Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm
Chương 18
--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------
Khi họ bước vào nhà, Ma-hơ-đi đang nằm trên một chiếc đi văng mềm giữa đám vợ của y, trong số đó hai người đang phe phẩy những chiếc quạt lông đà điểu to tướng để quạt cho y, còn hai người khác đang khe khẽ gãi gãi gan bàn chân y. Ngoài đám vợ y, chỉ có mặt thêm hai viên thống lĩnh là Áp-đu-la-hi và Sê-rip, vì vị thống lĩnh thứ ba là A-li U-led He-lu đang dẫn quân lên phía Bắc, đến xứ Béc-be-rơ và A-bu Ham-mét, những xứ sở trước đó đã bị quân khởi nghĩa chiếm được. Nhìn thấy những người vào, tiên tri đẩy đám vợ ra, ngồi dậy trên đi văng. I-đrix, Ghe-bơ-rơ và hai tên Bê-đu-in rạp mặt xuống đất, rồi tiếp đó cứ quỳ mọp, hai tay bắt chéo trước ngực. Ông lão Hy Lạp gật đầu với Xtas ra hiệu cho em cũng làm như thế, nhưng cậu bé giả vờ không thấy, chỉ hơi khom mình và rồi vẫn đứng thẳng người. Mặt em tái đi, nhưng mắt sáng long lanh, từ toàn bộ dáng người, từ cái ngẩng cao kiên nghị và từ đôi môi mím chặt dễ dàng nhận thấy rằng trong người em đã có một cái gì đó vượt cao lên, rằng sự do dự và lo sợ đã qua đi rồi, rằng em đã có một quyết định không khoan nhượng, không gì trên đời này có thể khiến em thay đổi quyết định đó nữa. Rõ ràng ông lão người Hy Lạp cũng nhận thấy điều đó, vì trên nét mặt ông hiện ra một nỗi lo lắng rõ rệt. Ma-hơ-đi nhìn lướt qua hai đứa bé, khuôn mặt béo nứt ánh lên nét cười thường có, rồi quay sang phía I-đrix và Ghe-bơ-rơ.
- Các người từ phương Bắc xa xôi tới đây? - Y nói. I-đrix đập trán xuống đất.
- Bẩm vâng, thưa Ma-hơ-đi. Chúng con thuộc về bộ tộc Đan-gan, nên chúng con đã rời bỏ nhà cửa ở Phai-um để được đến quỳ dưới gót chân đầy ân phước của Người.
- Ta đã trông thấy các người đi trong sa mạc. Con đường ấy thật là khủng khiếp, nhưng ta đã phái một thiên sứ tới để cảnh giới cho các người và bảo vệ cho các người tránh khỏi cái chết từ tay những kẻ vô đạo. Các người không nhìn thấy thiên sứ đâu, nhưng chính thiên sứ đã che chở cho các người đó.
- Xin đa tạ Người, thưa Người - chuộc - tội.
- Và các người đã mang tới cho Xmai-nơ những đứa trẻ này để ông ta đổi lấy bọn trẻ con của ông ta, những đứa trẻ mà bọn Thổ đang giam giữ cùng cô Phát-ma ở Port Xai-đơ?
- Chúng con chỉ muốn được phụng sự Người thôi.
- Ai phụng sự ta cũng là phụng sự cho sự cứu rỗi của chính mình, nghĩa là các ngươi đã tự mở đường lên thiên đường đấy.
Phát-ma là người có họ với ta... Nhưng ta bảo thật cho các ngươi rõ, khi nào ta chiếm được toàn bộ Ai Cập, thì khi đó cô ta cùng với con cái của cô ta cũng sẽ được tự do thôi mà.
- Vậy xin Người hãy xử với bọn trẻ này theo ý người, thưa Đấng được ban phước thánh...
Ma-hơ-đi khép hai mi mắt lại, sau đó lại mở ra, mỉm cười thân thiện và gật đầu ra hiệu cho Xtas.
- Hãy lại gần đây, cháu bé.
Xtas tiến lên vài bước đầy cương nghị, như những bước đi đều của một người lính, cúi chào lần thứ hai, rồi bật thẳng dậy như một sợi dây đàn và nhìn thẳng vào mắt Ma-hơ-đi chờ đợi.
- Các cháu có sung sướng là đã được đến với ta chăng? - Ma-hơ-đi hỏi.
- Không, thưa tiên tri. Chúng tôi đã bị bắt cóc khỏi tay cha chúng tôi, dù hoàn toàn không muốn chút nào.
Lời đáp thẳng thắn này đã gây ấn tượng, cả cho viên thủ lĩnh vốn quen với sự nịnh nọt, lẫn cho những người có mặt tại đấy.
Thống lĩnh Áp-đu-la-hi nhíu mày. Ông lão Hy Lạp nhay nhay ria mép và bắt đầu bẻ đốt ngón tay, riêng Ma-hơ-đi vẫn không thôi cười mỉm.
- Thế nhưng, - y nói, - các cháu đang được ở nơi ngọn nguồn chân lí. Cháu có muốn uống nước từ ngọn nguồn ấy chăng?
Một giây im lặng, Ma-hơ-đi cho rằng cậu bé không hiểu câu hỏi bèn lặp lại rõ ràng hơn:
- Cháu có muốn tiếp thu khoa học của ta chăng?
Nghe thấy thế, cánh tay Xtas đang đặt trước ngực chợt phác lên một dấu thánh như một người từ trên một con tàu đắm sắp sửa nhảy xuống nước vậy.
