứ khóc hoài? Mi có nín đi cho tau nhờ không? - giọng nó gần như nạt nộ.

- Tui sợ lắm anh nờ…

- Sợ! Sợ răng còn làm trưởng ban ám sát? Mi cởi ngay quần áo ra mà vắt khô như tau ri không? Mặc áo quần ướt lạnh thấu vô tới tim phổi là chết không kịp ngáp đó. Chết ở nhà còn có cha mạ thương chớ chết ở đây chẳng ai thương mô?

- Tui làm chi có cha mạ… anh!

- Thì có mụ chủ lò kẹo gừng thương mi! Mà mụ nớ không thương nữa thì có thằng Một Điếu thương.

Thằng Thúi đang khóc mà phải phì cười:

- Hắn thương đã gớm chưa anh? Hắn cứ thương cho vài trận như khi hồi thì da thịt gọi là nát bét…

Nghe lời Lượm nó cởi quẩn áo vắt nước. Nước rơi tong tỏng xuống nền.

Hai đưa vừa vắt khô áo quần vừa trò chuyện. Thằng Thúi nói:

- Anh gan cóc tía thiệt… lúc mô anh cũng nói nghịch được. Anh không sợ à?…

- Sợ ai?

- Sợ nhà tù ni… sợ thằng Một Điếu…

- Tây không sợ Vệ Quốc Đoàn thì thôi, có đời mô Vệ Quốc Đoàn lại sợ Tây? Mi nói chi dại dại ngộ ngộ rứa?

- Nhưng vô đây rồi thì biết đời mô ra được anh?

- Rứa mi tưởng tụi Tây chiếm mãi được Huế mình à? Mai mốt tổng phản công, Vệ Quốc Đoàn ta trên núi xuống đuổi cho tụi Tây chạy re cứt. Rứa là tau với mi đàng hoàng mở cửa tù mà ra. Mi thì về đeo rổ đi bán kẹo gừng. Tau thì về lại đội trinh sát của tau. Êm ro.

- Thiệt à anh?

- Không thiệt thì giả à? Được, để mai khỏe tau phải dạy cho mi bài chính trị ba giai đoạn kháng chiến. Học rồi là mi biết. tau nói chơi hay thiệt. Chừ để tau thám thính qua cái xà lim ni coi ra răng cái đã.

Lượm vắt bộ áo quần ướt qua vai, đi quanh xà lim sờ soạng. Xà lim hình chữ nhật, một bề chừng hai thước, một bề thước rưỡi. Nền láng xi măng, trống trơn bị thủng vỡ lồi lõm như đường ổ gà. Nước vắt áo quần của hai đứa làm nền ướt lõng bõng. Lượm kêu:

- Không có giường phản cứt chi hết mi ơi! Rứa là tụi nó bắt tau với mi lại tiếp tục ngủ đất đây! Biết ri đừng vắt nước xuống đất cho xong? Ngu thiệt?

Thằng Thúi cũng bò bốn cẳng sờ soạng nền xà lim.

- Có mùi chi thúi quá anh ơi. - Nó hít hít mũi kêu thành tiếng.

- Mùi cứt với nước đái chứ còn mùi chi nữa. Rứa mi tưởng Tây hắn rảy nước hoa cô-ti trong xà lim cho Vệ Quốc Đoàn với “Trưởng ban ám sát Việt Minh" nằm ngủ chắc?

- Nhưng vừa thúi vừa ướt như ri thì làm răng nằm ngủ được?

- Không nằm được thì ngồi. Không ngồi được thì đứng mà ngủ. Đời Vệ Quốc Đoàn ngủ đứng, ngủ ngồi là chuyện thường. - Lượm khẽ ngâm nga: “Sống thời nằm trên cành cây. Chết thời áo súng bó thây chiến trường!“. Đời chiến sĩ là như rứa đó mi ạ. Thơ thằng Tư-dát nó đặt đó. Mi đã được Ty An ninh phong cho chức Tư-dát, tình báo viên xuất sắc của thành Huế. Mi muốn làm được chức đó thì từ giờ trở đi tụi Tây, Việt gian có hành hạ cực khổ đau đớn mấy cũng không được kêu rên. Tau ghét nhất là những đứa hay kêu rên? Trước mặt tụi Tây, tụi Việt gian, trong bụng có cực mấy cũng không được mếu, mà phải vênh mặt lên, cười thật ngạo vô cho tau. Mi đã nhớ chưa?

Lần đầu tiên thằng Thúi được nghe những lời lạ như vậy. Nó chưa hiểu hết, nhưng cảm thấy hay hay. Nó càng thêm yêu phục Lượm. Cái anh Việt Minh ni chỉ lớn hơn nó hai tuổi mà đã làm cho mấy ông An ninh, Tây mật thám, lo toát mồ hôi hột. Vừa rồi không eó anh ấy đưa lưng ra che roi [bad word] bò của thằng Một Điếu thì lưng cổ mình phải nứt ra như củ sắn mỳ luộc quá chín.

