Nữ Thám Tử Nancy Drew - Chạy Đua Với Thời Gian
Chương 12: Một cú ngoặt nguy hiểm
TÔI DỪNG LẠI, đưa tấm hình chụp lốp xe đạp của Jasper lại gần ánh đèn pha xe đạp của mình. Hoàn toàn khớp với vết xe trên lối mòn.
Một cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống, cánh tay tôi nổi hết cả da gà. Tôi nhảy lên xe và lần theo dấu bánh xe đạp leo núi. Dấu vết không đều, ở vài chỗ bị mờ, thậm chí mất đến cả vài mét. Nhưng dưới ánh sáng của đèn pha, rồi thì tôi cũng tiếp tục tìm thấy nó. Xe của Jasper chắc chắn đã theo lối này. Đúng hơn là, xe đạp của anh trai Jasper đã băng qua lối này.
Lại một cơn ớn lạnh khác. Anh trai Jasper, tôi tự nhắc mình. Jasper nói là định dùng xe đạp cuối tuần này, nhưng rồi bị anh trai hắn lấy lại vì... vì... xe ô tô của anh ta bị hư ngay sau khi cuộc đua bắt đầu.
“Phải rồi!" tôi thốt lên, và vội lấy tay bụm miệng mình lại, hy vọng vừa rồi không có ai nghe tiếng của mình. Phù! Tất nhiên là không!
Charlie Adams kể là cậu ấy đã nhận được điện thoại gọi đi sửa cái bơm nước cho xe của sĩ quan Rainey ngay sau khi cuộc đua bắt đầu. Và Jasper nói anh trai hắn cần lấy lại xe ngay sau khi cuộc đua bắt đầu vì xe ô tô của anh ta bị hư. Jasper chưa bao giờ giới thiệu họ tên đầy đủ... có khi nào họ của hắn là Rainey không nhỉ?
Tôi thắng xe, chân trái chống đất. Tôi cần vài phút để lần theo dòng suy luận của mình, chứ không phải theo dấu xe.
Trong đầu tôi nhẩm lại từng từ một mà tôi có thể nhớ trong cuộc đối thoại với sĩ quan Rainey và bà Mahoney ở nhà kính.
Lúc đầu sĩ quan Rainey nói anh ta không lo ngại việc Jasper nhảy lên sân khấu hồi sáng nay vì nghĩ rằng tên này chỉ đơn giản là một tay đua quá háo hức thôi. Có phải vì vậy mà anh ta mỉm cười lúc xua Jasper xuống khỏi sân khấu không? Đó là nụ cười thân thiện của một nhân viên an ninh? Hay là nụ cười khi nhận ra em trai mình?
Có vẻ quá đơn giản. Chắc chắn vẫn còn điều gì đó hơn thế nữa, tôi tự nhủ. Hãy suy nghĩ đi nào.
Sĩ quan Rainey nói gì về việc nói chuyện với Jasper sau đó nhỉ? Ồ phải rồi - anh ta nói không biết Jasper sống ở đâu, vì khi hai người hỏi chuyện riêng, Jasper vẫn loanh quanh đâu đó trong thị trấn.
Nhưng khoan đã - anh ta cũng cám ơn vì tôi đã cho biết Jasper không phải là một tay đua.
Dĩ nhiên rồi! Đó là những gì tôi cố suy ra nãy giờ. Sĩ quan Rainey nói dối! Nếu Jasper vẫn còn loanh quanh đâu đó trong thị trấn hồi chiều nay, thì chính Rainey cũng phải biết Jasper không phải là một trong những tay đua chứ. Hoặc Rainey đã nói dối về việc nghĩ Jasper là một trong những tay đua, hoặc nói dối khi bảo rằng đã nói chuyện riêng với hắn ngay chiều nay. Dù là gì thì trong cả hai điều ấy Rainey cũng không trung thực. Và vấn đề ở đây là anh ta nói dối để bao che cho người em phạm pháp hay để che dấu hành vi phạm pháp của chính anh ta. Anh ta cần phải giải thích cho rõ ràng.
Tôi trở lại yên xe, tiếp tục theo dấu vết lún trong bùn. Sau vài dặm nữa, dấu vết đó chuyển hướng khỏi con đường mòn cũ kỹ, xuống một ngọn đồi gập ghềnh về phía đám cỏ cây rậm rạp. Trên đỉnh đồi là một tấm biển đề NGÕ CỤT.
Tôi tắt đèn pha, dắt xe khỏi lối mòn, giấu sau một bụi cây gai. Tôi lấy ba lô ra và kiểm tra những thứ đựng bên trong. Tôi bỏ lược, son dưỡng môi và những thứ linh tinh không cần thiết ra ngoài. Tôi không biết mình sẽ phải đi bộ bao lâu, cho nên ba lô càng nhẹ càng tốt.