- Thưa tiên tri, - em đáp, - tôi không biết thứ khoa học của Người, nên nếu tôi có thừa nhận nó thì chẳng qua cũng chỉ là sợ hãi, như một thằng hèn, như một người tồi tệ mà thôi. Liệu Người có muốn những kẻ hèn nhát và đểu cáng thu nhận học thuyết của Người?
Trong khi nó i thế, em vẫn nhìn thẳng vào mắt Ma-hơ-đi. Im lặng đến nỗi nghe rõ tiếng vo ve của đàn ruồi. Đồng thời cũng diễn ra một việc khác thường. Đó là việc Ma-hơ-đi bối rối và không tìm được ngay câu trả lời. Nụ cười biến mất trên khuôn mặt đang lộ rõ vẻ lúng túng và khó chịu. Y đưa tay với lấy quả bầu đựng nước pha mật để uống nhưng rõ ràng chỉ là để có thêm thời gian và che giấu bớt sự bối rối của mình.
Còn cậu bé dũng cảm thuộc dòng dõi những người từng bảo vệ đạo Thiên chúa, giọt máu trung thành của những người chiến thắng ở Khốc-him và thành Viên(1) thì cứ đứng nguyên đấy với cái đầu ngẩng cao chờ lời tuyên án. Gò má gầy gò bị rám bởi những cơn lốc cát sa mạc dậy lên màu hồng, mắt sáng long lanh, toàn thân run lên những cơn rùng mình nhiệt thành. “Đó - em nhủ thầm - dù những người khác có thừa nhận học thuyết của y, nhưng ta, ta sẽ không chịu từ bỏ lòng tin và linh hồn". Và nỗi lo sợ vì những điều có thể và sẽ phải nổ ra giờ đây ẩn sâu vào tim em, chỉ có niềm sung sướng và tự hào tràn ngập trong lòng.
Ma-hơ-đi đặt quả bầu xuống và hỏi:
- Nghĩa là người từ chối học thuyết của ta?
- Tôi là tín đồ Thiên Chúa như cha tôi... - Kẻ nào bịt tai không nghe tiếng nói của Thượng đế, - Ma-hơ-đi nói thong thả bằng giọng nói khác hẳn đi, - kẻ đó chỉ là củi đốt mà thôi.
Nghe thấy thế, thống lĩnh Áp-đu-la-hi, kẻ nổi tiếng vì sự dã man và hà khắc, liền nhe bộ răng trắng nhởn như một con thú dữ, cất tiếng:
- Lời nói của thằng bé này thật là ngỗ ngược, xin Người hãy trừng phạt nó, hoặc hãy cho phép tôi được trị tội.
“Bắt đầu rồi đây!" - Xtas nghĩ thầm.
Song Ma-hơ-đi vốn lúc nào cũng muốn cho niềm vinh quang về lòng từ tâm của y được truyền tụng không những chỉ trong số các tín đồ đạo Hồi mà lan ra toàn thế giới, nên y nghĩ rằng, một hình phạt quá hà khắc đối với một đứa trẻ có thể sẽ làm tổn hại đến thanh danh y.
Y lần tràng hạt một hồi lâu và suy nghĩ, rồi nói:
- Không! Những đứa trẻ này bị bắt để mang tới cho Xmai-nơ, nên mặc dù ta không bao giờ thương lượng gì với bọn vô đạo, cần phải gửi chúng tới chỗ Xmai-nơ. Đó là ý muốn của ta.
- Sẽ làm theo ý muốn của Người! - Viên thống lĩnh đáp.
Ma-hơ-đi trở tay chỉ I-đrix, Ghe-bơ-rơ và bọn Bê-đu-in.
- Hỡi Áp-đu-la-hi, ngươi hãy nhân danh ta thưởng cho những người này vì họ đã vượt qua một quãng đường dài và nguy hiểm để phụng sự ta và Thượng đế.
Rồi y gật đầu ra hiệu rằng buổi tiếp đã kết thúc, đồng thời ra lệnh cho ông lão Hy Lạp cũng ra về luôn. Khi đã ra đến chỗ tối trên bãi cầu nguyện, ông lão liền túm lấy tay Xtas lắc lấy lắc để vì tức giận và tuyệt vọng.
- Đồ khốn nạn! Mày đã giết chết đứa trẻ vô tội này rồi! - Ông vừa nói vừa chỉ Nen. - Mày đã giết cả mày và có thể cả tao nữa đấy!
- Cháu không thể làm khác được. - Xtas đáp.
- Mày không thể! Mày hãy nhớ rằng hai đứa chúng mày sẽ bị đày ải tiếp trên một chặng đường thứ hai còn trăm lần tồi tệ hơn chặng đường vừa rồi. Đó là chết - mày hiểu chưa? Ở Pha-sô-đa, chỉ trong vòng một tuần, bệnh sốt rét sẽ giết chúng mày. Ma-hơ-đi biết rõ điều đó, vì thế ông ta gửi chúng mày tới chỗ Xmai-nơ.
- Ở Om-đu-a-man thì rồi chúng cháu cũng chết.
- Không đúng! Chúng mày sẽ không chết trong nhà Ma-hơ-đi, trong no đủ và tiện nghi đâu! Ông ta đã sẵn sàng đón nhận chúng mày vào che chở dưới cánh. Tao biết là ông ta đã sẵn sàng. Thế là mày đã trả ơn tao hậu hĩnh vì chính tao đã bệnh vực chúng mày.