Hai đứa bò bốn cẳng sờ soạng một lúc rồi cũng tìm ra được một góc xà lim hơi ráo nước. Hai đứa cùng trần như nhộng, ngồi nép sát vào nhau, lưng dựa tường. Áo quần ướt cuộn lại một túm, để bên cạnh. Lượm quàng tay qua đôi vai gày nhom lục cục những xương của thằng Thúi:

- Ngồi sát vô chút nữa cho ấm mi. - Lượm nói và kéo nó sát vào mình hơn. - Mi nói là mi sợ cái nhà tù ni à? - Tau thì tau ưng bụng lắm. Đã gọi là ở tù thì cũng phải cho ra ở tù. Tù như bên Ty An ninh tao chán lắm. Nó là cái nhà bếp chớ có phải nhà tù mô mi! Cửa chẳng ra cửa, vách chẳng ra vách. Còn cái nhà tù Thừa Phủ ni à hai lớp tường đá tảng, có cắm mảnh chai nghe, cửa toàn cửa sắt nghe? Chấn song cửa như chấn song nhốt cọp nghe? Khóa cửa to như cái ấm tích nghe? Xà lim không phản, không giường thối hoang mùi cứt nghe! Ở tù như ri mới đáng mặt ở tù!

Không trông rõ mặt nhưng nghe giọng nói tưng tửng bỡn cợt của Lượm, thằng Thúi thấy bụng khuây khuây. Không còn thấy sợ hãi rầu rĩ như mới bước vô đây.

- Anh Lượm ni…

- Cái chi?

- Anh còn cha mạ không?

- Còn mạ thôi. Cha tau chết rồi… Cha tau làm cộng sản bị Tây bắn chết lúc tau mới chưa đầy hai tuổi. Mạ tau đi dệt thuê cho người ta ở ngoài Mỹ Chánh ba bốn tháng về thăm tau một lần. - Rứa trước khi vô Vệ Quốc Đoàn, anh ở với ai?

- Ở với ông nội, với các chú ruột. Các chú nuôi cho đi học.

- Anh học có được nhiều chữ không?

- Nhiều cóc chi! Mới lớp nhất “cua súp-pê-ri-ơ" chớ mấy.

- Rứa mà còn không nhiều? Chẳng bù cho tui; chẳng biết được chữ chi, ngó vô tờ sách như ngó vô cái đít nồi - Nó thở dài, giọng trở nên buồn thiu. - Tui cũng thèm đi học lắm… Trong xóm tui, ngày Huế chưa đánh nhau, có lớp bình dân học vụ người đi học đông lắm. Mấy ông tral, bà tra cũng đi. Mỗi ngày tui đi bán kẹo, ăn bớt được của mụ chủ hai ba xu, dồn lại được gẩn một đồng. Tui mua một cuốn vở, một cây bút chỉ, định xin đi học. Ai ngờ thằng Sửu, con mụ, cũng bằng tuổi tui, hắn biết được chuyện tui rắp rem đi học, hắn mách với mạ hắn. Rứa là mụ lục tìm xé tan xé nát cuốn vở vứt vô bếp. Còn cây bút chì mụ lấy dao chặt nhỏ từng khúc, rồi còn đập cho tui một trận bò lê bò càng, mụ chửi:

- Cái thứ người như mi mà cũng đòi đi học à?

Nó nhại giọng the thé nanh nọc của mụ chủ. - Cóc nhái cũng định đòi ngoi lên làm người!

Lượm căm tức nói:

- Con mụ ấy phải cho ăn đạn?… Được rồi, - Lượm vỗ nhè nhẹ vô lưng Thúi, giọng dỗ dành, - mi chịu khó ở tù với tau, tau sẽ dạy cho mi học, chỉ một tháng là mi đọc được sách báo:

- Thiệt anh nghe? - thằng Thúi ghé sát mặt Lượm, hỏi lại, giọng hồi hộp.

Lượm làm giọng giận:

- Từ giờ trở đi mi không được hỏi tau câu đó nữa nghe? Cái chi cũng thiệt à anh? Tau nói là tau làm. Bể đẩu bể trán tau cũng làm.

- Nhưng ở tù không có giấy bút chi hết, làm răng mà học được?

- Thì lấy que viết xuống đất, lấy gạch non viết xuống nền xi măng mà học, chứ lo chi mi?

Giọng thằng Thúi ngơ ngác:

- Lấy que viết xuống đất mà cũng học biết chữ được à anh?

- Mi chưa biết, ông Hai Chính ủy Trung đoàn của tau, trước Cách mạng ông làm nghề kéo xe tay, chữ a cũng không biết. Sau đó ông đi làm cộng sản bị Tây bắt vô tù, các đồng chí của ông lấy que viết xuống đất, dạy ông học. Đến khi ra khỏi tù ông đã học giỏi bằng người đỗ ri-me. Vô Vệ Quốc Đoàn, ông được phong làm Chính ủy Trung đoàn.

- Ui chao, ông ấy tài anh hè?

- Tài vừa vừa thôi, mi mà cứ chịu khó học thì chưa chừng lớn lên làm cấp chỉ huy cũng nên.

- Anh cứ nói chọc tui. Tui là thằng bán kẹo gừng, làm răng vô Vệ Quốc Đoàn mà làm cấp chỉ huy được?

- Mi là thằng bán kẹo gừng còn tau là thằng giữ trâu, thua chi mi? Rứa mà tau vô Vệ Quốc Đoàn được thì mi cũng vô được chớ? Mi cứ chịu khó học biết chữ, không sợ Tây, mật thám, an ninh, ra tù tau sẽ giới thiệu mi vô Vệ Quốc Đoàn. Vô ngay đội thiếu niên Trinh sát của tau là hay nhứt. Ở trong đội tau khối đứa còn cực hơn mi, làm đủ nghề, bán báo, đánh giày, bán đậu phụng rang, làm xiếc, mà thằng mô đánh Tây cũng gớm cả.

- Anh nói thiệt à anh? - Giọng thằng Thúi như reo lên, - Ui ui tui lỡ miệng, anh đừng giận tui mà tội. Ra tù anh cho tui theo anh vô Vệ Quốc Đoàn với? Đi ở bán kẹo gừng mãi cũng cực lắm anh nờ.