Tôi đem theo điện thoại, bút bi, sổ tay, dao nhíp, kẹo, và cây đèn pin nhỏ. Rồi tôi nhét xe đạp, nón bảo hiểm, và những thứ khác dưới bụi cây gai. Trừ phi có ai đó cố ý muốn tìm, còn không thì khó mà nhìn thấy được chúng.
Tôi bắt đầu lặng lẽ đi bộ xuống đồi, theo vết xe đạp leo núi của anh trai tên Jasper. Ánh trăng chỉ sáng vừa đủ để thấy đường đi. Khi tôi đến mép sông, dấu xe kết thúc. Có cái gì đó dịch chuyển khẽ khàng ở phía trước. Một con thuyền cá cũ nát đang va vào phía cuối một cái cầu tàu ngắn ngủn.
Tôi cúi xuống nấp sau một cái cây gãy và quan sát khu vực xung quanh trong vài phút. Không có gì, không tiếng động, trừ tiếng nước vỗ và tiếng thuyền va vào cầu tàu. Không có ai. Tôi đợi thêm vài phút nữa để lấy can đảm, và cũng để vạch cho mình một lộ trình tẩu thoát. Rồi tôi lao thẳng tới cầu tàu nhỏ kia.
Tôi lặng lẽ bò qua tấm ván cót két, nhìn chăm chú vào trong thuyền. Có một buồng nhỏ ở giữa boong, chỉ nhỏ như cái ô trưng hàng hóa thôi. Tôi cúi xuống nhìn qua tấm kính. Không có ai trên thuyền - ít nhất là cho tới khi tôi bước ra khỏi cầu tàu, lẻn lên boong.
Chiếc thuyền khá xuống cấp, và chẳng thấy gì có thể giúp người ta nhận diện được chủ nhân của nó. Tôi bước vào trong buồng, có nghĩa là đi thêm ba bước ngắn nữa, rồi rút cây đèn pin ra khỏi ba lô, lia nó quanh căn buồng nhỏ.
Một băng ghế dài lắp cố định dọc theo vách, trên có trải một tấm nệm, thêm một cái ghế gỗ nhà bếp ọp ẹp cùng vài cái ghế cao nữa là tất cả những gì gọi là đồ nội thất trên thuyền. Rồi thì một cái bếp điện nhỏ, một lò điện bắp bung, và đĩa đủ loại - cả sạch lẫn bẩn - nằm đầy trên quầy và trong bồn rửa chén ở một góc phía sau. Kế bên là một căn phòng nhỏ xíu chất đầy thức ăn đóng hộp với một tấm bạt bốc mùi cá được dùng để lót sàn. Một góc khác nữa phía sau có một cánh cửa dẫn tới một phòng tắm nhỏ nhất mà tôi từng thấy - thậm chí còn nhỏ hơn cả phòng tắm trên máy bay.
Rác rến chất đống khắp phòng chính - hàng chồng báo, giấy gói thức ăn, túi rỗng - nhưng chẳng có thứ gì có vẻ như đang chứa hàng cuộn tiền ăn cắp bên trong cả. Không có nhà vệ sinh. Tôi kiểm tra cái tủ duy nhất dưới bồn rửa chén. Có nhiều thứ khá gớm ghiếc dưới đó, nhưng không có tiền.
Tôi đến băng ghế kê dọc bức vách. Tôi thật sự không muốn chạm tay vào tấm nệm ngồi trên đó nên chỉ đá nhẹ băng ghế một cái. Rỗng không. Tôi lần xuống phía cuối và đẩy vào mấy góc của băng ghế. Góc phía trên khá chắc, nhưng phía dưới thì không bằng.
Không có tay cầm nào cả, nhưng tôi đã xoay sở sao cho luồn được ngón tay xuống dưới tấm gỗ và giật mạnh. Phân nửa mặt gỗ phía trước bật ra như cánh cửa gắn bản lề. Bên trong có một số giỏ, nhỏ hơn mấy cái giỏ móc dưới yên xe của đội tôi. Trông giống như loại giỏ móc dưới yên của một chiếc xe đạp leo núi.
Tôi kéo chúng ra sàn thuyền. Khá kềnh càng và nặng. Trúng phóc, bên trong đó toàn những chồng tiền được xếp gọn gàng.
Suy nghĩ rất nhanh, tôi bỏ hết tiền sang ba lô của mình. Sau đó tôi vơ một nắm giấy báo vương vãi khắp sàn, và nhét lại vào mấy cái giỏ. Tôi sẽ cho gã Rainey nếm mùi gậy ông đập lưng ông.
Tôi ấn mấy cái giỏ trở lại cái tủ bí mật, thả cửa xuống, giờ trông nó hệt như lúc chưa bị tôi phát hiện ra.