Thôi, chúng mày muốn làm thế nào thì làm. Một tuần nữa Áp-đu-la-hi sẽ gửi một chuyến bưu điện bằng lạc đà đến Pha-sô-đa, trong tuần tới chúng mày muốn làm gì tuỳ thích. Chúng mày sẽ không thấy mặt ta nữa đâu!...
Nói xong ông bỏ đi ngay, nhưng chỉ lát sau ông đã quay trở lại. Như mọi người Hy Lạp khác, ông vốn lắm lời, và phải nói cho thoả. Ông lão muốn trút hết cơn giận đang bừng bừng trong người lên đầu Xtas. Ông không phải là người tàn bạo và không có một tim hung dữ, tuy vậy ông muốn cậu bé phải thấm thía hơn nữa cái trách nhiệm kinh khủng mà cậu bé buộc vào cho mình khi không chịu nghe lời khuyên cùng những lời ngăn đe của ông.
- Ai cấm mày là người Thiên Chúa trong lòng, hả?
- Ông nói. - Mày nghĩ là tao không theo đạo chăng? Nhưng tao không phải là thằng ngốc. Còn mày, mày muốn phô phang cái anh hùng rơm củ a mày kia. Từ trước tới nay tao đã giúp được cho tù binh da trắng bao nhiêu việc, còn từ giờ tao không còn có thể giúp họ được nữa, vì Ma-hơ-đi đã giận tao rồi. Tất cả sẽ chết hết! Cả cô bạn tù nhỏ bé của mày cũng vậy thôi.Chính mày đã giết chết con bé. Ở Pha-sô-đa cả đến người lớn cũng chết vì sốt rét như ruồi nữa là trẻ con. Còn nếu như chúng nó bắt bọn mày phải đi bộ theo sau ngựa và lạc đà, thì con bé sẽ gục ngay trong ngày đầu tiên.
Chính mày gây ra chuyện đó. Mày hãy vui sướng đi, cái đồ... Thiên Chúa giáo này!
Rồi ông bỏ đi, còn họ thì rẽ khỏi bãi cầu nguyện, qua những phố tối tăm, trở về lều. Họ đi rất lâu, vì thành phố trải dài trên một phạm vi khổng lồ. Mệt mỏi vì cố sức, vì đói, vì sợ và vì những ấn tượng kinh khủng suốt cả một ngày trời, chốc chốc Nen lại phải dừng chân. I-đrix và Ghe-bơ-rơ thúc cô bé đi nhanh hơn. Song chỉ một lát sau, chân cô bé hoàn toàn mềm nhũn. Xtas bèn bồng cô bé lên tay không chút ngần ngừ và mang đi. Dọc đường, em muốn nói với Nen, muốn thanh minh trước cô bé rằng em không thể hành động khác đi, nhưng những ý nghĩ cứ chết cứng lại trong đầu óc em, khiến em chỉ lặp đi lặp lại: “Nen! Nen! Nen!", và siết chặt cô bé vào mình, không thể nói được gì hơn nữa. Sau vài chục bước chân, Nen đã ngủ thiếp đi vì kiệt sức trên tay em, thế là em im lặng bước đi trong sự tĩnh mịch của những phố hẻm đang ngủ yên, sự tĩnh mịch chỉ bị gián đoạn bởi câu chuyện giữa I-đrix và Ghe-bơ-rơ.
Trong tim bọn chúng tràn ngập niềm sung sướng, đó là điều may mắn cho cả Xtas, vì nếu không bọn chúng có thể sẽ trị em về tội dám đối đáp ngỗ ngược với Ma-hơ-đi. Song chúng đang bận tâm về những điều vừa được hưởng nên không thể nghĩ chuyện gì khác.
- Trước, anh cảm thấy ốm đến nơi rồi, - I-đrix nói,-nhưng được nhìn thấy Đức tiên tri anh đã khỏi bệnh hoàn toàn.
- Người giống như cây cọ trên sa mạc, như dòng nước mát lành giữa ngày nóng nực, lời của Người giống như những quả chà là chín mọng vậy. -Ghe-bơ-rơ đáp.
- Gã Nu-rơ En Ta-thin nói dối khi bảo rằng Người không cho chúng mình vào gặp. Người đã cho vào,đã ban phước lại còn ra lệnh cho ngài Áp-đu-la-hi phải ban thưởng cho chúng ta nữa chứ.
- Ngài thống lĩnh sẽ thưởng cho chúng ta rất hậu, vì ý muốn của Ma-hơ-đi là thiêng liêng.
- Tuyệt quá! Mong sao được đúng như lời ông nói, - một trong hai tên Bê-đu-in lên tiếng.
Và Ghe-bơ-rơ bắt đầu mơ tưởng đến hàng đàn lạc đà, súc vật có sừng, hàng đàn ngựa và hàng túi hàng túi ních đầy những đồng piaxt.
Gã I-đrix chợt khiến hắn tỉnh cơn mơ màng ấy khi cất tiếng hỏi và chỉ Xtas đang bế Nen đang ngủ say:
- Ta làm gì với con ruồi trâu và ruồi nhóc này hả?
- Ha! Ngài Xmai-nơ sẽ phải thưởng riêng cho chúng ta về chúng nó đấy!
- Khi mà đấng tiên tri đã nói rằng người không cho phép bất cứ một cuộc thương thuyết đổi chác nào với bọn vô đạo, thì Xmai-nơ chẳng dính dáng gì với chúng nó nữa đâu.