- Được nhất định tau sẽ giới thiệu mi vô Vệ Quốc Đoàn. Chừ thì ngủ cái đã, tau buồn ngủ ríu cả mắt…

Chỉ phút sau, hai đứa đã ôm nhau, dựa lưng vào tường ngủ ngồi, ú ớ nói mê…

Chú thích:

(1) Cờ của chính quyền nguỵ ngày đó.

3

- Dậy! Dậy! Con mạ bay! Chừ mà còn ôm nhau ngủ à?

Tiếp câu chửi là mũi giày đế thúc vào lưng hai đứa.

Lượm và Thúi đang ngủ say như chết, bật lên kêu “Ui! úi!" chồm ngay dậy, ngơ ngác, sợ hãi.

Trước mắt chúng, đứng chắn trước cửa xà lim mở rộng ìà tên lính ngục, một tay xách súng, tay kia thì bịt mũi. Hai đứa chỉ nhìn thấy mặt hắn lờ mờ, vì bên ngoài tuy trời đã sáng nhưng trong này vẫn còn nhập nhoạng tối. Phía sau thằng lính có một người tay xách cái rổ. Người này nhặt hai vắt cơm trong rổ ném vào trước mặt hai đứa, rồi lấy chân đá qua chân tên lính hai cái thùng sắt tây hoen rỉ.

Tên lính nạt nộ - “Hình như tụi này đã cất tiếng nói là phải nạt nộ, như người ta đi ỉa là phải rặn" - một ý so sánh kỳ quặc vụt lướt qua trong óc Lượm làm nó suýt phì cười.

- Con mạ bay, cơm đó, ăn đi. Đái ỉa thì đái vô cái thùng ni. - Hắn đá mũi giày vào một cái thùng lớn, - thùng ni thì đựng nước uống, - hắn đá vào cái thùng nhỏ hơn. Hai đứa chưa kịp nói gì thì cửa xà lim đã đóng ập, cài chốt lách cách.

Lúc này hai đứa mới tỉnh ngủ hẳn, hông vẫn còn đau tức. Chúng vụt nhớ lại tất cả, và hiện đang ở đâu. Lượm cúi nhặt hai vắt cơm nằm lăn lóc cạnh cái thùng đi ỉa, dính đầy đất và dâm dấm ướt. Nó nhăn mặt, ghê tởm, nói:

- Cơm nước ni thì làm răng nuốt nổi! Mất công chi mà hắn không cầm đưa cho mình được lại đem vứt xuống đất như vứt cho chó.

Lúc này hai đứa mới để ý phía sân tù sát cửa ra vào có tiếng ồn ào, huyên náo như vỡ chợ. Tiếng gọi, tiếng kêu, tiếng roi quất, quát tháo, chửi mắng, tiếng ô tô rú máy, tiếng chân chạy rầm rập. Chắc ngoài đó phải có đến hàng nghìn người đang kêu la, đi lại, chen chúc mới ồn ào đến như vậy. Chừng nửa giờ sau, tiếng ồn ào, huyên náo dịu bớt rồi tắt hẳn. Nhà lao trở nên im ắng lạ thường, như chợ đã tan.

Thằng Thúi cẩm một vắt cơm đưa lên mũi ngửi. Nó khạc nhổ, nói:

- Có mùi chi thúi thúi, chắc dính phải cứt hay nước đái anh ạ.

Từ chiều qua chưa có hột cơm nào trong bụng, thêm bị đòn, bị mưa xối ướt lạnh thấu ruột, mà hai đứa không tài chi nuốt nổi vắt cơm. Cứ đưa lên miệng là muốn mửa. Nhưng đến quá trưa, hai đứa đói quá, đành lấy móng tay bóc lớp cơm dính bẩn bên ngoài rồi bẻ từng miếng nhỏ bỏ vô miệng, nhai trệu trạo vài cái nuốt chửng. Thằng Thúi vừa nuốt cơm vừa thút thít khóc.

Trong xà lim, giữa ban ngày, vẫn tối mờ mờ như trước giờ chạng vạng. Cái cửa tò vò ở trên cao, lại nhỏ quá, ánh sáng lọt qua không đủ soi sáng cái khoảng rộng chưa đầy ba mét vuông.

Lượm nhìn thằng Thúi trần truồng còm nhom như con nhái bén, ngồi thu lu ở góc xà lim, tay cầm vắt cơm ăn dở, vừa trệu trạo nhai, vừa nước mắt giọt ngắn giọt dài, tự nhiên thấy ngực đau nhói, thương nó quá chừng.

- Khổ thân hắn! - Lượm nghĩ bụng. - Chẳng thà đi Vệ Quốc Đoàn như mình, bị Tây bắt, bị nhốt xà lim cũng đáng. Còn hắn chẳng có tội tình chi, từ nhỏ đến lớn, ngày mô cũng phải rạc cẳng, khô hơi, lo bán cho hết rá kẹo gừng. Tối về nhà thì lo nằm sấp xuống đất mà ăn roi mụ chủ lò kẹo… Rứa mà tự dưng cũng bị bắt, cũng tra tấn, nhốt xà lim. Tội nghiệp cho hắn thiệt! - Nỗi thương xót lại trào lên trong lòng Lượm, tự nhiên nó cũng rơm rớm nước mắt. Nó nói:

- Thôi mi đừng khóc nữa. Mi chịu khó ở tù thêm ít lâu. Mai mốt tụi An ninh có gọi tau lên lấy khẩu cung, tau sẽ cố xin tụi hắn thả mi ra. Tau nói: Các ông bắt oan hắn. Các ông điều tra kỹ, nếu hắn đúng là Tư-dát thì các ông cứ việc chặt đầu tui.

Đang khóc, thằng Thúi vội lấy cánh tay quẹt nước mắt:

- Đừng, đừng? Tui lạy anh! - Hắn nói giọng gần như thì thầm. - Chẳng thà tui cứ ở tù với anh ri còn hơn. May ra, sau ni anh đưa tui đi Vệ Quốc Đoàn… Chừ mà tui có được thả ra, mụ chủ thấy rá rổ bán kẹo mất hết, lại thâm vô tiền vốn, thì mụ tước xác tui ra anh nờ.

Nhắc đến tiền, nó bỗng hớt hải vứt nắm cơm xuống đất, chộp lấy cái áo sơ mi ngắn tay ướt mèm, tay run run sờ cổ áo.

Nó mừng rỡ, nói như reo:

- May quá! Tiền vẫn còn nguyên?

Lượm ngạc nhiên, cũng sờ vào cổ áo nó. Cổ áo cồm cộm, té ra số tiền bán kẹo được, nó gấp nhỏ lại đút giấu vào bên trong cổ áo từ bao giờ. Lượm gật đẩu khen:

- Mi khôn thiệt - Mi mà được đi làm trinh sát liên lạc chắc mau giỏi lắm. Nhưng… Áo ướt mèm ri thì tiền bên trong nát hết.

- Không sợ, tiền giấy dai lắm. Có lỡ quên đem áo giặt cũng không việc chi. Áo khô thì tiền cũng khô thôi. - Nó mặc luôn cái áo ướt vào người. - Mặc vô ri có hơi người áo mau khô hơn.

Hai đứa lại ngồi lưng dựa tường xà lim, lắng nghe động tĩnh bên ngoài. Nhà lao rất im ắng. Hình như bao nhiêu tù người ta đưa đi đâu hết. Suốt ngày, thỉnh thoảng mới nghe có tiếng quát tháo cái gì đó, mà người quát tháo đứng rất cao, đâu như trên nóc nhà. Tiếng quy-lát súng xáo lách cách, cũng từ trên rất cao. Hai đứa đoán là bọn lính ngục đang đi lại tuần tiễu trên nóc lớp tường thứ hai. Lạ nhất là phía bên trong sân lao có nhiều tiếng con nít. Chúng chửi nhau, la ré, khóc thét, lại cả tiếng cười reo.

Lượm nói:

- Té ra trong ni cung loạn tù con nít như mi với tau. Rứa là tau với mi không lo vô đây không có bạn.

Khoảng năm giờ chiều, bên ngoài, tiếng ồn ào huyên náo lại bùng lên như buổi sáng. Nghe tiếng chân đi lại rậm rịch, hai đứa đoán là sân lao phải chật ních những người. Hai đứa đoán tù được đưa đi đâu đó, bây giờ đưa về, vì nghe rất nhiều tiếng ô tô gẩm rú bên ngoài cửa lao. Đêm xuống, nhà lao im ắng như bị vùi chôn rất sâu trong bóng tối. Thỉnh thoảng có tiếng súng nổ xé tai, tiếng đạn rít qua mái nhà.

Hai đứa bị giam trong xà lim năm ngày, năm đêm. Chân hai đứa là chân chạy, bị tù túng trong vòng ba mét vuông, chúng khổ sở đến muốn phát điên. Để khuây khỏa bớt cảnh cực khổ ghê sợ này, trong năm ngày đó, Lượm đã kể cho thằng Thúi nghe biết bao nhiêu chuyện buồn, vui mà cuộc đời chiến sĩ mới mười bốn tuổi đầu của nó đã trải qua. Nó kể về những ngày thơ ấu ở làng quê. Những trò nghịch ngợm làm cho nó bị đòn nhừ xương và một năm bị đuổi học tới ba lần; những ngày đi chăn trâu và do tình cờ mà nó được tham gia Việt Minh từ thời còn bí mật. Những ngày Tổng khởi nghĩa ở làng nó, sôi sục, tưng bừng mà vui hơn Tết. Chuyện nó trốn nhà đi Vệ Quốc Đoàn. Cuộc chiến đấu năm mươi lăm ngày đêm, từ mặt trận Huế đến mặt trận Truồi, Nong. Nó kể về đội Thiếu niên trinh sát, các bạn trong đội, những trận đánh Tây hồi hộp, mê hồn. Rồi cuộc rút lui lên chiến khu, và trở lại Huế hoạt động…

Nó kể, rồi chính nó cũng tự lấy làm ngạc nhiên. Cách mạng Tháng Tám với Vệ Quốc Đoàn sinh ra cho đời mình lắm chuyện thiệt. Nó tự nghĩ vậy. Không biết giờ trở đi còn thêm chuyện chi nữa không?

Còn thằng Thúi cứ há hốc mồm mà nghe. Lúc nó run lên vì lo sợ hồi hộp, lúc nó bật cười khúc khích. Chốc chốc nó lại xuýt xoa: “Đời anh sướng thiệt!“. Có lần, đang giữa câu chuyện, nó bật một câu nhận xết làm Lượm nở cả ruột gan:

- Ui chao! Chuyện của anh còn hay hơn cả chuyện đời xưa?