- Thế thì tôi thật tiếc là chúng nó không rơi vào tay ngài thống lĩnh, hẳn ngài ấy sẽ dạy cho thằng chó con kia biết thế nào là cất tiếng sủa chống lại chân lí và con người mà Thượng đế đã lựa chọn.
- Ma-hơ-đi rất nhân từ. - I-đrix đáp.Hắn cân nhắc một lúc lâu rồi nói:
- Dù sao, khi có hai đứa trong tay, thì ngài Xmai-nơ sẽ có thể chắc chắn rằng cả bọn Thổ lẫn bọn Anh đều không thể giết con ngài và bà Phát-ma.
- Thế nghĩa là có thể ông ta sẽ thưởng công cho chúng ta?
- Phải. Cứ để cho chuyến bưu điện của ngài Áp-đu-la-hi mang chúng nó đến Pha-sô-đa. Chúng ta càng thêm nhẹ gánh. Khi nào ngài Xmai-nơ quay trở lại đây, ta sẽ nhắc ngài về chuyện tiền nong sau.
- Anh nói thế có nghĩa là chúng ta sẽ ở lại Om-đu-a-man?
- Lạy đức A-la! Mày chưa ngán quãng đường từ Phai-um tới Khác-tum hay sao? Đến lúc chúng ta phải nghỉ ngơi rồi.
Đám lều trại không còn xa nữa. Tuy nhiên, Xtas cũng đã phải chậm bước chân, vì sức em cũng đã bắt đầu kiệt. Mặc dù Nen vốn nhẹ, nhưng mỗi lúc một thêm nặng trên tay em. Bọn Xu-đan, muốn nhanh được ngủ, bèn quát mắng em và bắt đầu đấm vào đầu em. Thậm chí gã Ghe-bơ-rơ còn dùng dao thích vào bả vai em đau điếng. Cậu bé chịu đựng tất cả những cái đó trong im lặng, chỉ cố tìm cách che cho cô em bé bỏng của mình, mãi cho tới khi một trong hai tên Bê-đu-in đẩy em mạnh đến suýt ngã em mới thốt lên với bọn chúng qua hai hàm răng nghiến chặt:
- Chúng tôi còn phải sống đến được Pha-sô-đa nữa đấy.
Những lời ấy khiến bọn Ả Rập dừng tay, vì chúng e sẽ phạm lệnh Ma-hơ-đi. Song điều khiến chúng phải ngừng những hành động ấy lại là vì I-đrix bỗng nhiên bị chóng mặt dữ dội, đến nỗi hắn phải tựa vào vai Ghe-bơ-rơ. Lát sau, cơn chóng mặt qua đi, nhưng tên Xu-đan hoảng hốt và nói:
- Lạy đức A-la! Có chuyện không hay xảy ra với tôi rồi. Có thể tôi bị nhiễm bệnh rồi chăng?
- Anh đã được gặp Ma-hơ-đi, anh không thể nào ốm được. - Ghe-bơ-rơ đáp.
Cuối cùng bọn chúng cũng về tới khu lều. Với chút sức cuối cùng, Xtas đưa Nen đang say ngủ vào tay bà Đi-na. Mặc dù cũng không được khoẻ lắm song bà cũng đã sửa soạn cho cô chủ của mình một chỗ nằm êm ái. Bọn Xu-đan và Bê-đu-in nuốt vội mỗi tên vài rẻo thịt tươi rồi lăn ngay ra chỗ nằm như những súc gỗ. Chúng không cho Xtas chút gì để ăn cả, chỉ có bà Đi-na dúi vào tay em một vốc ngô ngâm mà bà đã lấy bớt của lũ lạc đà. Song cậu bé chẳng còn lòng nào nghĩ đến chuyện ăn và ngủ cả.
Bởi lẽ, gánh nặng đang đè trên vai em thật quá nặng nề. Em cảm thấy rằng, khi từ chối thẳng thừng ân huệ của Ma-hơ-đi, cái ân huệ phả i đánh đổi bằng việc từ bỏ tín ngưỡng và linh hồn, em đã hành động đúng đắn; em cảm thấy rằng giá cha em biết, ông sẽ có thể tự hào và sung sướng vì hành động của em, song đồng thời em nghĩ rằng chính em đã kết liễu đời Nen, người bạn trong cảnh nô lệ, người em gái nhỏ thân thương, người mà em sẵn sàng hiến dâng cho đến giọt máu cuối cùng.
Vậy nên, khi tất cả mọi người đã ngủ say, em oà lên khóc nức nở, và nằm lăn trên một tấm nệm, em khóc rất lâu như một đứa trẻ, mà quả thật em cũng hãy còn là một đứa trẻ kia mà.
--- ------ ------ ---.
1 Khốc-him hiện nay là một thành phố ở U-crai-na, trước đây thuộc Ba Lan. Tại đó, năm 1621 quân Cô-dắc và Ba Lan, dưới sự chỉ huy của J. K. Khốt-ki-ê-vích đã mấy lần thắng quân Thổ đông hơn gấp bội, cũng tại đó, năm 1673, vua Ba Lan J.Xê-bi-e-xki cũng đã đánh tan quân Thổ. Năm 1683, quân đội liên minh của Ba Lan và các nước đồng minh đã giải vây cho thành Viên, đánh tan quân Thổ (N.D).