4

Buổi sáng ngày thứ năm, khoảng mười giờ, tụi lính ngục mở cửa xà lim thả hai đứa ra ngoài cùng với hai chục người khác, đưa từ Ty An ninh sang. Ra xà lim họ sẽ được sang ở chung với những người tù khác trong hai ngôi nhà dài ở bên kia sân lao, được gọi là ba-ti-măng một, và ba-ti-măng hai. Bọn gỉặc cần lấy xà lim để giam một toán tù mới, do xe ô tô bịt bùng của Sở Phòng nhì Pháp vừa chở đến. Những người tù mới này tay đều bị còng và chân bị xích. Nghe nói họ đều là loại Việt Minh nguy hiểm nhất. Một số đã lãnh án tử hình, án khổ sai chung thân, chúng đưa họ đến lao Thừa Phủ tạm giam để chờ ngày đưa đi bắn, hoặc đầy ra Côn Đảo, Phú Quốc. Ra khỏi xà lim, Lượm dắt tay thằng Thúi chạy đến nhập bọn với toán tù đang đứng chực lố nhố gần cánh cổng sát lớp tường thứ hai, đón nhìn toán tù mới.

Khi nhìn toán tù khoảng ba chục người - tay bị còng chắp trước bụng, chân bị xích, lê từng bước ngắn giữa hai hàng lính Tây Lê Dương mũ đỏ, súng cắm lưỡi lê sáng quắc, tất cả đều sởn gai ốc, rùng mình. Không một người nào mặt mũi còn nguyên lành. Tưởng đâu như trước khi đưa đến đây, người nào cũng bị bọn Tây, kê mặt họ lên đòn kê rồi dùng sống dao, sống rựa mà dần cho dập nát.

Lượm chú ý đến một người tù đi gần cuối hàng, cao vượt hơn người đi trước một cái đầu. Người này chắc đã bị tra tấn ghê gớm lắm. Mặt tím bầm như quả bồ quân, hai môi sưng vều khóe môi đọng hai vệt máu đen thẫm, một mắt bị đánh gần như lồi ra ngoài.

Nhìn người tù đi đến gần, mắt nó mở to kinh hoàng. Nó dụi mắt lia lịa, gần như không còn tin vào mắt mình nữa: “Có lẽ nào!“. Nó vội đưa tay ìên bịt miệng để khỏi bật tiếng kêu đau đớn, sợ hãi: “Trời ơi, ông Phùng Đông, Chỉ huy trưởng mặt trận khu C. Hay là mình ngó lầm? Không, lầm răng được! Tuy mặt ông bị biến dạng như vậy, nhưng dáng người cao gầy, cái cằm vuông có cạnh như đẽo, bước đi đĩnh đạc quen thuộc, và nhất là con mắt sâu hoắm của ông, thì không thể nào lầm được!“.

Khi ông bước ngang trước mặt nó, nó không còn kìm nén được buột miệng khẽ kêu:

- Chỉ huy trưởng! Anh!…

Người tù ngoảnh sang, nhìn nó rất nhanh. Tia mắt ông chạm phải tia nhìn của Lượm, làm nó bất giác muốn ngất xỉu vì buốt xé tận ruột gan.

- Đúng là Chỉ huy trưởng thật rồi? Ông đã nhìn mình. – Nó thoáng nghĩ - “Chắc ông chẳng nhận được ra mình là ai, nhưng cũng đoán được mình là chiến sĩ của ông“.

Đầu ông khẽ gật với nó, và cặp môi dập nát như hơi mỉm cười.

Thằng lính áp giải sừng sộ bước lại. Cái lưỡi lê sáng quắc trong tay hắn như muốn xóc vào bụng Lượm. Thằng Thúi sợ hãi, cầm tay Lượm kéo lùi về phía sau những người tù lớn tuổi.

Đoàn tù bị dồn vào dãy hành lang tranh tối tranh sáng giữa xà lim. Nhiều tiếng cảnh cửa rít mở và sập đóng rầm rầm. Quên hết sợ hãi, Lượm giật phắt khỏi tay thằng Thúi, chen lách qua những người lớn tuổi, chạy bổ nhào theo đoàn tù. Nó muốn dò xem Chỉ huy trưởng bị giam ở xà lim số mấy. Nhưng trước cửa lối vào hành lang, hai tên lính cầm súng cắm lưỡi lê đứng chắn không cho ai mon men lại gần.

Thằng Thúi chạy lại, cầm chặt cổ tay Lượm kéo ra xa:

- Anh cứ đứng ngó vô trong đó hoài, lỡ tụi hắn sinh nghi, xọc cho phát lưỡi lê thì răng?

Hai chân Lượm bủn rủn. Lượm ngồi phệch xuống gốc cây cơm nguội xơ xác góc sân lao. Miệng nó bỗng mếu xệch, nước mắt ứa ra. Thằng Thúi sẽ sàng ngồi xuống bên cạnh, lay lay nhẹ vai Lượm hỏi:

- Người anh vừa kêu là ai rứa? Bà con với anh à?

- Ui chao! - Lượm nghẹn ngào. - Người nớ là Chỉ huy trưởng mặt trận khu C đó mi nờ. Ông ấy đánh Tây lừng tiếng cả mặt trận Huế… Làm răng mà ông ấy lại để cho tụi hắn bắt được rứa không biết?… - Nói đến đó miệng nó càng mếu xệu.

Lượm có thể hình dung đủ mọi điều khủng khiếp, nhưng riêng cái việc chỉ huy trưởng mà cũng bị bắt, bị tra tấn, bị tụi đẩu trâu mặt ngựa chửi mắng như đã chửi nó, thì nó không thể nào tưởng tượng nổi. Tuổi nhỏ thường có khuynh hướng thần thánh hóa những nhân vật chúng yêu kính, tôn sùng. Trong đầu Lượm những người Chỉ huy trưởng thì bọn giặc không thể đụng tới cái lông chân. Chứ đừng nói là bị giặc bắt, tra tấn, chửi mắng. Đối với các em, những con người đó đứng vào hàng bất tử.

Ngồi một lúc khá lâu, nó vẫn còn thấy bàng hoàng, choáng váng như bất ngờ bước hụt chân, ngã nhào đầu xuống hố sâu. Những giây phút này, ngoài nỗi đau đớn thương xót đồng đội, cấp chỉ huy, trong lòng người chiến sĩ mười bốn tuổi này có một cái gì nghiêm trọng hơn, to lớn hơn đang bị tổn thương nặng nề. Đó là niềm tin vào thắng lợi chắc chắn của cuộc kháng chiến mà nó rất kiêu hãnh và vui sướng vì được dự phần. Chính sự kiêu hãnh đó đã nâng đỡ Lượm đơn độc mà vẫn đứng vững trong những tình huống gian truân, hiểm nghèo vừa trải qua. Nhưng niềm tin của các chiến sĩ. nhỏ tuổi bao giờ cũng được gắn liền với những nhân vật cụ thể. Các em coi họ là đại diện cho sức mạnh của kháng chiến. Đó là Trung đoàn trưởng, Chính ủy trung đoàn, Chỉ huy trưởng mặt trận… Hồi còn mặt trận Huế, khi nghe tin khẩu đại bác bảy lăm ly - mà cả trung đoàn gọi “ông già bảy lăm" - đặt ở cột cờ, bị giặc phản pháo, vỡ mất đầu nòng, tất cả các chú bé liên lạc của trung đoàn đều khóc. “Tụi hắn khóc như cha chết rứa" như lời các anh lớn tuổi nói với nhau. Các em khóc vì lo sợ thay cho kháng chiến. Với các em, “ông già bảy lăm" cũng là một trong những nhân vật đại diện cho sức mạnh kháng chiến của quê hương.

Nước mắt chảy giọt ngắn giọt dài trên hai gò má Lượm cũng chẳng buồn đưa tay chùi quệt. Nó nói, mắt đăm đăm nhìn về phía hai cánh cửa gỗ niềng sắt lối vào hành lang xà lim, lúc này đã đóng chặt.

- Không biết ông đi mô một mình mà để cho tụi hắn bắt rứa không biết? Ông mà đi với cả đơn vị thì tài chi tụi hắn bắt được!

Lúc này Lượm vụt nhớ một chi tiết mà từ nãy tới giờ nó quên phứt: Chỉ huy trưởng không mặc quân phục. Ông mặc một bộ bà ba vải nâu, dầm dập. Nếu không biết mặt thì ai cũng tưởng ông là người miệt quê đi mua trâu, bò.“Ông đã cải trang như rứa mà vẫn bị bắt thì chắc phải có đứa biết mặt ông, chỉ điểm cho Tây. Đứa mô? Nhất định mình phải tìm cách hỏi ông cho ra“.

Như người mất hồn, nó đứng bật dậy, cầm tay thằng Thúi kéo đi vòng quanh dãy xà lim mấy vòng liền. Mắt nó ghếch nhìn lên những khuôn cửa vuông nhỏ xíu có chấn song sắt. Nó hy vọng có thể bất chợt thấy gương mặt dập nát của Chỉ huy trưởng hiện ra sau khuôn cửa.

5

Mải ghếch nhìn cửa tò vò xà lim, Lượm không chú ý trong đó một toán tù con nít khá đông chăm chú nhìn theo hai đứa. Bọn này cũng trạc tuổi Lượm và Thúi, hai ba đứa lớn nhích hơn một chút. Chúng ngồi túm tụm trên cái thành bể xi măng dài hư nát. Trước kia là chỗ lấy nước cho tù nhân uống, rửa mặt, còn sót lại một hai cái vòi hoen rỉ.

Cả bọn, chỉ mấy đứa áo quần còn lành lặn, số còn lại rách như tổ đỉa. Có đứa trên người không phải áo quần mà những tấm giẻ rách treo lủng lẳng, lấm lem, hôi hám. Tay chân, mặt mũi đứa nào cũng đầy ghét, bùn khô bám từng mảng, như đàn trâu vừa đầm dưới bùn lên. Nhiều đứa hai chân loang lổ hắc lào, sần sùi những mụn ghẻ hờm. Có lẽ chúng đã mấy tháng trời không được tắm rửa.

Ngoài toán này, còn khoảng vài chục đứa khác rải rác đi quanh lao. Đứa ngồi dựa tường cởi áo bắt rận, đứa nằm dài trên đất ngủ dưới bóng cây cơm nguội, một tay co gối đầu, đứa lội trong đám cỏ xác xơ cuối sân lao tìm kiếm cái gì đó. Có vài đứa đang túm tụm chơi đáo bằng những mảnh ngói mái tròn hình đồng xu. Đứa nào cũng bẩn thỉu, gày gò, nước da xanh rớt

Đứa lớn nhất tù con nít ngồi trên thành bể là một thằng trạc mười sáu tuổi, đầu tóc bù rối như tổ quạ phủ kín gáy, miện rộng ngoác, cặp môi dày mà loe, mũi hếch, cặp mắt ốc nhồi trâng tráo, hỗn xược. Thái dương hắn có cái sẹo to bằng hòn cái đánh đáo nhẵn bóng. Hắn mặc áo pạc-ti-dăng rộng thùng thình đen như nhúng bùn, mở phanh ngực, và cái quần đùi hai ống vo tròn đến bẹn. Chính giữa ngực xăm một quả tim có con dao thọc xuyên qua. Sức vóc nó khá lực lưỡng so với cái tuổi mười sáu của nó. Hắn ngậm lệch về bên mép điếu thuốc lá quấn bằng giấy báo. Hút mấy hơi hắn lại rít nhổ nước bọt qua kẽ răng và nhổ khá xa.