Khi họ bước vào nhà, Ma-hơ-đi đang nằm trên một chiếc đi văng mềm giữa đám vợ của y, trong số đó hai người đang phe phẩy những chiếc quạt lông đà điểu to tướng để quạt cho y, còn hai người khác đang khe khẽ gãi gãi gan bàn chân y. Ngoài đám vợ y, chỉ có mặt thêm hai viên thống lĩnh là Áp-đu-la-hi và Sê-rip, vì vị thống lĩnh thứ ba là A-li U-led He-lu đang dẫn quân lên phía Bắc, đến xứ Béc-be-rơ và A-bu Ham-mét, những xứ sở trước đó đã bị quân khởi nghĩa chiếm được. Nhìn thấy những người vào, tiên tri đẩy đám vợ ra, ngồi dậy trên đi văng. I-đrix, Ghe-bơ-rơ và hai tên Bê-đu-in rạp mặt xuống đất, rồi tiếp đó cứ quỳ mọp, hai tay bắt chéo trước ngực. Ông lão Hy Lạp gật đầu với Xtas ra hiệu cho em cũng làm như thế, nhưng cậu bé giả vờ không thấy, chỉ hơi khom mình và rồi vẫn đứng thẳng người. Mặt em tái đi, nhưng mắt sáng long lanh, từ toàn bộ dáng người, từ cái ngẩng cao kiên nghị và từ đôi môi mím chặt dễ dàng nhận thấy rằng trong người em đã có một cái gì đó vượt cao lên, rằng sự do dự và lo sợ đã qua đi rồi, rằng em đã có một quyết định không khoan nhượng, không gì trên đời này có thể khiến em thay đổi quyết định đó nữa. Rõ ràng ông lão người Hy Lạp cũng nhận thấy điều đó, vì trên nét mặt ông hiện ra một nỗi lo lắng rõ rệt. Ma-hơ-đi nhìn lướt qua hai đứa bé, khuôn mặt béo nứt ánh lên nét cười thường có, rồi quay sang phía I-đrix và Ghe-bơ-rơ.
- Các người từ phương Bắc xa xôi tới đây? - Y nói. I-đrix đập trán xuống đất.
- Bẩm vâng, thưa Ma-hơ-đi. Chúng con thuộc về bộ tộc Đan-gan, nên chúng con đã rời bỏ nhà cửa ở Phai-um để được đến quỳ dưới gót chân đầy ân phước của Người.
- Ta đã trông thấy các người đi trong sa mạc. Con đường ấy thật là khủng khiếp, nhưng ta đã phái một thiên sứ tới để cảnh giới cho các người và bảo vệ cho các người tránh khỏi cái chết từ tay những kẻ vô đạo. Các người không nhìn thấy thiên sứ đâu, nhưng chính thiên sứ đã che chở cho các người đó.
- Xin đa tạ Người, thưa Người - chuộc - tội.
- Và các người đã mang tới cho Xmai-nơ những đứa trẻ này để ông ta đổi lấy bọn trẻ con của ông ta, những đứa trẻ mà bọn Thổ đang giam giữ cùng cô Phát-ma ở Port Xai-đơ?
- Chúng con chỉ muốn được phụng sự Người thôi.
- Ai phụng sự ta cũng là phụng sự cho sự cứu rỗi của chính mình, nghĩa là các ngươi đã tự mở đường lên thiên đường đấy.
Phát-ma là người có họ với ta... Nhưng ta bảo thật cho các ngươi rõ, khi nào ta chiếm được toàn bộ Ai Cập, thì khi đó cô ta cùng với con cái của cô ta cũng sẽ được tự do thôi mà.
- Vậy xin Người hãy xử với bọn trẻ này theo ý người, thưa Đấng được ban phước thánh...
Ma-hơ-đi khép hai mi mắt lại, sau đó lại mở ra, mỉm cười thân thiện và gật đầu ra hiệu cho Xtas.
- Hãy lại gần đây, cháu bé.
Xtas tiến lên vài bước đầy cương nghị, như những bước đi đều của một người lính, cúi chào lần thứ hai, rồi bật thẳng dậy như một sợi dây đàn và nhìn thẳng vào mắt Ma-hơ-đi chờ đợi.
- Các cháu có sung sướng là đã được đến với ta chăng? - Ma-hơ-đi hỏi.
- Không, thưa tiên tri. Chúng tôi đã bị bắt cóc khỏi tay cha chúng tôi, dù hoàn toàn không muốn chút nào.
Lời đáp thẳng thắn này đã gây ấn tượng, cả cho viên thủ lĩnh vốn quen với sự nịnh nọt, lẫn cho những người có mặt tại đấy.
Thống lĩnh Áp-đu-la-hi nhíu mày. Ông lão Hy Lạp nhay nhay ria mép và bắt đầu bẻ đốt ngón tay, riêng Ma-hơ-đi vẫn không thôi cười mỉm.
- Thế nhưng, - y nói, - các cháu đang được ở nơi ngọn nguồn chân lí. Cháu có muốn uống nước từ ngọn nguồn ấy chăng?
Một giây im lặng, Ma-hơ-đi cho rằng cậu bé không hiểu câu hỏi bèn lặp lại rõ ràng hơn:
- Cháu có muốn tiếp thu khoa học của ta chăng?
Nghe thấy thế, cánh tay Xtas đang đặt trước ngực chợt phác lên một dấu thánh như một người từ trên một con tàu đắm sắp sửa nhảy xuống nước vậy.
- Thưa tiên tri, - em đáp, - tôi không biết thứ khoa học của Người, nên nếu tôi có thừa nhận nó thì chẳng qua cũng chỉ là sợ hãi, như một thằng hèn, như một người tồi tệ mà thôi. Liệu Người có muốn những kẻ hèn nhát và đểu cáng thu nhận học thuyết của Người?
Trong khi nó i thế, em vẫn nhìn thẳng vào mắt Ma-hơ-đi. Im lặng đến nỗi nghe rõ tiếng vo ve của đàn ruồi. Đồng thời cũng diễn ra một việc khác thường. Đó là việc Ma-hơ-đi bối rối và không tìm được ngay câu trả lời. Nụ cười biến mất trên khuôn mặt đang lộ rõ vẻ lúng túng và khó chịu. Y đưa tay với lấy quả bầu đựng nước pha mật để uống nhưng rõ ràng chỉ là để có thêm thời gian và che giấu bớt sự bối rối của mình.
Còn cậu bé dũng cảm thuộc dòng dõi những người từng bảo vệ đạo Thiên chúa, giọt máu trung thành của những người chiến thắng ở Khốc-him và thành Viên(1) thì cứ đứng nguyên đấy với cái đầu ngẩng cao chờ lời tuyên án. Gò má gầy gò bị rám bởi những cơn lốc cát sa mạc dậy lên màu hồng, mắt sáng long lanh, toàn thân run lên những cơn rùng mình nhiệt thành. “Đó - em nhủ thầm - dù những người khác có thừa nhận học thuyết của y, nhưng ta, ta sẽ không chịu từ bỏ lòng tin và linh hồn". Và nỗi lo sợ vì những điều có thể và sẽ phải nổ ra giờ đây ẩn sâu vào tim em, chỉ có niềm sung sướng và tự hào tràn ngập trong lòng.
Ma-hơ-đi đặt quả bầu xuống và hỏi:
- Nghĩa là người từ chối học thuyết của ta?
- Tôi là tín đồ Thiên Chúa như cha tôi... - Kẻ nào bịt tai không nghe tiếng nói của Thượng đế, - Ma-hơ-đi nói thong thả bằng giọng nói khác hẳn đi, - kẻ đó chỉ là củi đốt mà thôi.
Nghe thấy thế, thống lĩnh Áp-đu-la-hi, kẻ nổi tiếng vì sự dã man và hà khắc, liền nhe bộ răng trắng nhởn như một con thú dữ, cất tiếng:
- Lời nói của thằng bé này thật là ngỗ ngược, xin Người hãy trừng phạt nó, hoặc hãy cho phép tôi được trị tội.
“Bắt đầu rồi đây!" - Xtas nghĩ thầm.
Song Ma-hơ-đi vốn lúc nào cũng muốn cho niềm vinh quang về lòng từ tâm của y được truyền tụng không những chỉ trong số các tín đồ đạo Hồi mà lan ra toàn thế giới, nên y nghĩ rằng, một hình phạt quá hà khắc đối với một đứa trẻ có thể sẽ làm tổn hại đến thanh danh y.
Y lần tràng hạt một hồi lâu và suy nghĩ, rồi nói:
- Không! Những đứa trẻ này bị bắt để mang tới cho Xmai-nơ, nên mặc dù ta không bao giờ thương lượng gì với bọn vô đạo, cần phải gửi chúng tới chỗ Xmai-nơ. Đó là ý muốn của ta.
- Sẽ làm theo ý muốn của Người! - Viên thống lĩnh đáp.
Ma-hơ-đi trở tay chỉ I-đrix, Ghe-bơ-rơ và bọn Bê-đu-in.
- Hỡi Áp-đu-la-hi, ngươi hãy nhân danh ta thưởng cho những người này vì họ đã vượt qua một quãng đường dài và nguy hiểm để phụng sự ta và Thượng đế.
Rồi y gật đầu ra hiệu rằng buổi tiếp đã kết thúc, đồng thời ra lệnh cho ông lão Hy Lạp cũng ra về luôn. Khi đã ra đến chỗ tối trên bãi cầu nguyện, ông lão liền túm lấy tay Xtas lắc lấy lắc để vì tức giận và tuyệt vọng.
- Đồ khốn nạn! Mày đã giết chết đứa trẻ vô tội này rồi! - Ông vừa nói vừa chỉ Nen. - Mày đã giết cả mày và có thể cả tao nữa đấy!
- Cháu không thể làm khác được. - Xtas đáp.
- Mày không thể! Mày hãy nhớ rằng hai đứa chúng mày sẽ bị đày ải tiếp trên một chặng đường thứ hai còn trăm lần tồi tệ hơn chặng đường vừa rồi. Đó là chết - mày hiểu chưa? Ở Pha-sô-đa, chỉ trong vòng một tuần, bệnh sốt rét sẽ giết chúng mày. Ma-hơ-đi biết rõ điều đó, vì thế ông ta gửi chúng mày tới chỗ Xmai-nơ.
- Ở Om-đu-a-man thì rồi chúng cháu cũng chết.
- Không đúng! Chúng mày sẽ không chết trong nhà Ma-hơ-đi, trong no đủ và tiện nghi đâu! Ông ta đã sẵn sàng đón nhận chúng mày vào che chở dưới cánh. Tao biết là ông ta đã sẵn sàng. Thế là mày đã trả ơn tao hậu hĩnh vì chính tao đã bệnh vực chúng mày.