Nó ngồi tréo may chính giữa, mấy đứa kia xúm xung quanh, như vị chúa tể giữa đám quân hầu. Đứa nào đối với nó cũng có vẻ khúm núm, sợ sệt, nịnh nọt. Tất cả đều gọi nó là anh xưng em ngọt sớt, có đứa còn gọi nó là “đại ca", “Đại ca Lép-sẹo". Nghe đàn em nói vậy hắn ngoác miệng cười.

Thằng Thúi từ nãy tới giờ đi theo Lượm nhưng mắt vẫn lấm lét nhìn về phía bọn này. Với linh cảm của đứa trẻ yếu ớt hay bị những đứa trẻ khoẻ hơn ăn hiếp, đánh đập, tự nhiên nó thấy sợ. Mấy lần nó khẽ giật tay Lượm ra hiệu “anh nì…" nhưng Lượm còn mải ghếch mắt nhìn các khuôn cửa xà lim nên không để ý.

Lép-sẹo hất hàm về phía Lượm và Thúi hỏi bọn đàn em:

- Hai thằng tê vô đây khi ni mà tau không biết hè?

- Tụi hắn bị giải vô đây từ chiều cái hôm trời mưa to ấy. Hôm ấy đại ca đang ngồi đánh bài cạc-tê trong ba-ti-măng - Một thằng đôi mắt có cục thịt thừa đáp

- Tụi hắn bị giam trong xà lim đến bữa ni mới được thả ra?

- Bị bắt vì tội chi?

- Chắc cũng là “cánh chạy" anh em ta - Một thằng cởi trần trùng trục đen như con chấy đáp

Một thằng mặt mỏng thổi bay lắc lắc đầu nói:

- Tụi chạy ở các chợ Đông Ba, Bến Ngự, An Cựu… tui quen mặt hết. Chắc hai thằng ni là dân “chạy nhép" ở các chợ xép - Một thằng áo quần lành lặn nói

- Nhưng mặt mũi hai thằng ni ngó bộ không phải dân ba de móc túi mô…

Lép-sẹo vụt khạc nhổ cái tàn thuốc ra xa, quay sang thằng này trợn mắt hỏi:

- Dân ba de móc túi thì mặt mũi như răng? Xấu lắm à? Mi muỗn xỏ xiên ông nội mi hả?

Hắn đưa tay đánh một tát tai để nhấn mạnh thêm câu hỏi vặn. Thằng bé bị tát này ngã nhào từ trên thành bể xuống đất. Nó lóp ngóp đứng dậy. Năm ngón tay của Lép-sẹo còn in hằn đỏ trên má. Nó phủi đất trên mặt, không dám khóc, ấp úng nói:

- Không… không… tại tôi thấy mặt mũi của hai thằng dại dại, đần đần…

Thằng đuôi mắt có ve nói:

- Chắc hai thằng là liên lạc Việt Minh như mấy thằng đang đánh đáo đằng tê…

- Là liên lạc Việt Minh hay là ông trời tau cũng bắt hai thằng ni phải lạy từ dưới dái tau lạy lên! Lép-sẹo ngồi xổm thành bể chĩa miệng về phía Lượm, Thúi gọi to:

- Ê! Ê! Hai thằng tê, đến đây mệ nhờ chút việc! Lượm đứng sững lại nhìn nó, nó lại ngoắc tay, miệng chặc! chặc! chặc kiểu như gọi chó. Bọn đàn em thích thú cười rân.

Lượm cau mặt. Nó ngần ngừ một chút, bỏ tay thằng Thúi ra, bước thẳng đến. Thằng Thúi vội vàng bước theo, nép sát bên Lượm, mặt tái đi vì sợ.

Khi Lượm còn cách chừng năm bước, Lép-sẹo chỉ cái tàn thuốc vừa vứt đi, bắt chước giọng “các mệ" nói:

- Mi lượm các tàn thuốc giúp mệ rồi cho mệ một xu mà ăn cà-rem! - Nó khuỳnh tay mở rộng hai vạt áo ra như muốn khoe quả tim có con dao găm xuyên qua, xăm trên bộ ngực cáu đen những ghét.

Lượm nhìn Lép-sẹo rồi nhìn cả bọn đang cười ngả nghiêng. ngặt nghẽo. Nó lấy làm lạ tự hỏi: “Cùng bạn tù với nhau mà mình cũng chưa hề quen biết, răng tụi hắn lại gây chuyện với mình?"

Thấy chúng đông nên tuy trong bụng đã sôi lắm, vẫn cố nén, nói giọng khá bình tĩnh:

- Đằng nớ không què cũng không cụt! Thích hút thì tự đi lấy mà hút! Còn tiền ăn cà-rem thì đây không thiếu mô

- Nhưng tính mệ khác, mệ thích sai mi lượm cho mệ hút tê!… Giọng Lép-sẹo dài ra, Lượm thầm công nhận thằng ni bắt chước giọng “các mệ" không chê được.