Thôi, chúng mày muốn làm thế nào thì làm. Một tuần nữa Áp-đu-la-hi sẽ gửi một chuyến bưu điện bằng lạc đà đến Pha-sô-đa, trong tuần tới chúng mày muốn làm gì tuỳ thích. Chúng mày sẽ không thấy mặt ta nữa đâu!...
Nói xong ông bỏ đi ngay, nhưng chỉ lát sau ông đã quay trở lại. Như mọi người Hy Lạp khác, ông vốn lắm lời, và phải nói cho thoả. Ông lão muốn trút hết cơn giận đang bừng bừng trong người lên đầu Xtas. Ông không phải là người tàn bạo và không có một tim hung dữ, tuy vậy ông muốn cậu bé phải thấm thía hơn nữa cái trách nhiệm kinh khủng mà cậu bé buộc vào cho mình khi không chịu nghe lời khuyên cùng những lời ngăn đe của ông.
- Ai cấm mày là người Thiên Chúa trong lòng, hả?
- Ông nói. - Mày nghĩ là tao không theo đạo chăng? Nhưng tao không phải là thằng ngốc. Còn mày, mày muốn phô phang cái anh hùng rơm củ a mày kia. Từ trước tới nay tao đã giúp được cho tù binh da trắng bao nhiêu việc, còn từ giờ tao không còn có thể giúp họ được nữa, vì Ma-hơ-đi đã giận tao rồi. Tất cả sẽ chết hết! Cả cô bạn tù nhỏ bé của mày cũng vậy thôi.Chính mày đã giết chết con bé. Ở Pha-sô-đa cả đến người lớn cũng chết vì sốt rét như ruồi nữa là trẻ con. Còn nếu như chúng nó bắt bọn mày phải đi bộ theo sau ngựa và lạc đà, thì con bé sẽ gục ngay trong ngày đầu tiên.
Chính mày gây ra chuyện đó. Mày hãy vui sướng đi, cái đồ... Thiên Chúa giáo này!
Rồi ông bỏ đi, còn họ thì rẽ khỏi bãi cầu nguyện, qua những phố tối tăm, trở về lều. Họ đi rất lâu, vì thành phố trải dài trên một phạm vi khổng lồ. Mệt mỏi vì cố sức, vì đói, vì sợ và vì những ấn tượng kinh khủng suốt cả một ngày trời, chốc chốc Nen lại phải dừng chân. I-đrix và Ghe-bơ-rơ thúc cô bé đi nhanh hơn. Song chỉ một lát sau, chân cô bé hoàn toàn mềm nhũn. Xtas bèn bồng cô bé lên tay không chút ngần ngừ và mang đi. Dọc đường, em muốn nói với Nen, muốn thanh minh trước cô bé rằng em không thể hành động khác đi, nhưng những ý nghĩ cứ chết cứng lại trong đầu óc em, khiến em chỉ lặp đi lặp lại: “Nen! Nen! Nen!", và siết chặt cô bé vào mình, không thể nói được gì hơn nữa. Sau vài chục bước chân, Nen đã ngủ thiếp đi vì kiệt sức trên tay em, thế là em im lặng bước đi trong sự tĩnh mịch của những phố hẻm đang ngủ yên, sự tĩnh mịch chỉ bị gián đoạn bởi câu chuyện giữa I-đrix và Ghe-bơ-rơ.
Trong tim bọn chúng tràn ngập niềm sung sướng, đó là điều may mắn cho cả Xtas, vì nếu không bọn chúng có thể sẽ trị em về tội dám đối đáp ngỗ ngược với Ma-hơ-đi. Song chúng đang bận tâm về những điều vừa được hưởng nên không thể nghĩ chuyện gì khác.
- Trước, anh cảm thấy ốm đến nơi rồi, - I-đrix nói,-nhưng được nhìn thấy Đức tiên tri anh đã khỏi bệnh hoàn toàn.
- Người giống như cây cọ trên sa mạc, như dòng nước mát lành giữa ngày nóng nực, lời của Người giống như những quả chà là chín mọng vậy. -Ghe-bơ-rơ đáp.
- Gã Nu-rơ En Ta-thin nói dối khi bảo rằng Người không cho chúng mình vào gặp. Người đã cho vào,đã ban phước lại còn ra lệnh cho ngài Áp-đu-la-hi phải ban thưởng cho chúng ta nữa chứ.
- Ngài thống lĩnh sẽ thưởng cho chúng ta rất hậu, vì ý muốn của Ma-hơ-đi là thiêng liêng.
- Tuyệt quá! Mong sao được đúng như lời ông nói, - một trong hai tên Bê-đu-in lên tiếng.
Và Ghe-bơ-rơ bắt đầu mơ tưởng đến hàng đàn lạc đà, súc vật có sừng, hàng đàn ngựa và hàng túi hàng túi ních đầy những đồng piaxt.
Gã I-đrix chợt khiến hắn tỉnh cơn mơ màng ấy khi cất tiếng hỏi và chỉ Xtas đang bế Nen đang ngủ say:
- Ta làm gì với con ruồi trâu và ruồi nhóc này hả?
- Ha! Ngài Xmai-nơ sẽ phải thưởng riêng cho chúng ta về chúng nó đấy!
- Khi mà đấng tiên tri đã nói rằng người không cho phép bất cứ một cuộc thương thuyết đổi chác nào với bọn vô đạo, thì Xmai-nơ chẳng dính dáng gì với chúng nó nữa đâu.
- Thế thì tôi thật tiếc là chúng nó không rơi vào tay ngài thống lĩnh, hẳn ngài ấy sẽ dạy cho thằng chó con kia biết thế nào là cất tiếng sủa chống lại chân lí và con người mà Thượng đế đã lựa chọn.
- Ma-hơ-đi rất nhân từ. - I-đrix đáp.Hắn cân nhắc một lúc lâu rồi nói:
- Dù sao, khi có hai đứa trong tay, thì ngài Xmai-nơ sẽ có thể chắc chắn rằng cả bọn Thổ lẫn bọn Anh đều không thể giết con ngài và bà Phát-ma.
- Thế nghĩa là có thể ông ta sẽ thưởng công cho chúng ta?
- Phải. Cứ để cho chuyến bưu điện của ngài Áp-đu-la-hi mang chúng nó đến Pha-sô-đa. Chúng ta càng thêm nhẹ gánh. Khi nào ngài Xmai-nơ quay trở lại đây, ta sẽ nhắc ngài về chuyện tiền nong sau.
- Anh nói thế có nghĩa là chúng ta sẽ ở lại Om-đu-a-man?
- Lạy đức A-la! Mày chưa ngán quãng đường từ Phai-um tới Khác-tum hay sao? Đến lúc chúng ta phải nghỉ ngơi rồi.
Đám lều trại không còn xa nữa. Tuy nhiên, Xtas cũng đã phải chậm bước chân, vì sức em cũng đã bắt đầu kiệt. Mặc dù Nen vốn nhẹ, nhưng mỗi lúc một thêm nặng trên tay em. Bọn Xu-đan, muốn nhanh được ngủ, bèn quát mắng em và bắt đầu đấm vào đầu em. Thậm chí gã Ghe-bơ-rơ còn dùng dao thích vào bả vai em đau điếng. Cậu bé chịu đựng tất cả những cái đó trong im lặng, chỉ cố tìm cách che cho cô em bé bỏng của mình, mãi cho tới khi một trong hai tên Bê-đu-in đẩy em mạnh đến suýt ngã em mới thốt lên với bọn chúng qua hai hàm răng nghiến chặt:
- Chúng tôi còn phải sống đến được Pha-sô-đa nữa đấy.
Những lời ấy khiến bọn Ả Rập dừng tay, vì chúng e sẽ phạm lệnh Ma-hơ-đi. Song điều khiến chúng phải ngừng những hành động ấy lại là vì I-đrix bỗng nhiên bị chóng mặt dữ dội, đến nỗi hắn phải tựa vào vai Ghe-bơ-rơ. Lát sau, cơn chóng mặt qua đi, nhưng tên Xu-đan hoảng hốt và nói:
- Lạy đức A-la! Có chuyện không hay xảy ra với tôi rồi. Có thể tôi bị nhiễm bệnh rồi chăng?
- Anh đã được gặp Ma-hơ-đi, anh không thể nào ốm được. - Ghe-bơ-rơ đáp.
Cuối cùng bọn chúng cũng về tới khu lều. Với chút sức cuối cùng, Xtas đưa Nen đang say ngủ vào tay bà Đi-na. Mặc dù cũng không được khoẻ lắm song bà cũng đã sửa soạn cho cô chủ của mình một chỗ nằm êm ái. Bọn Xu-đan và Bê-đu-in nuốt vội mỗi tên vài rẻo thịt tươi rồi lăn ngay ra chỗ nằm như những súc gỗ. Chúng không cho Xtas chút gì để ăn cả, chỉ có bà Đi-na dúi vào tay em một vốc ngô ngâm mà bà đã lấy bớt của lũ lạc đà. Song cậu bé chẳng còn lòng nào nghĩ đến chuyện ăn và ngủ cả.
Bởi lẽ, gánh nặng đang đè trên vai em thật quá nặng nề. Em cảm thấy rằng, khi từ chối thẳng thừng ân huệ của Ma-hơ-đi, cái ân huệ phả i đánh đổi bằng việc từ bỏ tín ngưỡng và linh hồn, em đã hành động đúng đắn; em cảm thấy rằng giá cha em biết, ông sẽ có thể tự hào và sung sướng vì hành động của em, song đồng thời em nghĩ rằng chính em đã kết liễu đời Nen, người bạn trong cảnh nô lệ, người em gái nhỏ thân thương, người mà em sẵn sàng hiến dâng cho đến giọt máu cuối cùng.
Vậy nên, khi tất cả mọi người đã ngủ say, em oà lên khóc nức nở, và nằm lăn trên một tấm nệm, em khóc rất lâu như một đứa trẻ, mà quả thật em cũng hãy còn là một đứa trẻ kia mà.
--- ------ ------ ---.
1 Khốc-him hiện nay là một thành phố ở U-crai-na, trước đây thuộc Ba Lan. Tại đó, năm 1621 quân Cô-dắc và Ba Lan, dưới sự chỉ huy của J. K. Khốt-ki-ê-vích đã mấy lần thắng quân Thổ đông hơn gấp bội, cũng tại đó, năm 1673, vua Ba Lan J.Xê-bi-e-xki cũng đã đánh tan quân Thổ. Năm 1683, quân đội liên minh của Ba Lan và các nước đồng minh đã giải vây cho thành Viên, đánh tan quân Thổ (N.D).
Tác giả :
Henryk Sienkiewicz