Thằng Thúi run rẩy, níu chặt khuỷu tay Lượm. Nó vội vàng kéo mạnh tay Lượm đi về phía khác, nói:

- Tôi với anh đi vô trong nớ tìm chỗ tối ni mà ngủ… - Nó chỉ tay vào dãy nhà dài bên trái có hai cánh cửa sắt, nửa khép nửa đóng.

Lượm cũng nghĩ vậy, cố hết sức nuốt cục giận đi theo thằng Thúi.

Thế là cả bọn ê ê theo ầm ĩ. Lép-sẹo đứng thẳng lên thành bể, ngực ưỡn, một mặt chống nạnh, một chân nhịp nhịp điệu bộ như ông tướng phường tuồng, oang oang nói:

- Tụi bay đã thấy chưa? Hắn mới chỉ ngó thấy mặt mệ đã sợ thọt dái lên cổ rồi.

Lượm bước chân lại, cặp mắt vụt đỏ kè. Cánh tay nó rung lên, hai bàn tay nắm chặt. Nó chỉ muốn nhào trở lại, xông vào giữa cả bọn mà đấm, mà đá rồi đến đâu thì đến.

Thằng Thúi lo sợ nhìn nét mặt Lượm, nó như hiểu hết những ý nghĩ trong đầu Lượm. Nó càng nắm chắc khuỷu tay Lượm hơn, cố giữ rịt và kéo Lượm bước nhanh về phía ba-ti-măng một. Nó nói nhỏ, gần như thì thầm:

- Kệ tụi hắn anh nờ… Gây lộn với tụi hắn làm chi cho nhớp tay, nhớp miệng. Cả tụi ni tui biết hết. Toàn tụi ba de móc túi ngoài chợ Đông Ba. Hồi tui đi bán kẹo gừng, ngày mô mà chẳng gặp tụi hắn… - Vừa nói thằng Thúi vừa lấm lét nhìn lại phía sau

Nét mặt Lượm càng cau có hơn:

- Cái thằng sai anh lượm tàn thuốc lá là thằng Lép-sẹo dân móc túi tài danh ở chợ Đông Ba đó. Tui gặp hắn luôn-Thúi nói-Tôi nghe mấy đứa bạn bán kẹo gừng, kẹo đậu phụng kể là hắn có tài móc túi từ ngày mới biết đi. Dây chuyền vàng người ta đeo ở cổ mà hắn lột khi mô không biết. Còn mấy cụ ở nhà quê lên lơ ngơ vô chợ thì hắn lột cả khăn đống, cả dù… hắn là trùm hết tụi con nít móc túi ở mấy chợ Đông Ba, An Cựu, Gia Hội. Đứa mô móc được cái chi ít nhiều đều phải đưa cho hắn, không chia hắn đập cho lộn mề lộn gan. Tui nghe nói hắn có võ, trong lưng lúc mô cũng có dao… Hắn đã đâm chết hai thằng to xác hơn, rồi cột đá vứt xuống sông… Dễ sợ lắm anh nờ, không biết tại răng hắn vô tù.

Lượm nói, giọng sa sầm:

- Rồi trước sau chi tau cũng phải choảng nhau với hắn thôi. Hắn còn đeo theo tau mà gây lộn chứ chưa chịu thôi mô…

Thúi nói gần như van vỉ:

- Nhịn hắn đi là hơn, anh ạ. Tụi hắn đông, anh em mình nhịn nhau răng lại? Anh cứ nghe tui, cho tụi hắn chửi, mình cứ giả đò điếc, coi như không nghe thấy chi hết là xong…

Lượm bỗng đứng phắt dậy, giật mạnh tay ra khỏi bàn tay gầy guộc của Thúi. Nó nhìn Thúi với ánh mắt dữ tợn, nổi khùng, làm Thúi phải sợ hãi bước lùi lại một bước, Thúi tưởng Lượm sắp đánh nó:

- Chết thì thôi chứ tau lại giả đò điếc để cho mấy thằng ba de móc túi chửi à? - Lượm nói như quát - Mi quên tau là Vệ Quốc Đoàn à?

______________________

6

Bước lên năm bậc thềm bằng bê-tông trét đầy bùn đất, Lượm và Thúi đi vào hành lang ngăn đôi ngôi nhà xây bằng đá, có hai cánh cửa sắt nửa đóng nửa mở. Mỗi bên lại có một cánh cửa sắt, mở vào một gian nhà dài hun hút, được gọi là ba-ti-măng một và hai - Lượm và Thúi tiện chân đi vào ba-ti-măng một - mùi thối đến nôn mửa xộc vào mũi làm hai đứa phải đứng chững lại ở ngưỡng cửa, đưa tay bịt mũi. Hai đứa trố mắt nhìn quang cảnh bày ra trước mắt và bất giác rùng mình. Cuộc sống năm ngày xà lim chưa đủ làm hai đứa quên đi cảnh tượng dơ bẩn đến nôn oẹ trong ba-ti-măng. Ba-ti-măng giống hệt một cái chuồng nhốt thú dữ. Tường xây bằng đá, chiều cao rộng chừng năm mét, chiều dài đến hai chục mét, nền xi măng lở loét, trống trơn, in chin chít những dấu chân lấm bùn. Hai bờ tường gần sát nền, mồ hôi người dính đen kịt như bồ hóng. Cuối ba-ti-măng là một dãy hố xí, liền ngay với nền nhà, vốn l
Tác giả : Phùng quán
5/5 của 1 đánh giá

Bình luận

Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi
Nguyen 2 năm trước
Đã ra chap mới rồi nhé mọi người, link đây nha: bit.ly/newchap247

Truyện cùng thể loại