Cuối cùng tôi đứng dậy, đeo cái ba lô đầy ắp tiền lên lưng. Suy nghĩ duy nhất của tôi bây giờ là phải rời khỏi thuyền. Tim tôi đập nhanh đến nỗi tưởng chừng như nó sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi thậm chí không còn nghe được âm thanh chiếc thuyền va vào cầu tàu nữa, vì mạch đập ở hai bên thái dương tôi đã át đi tất cả các tiếng ồn khác.
Ừm, hầu hết các tiếng ồn khác.
Có tiếng kim loại loảng xoảng rơi trên boong bên ngoài căn buồng nhỏ, vang vọng trong đêm. Con thuyền nghiêng mạnh qua bên phải, và tôi phải bước lên một bước để giữ thăng bằng. Ai đó đã ném cái gì đấy lên boong, và căn cứ theo tiếng động thì có vẻ như đó là một chiếc xe đạp leo núi.
Tôi nhảy lên và chạy vội đến căn buồng. Thuyền lại nghiêng qua bên phải, theo sau là tiếng bước chân. Ai đó vừa bước lên boong!
Tôi lách vào trong căn buồng bé tí, kéo cánh cửa lại. Khi tôi nhốt mình trong căn buồng tí tẹo đó, động cơ của con thuyền bắt đầu hoạt động, phát ra những tiếng kêu bình bịch, bình bịch.
Một cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống, cánh tay tôi nổi hết cả da gà. Tôi nhảy lên xe và lần theo dấu bánh xe đạp leo núi. Dấu vết không đều, ở vài chỗ bị mờ, thậm chí mất đến cả vài mét. Nhưng dưới ánh sáng của đèn pha, rồi thì tôi cũng tiếp tục tìm thấy nó. Xe của Jasper chắc chắn đã theo lối này. Đúng hơn là, xe đạp của anh trai Jasper đã băng qua lối này.
Lại một cơn ớn lạnh khác. Anh trai Jasper, tôi tự nhắc mình. Jasper nói là định dùng xe đạp cuối tuần này, nhưng rồi bị anh trai hắn lấy lại vì... vì... xe ô tô của anh ta bị hư ngay sau khi cuộc đua bắt đầu.
“Phải rồi!" tôi thốt lên, và vội lấy tay bụm miệng mình lại, hy vọng vừa rồi không có ai nghe tiếng của mình. Phù! Tất nhiên là không!
Charlie Adams kể là cậu ấy đã nhận được điện thoại gọi đi sửa cái bơm nước cho xe của sĩ quan Rainey ngay sau khi cuộc đua bắt đầu. Và Jasper nói anh trai hắn cần lấy lại xe ngay sau khi cuộc đua bắt đầu vì xe ô tô của anh ta bị hư. Jasper chưa bao giờ giới thiệu họ tên đầy đủ... có khi nào họ của hắn là Rainey không nhỉ?
Tôi thắng xe, chân trái chống đất. Tôi cần vài phút để lần theo dòng suy luận của mình, chứ không phải theo dấu xe.
Trong đầu tôi nhẩm lại từng từ một mà tôi có thể nhớ trong cuộc đối thoại với sĩ quan Rainey và bà Mahoney ở nhà kính.
Lúc đầu sĩ quan Rainey nói anh ta không lo ngại việc Jasper nhảy lên sân khấu hồi sáng nay vì nghĩ rằng tên này chỉ đơn giản là một tay đua quá háo hức thôi. Có phải vì vậy mà anh ta mỉm cười lúc xua Jasper xuống khỏi sân khấu không? Đó là nụ cười thân thiện của một nhân viên an ninh? Hay là nụ cười khi nhận ra em trai mình?
Có vẻ quá đơn giản. Chắc chắn vẫn còn điều gì đó hơn thế nữa, tôi tự nhủ. Hãy suy nghĩ đi nào.
Sĩ quan Rainey nói gì về việc nói chuyện với Jasper sau đó nhỉ? Ồ phải rồi - anh ta nói không biết Jasper sống ở đâu, vì khi hai người hỏi chuyện riêng, Jasper vẫn loanh quanh đâu đó trong thị trấn.
Nhưng khoan đã - anh ta cũng cám ơn vì tôi đã cho biết Jasper không phải là một tay đua.
Dĩ nhiên rồi! Đó là những gì tôi cố suy ra nãy giờ. Sĩ quan Rainey nói dối! Nếu Jasper vẫn còn loanh quanh đâu đó trong thị trấn hồi chiều nay, thì chính Rainey cũng phải biết Jasper không phải là một trong những tay đua chứ. Hoặc Rainey đã nói dối về việc nghĩ Jasper là một trong những tay đua, hoặc nói dối khi bảo rằng đã nói chuyện riêng với hắn ngay chiều nay. Dù là gì thì trong cả hai điều ấy Rainey cũng không trung thực. Và vấn đề ở đây là anh ta nói dối để bao che cho người em phạm pháp hay để che dấu hành vi phạm pháp của chính anh ta. Anh ta cần phải giải thích cho rõ ràng.
Tôi trở lại yên xe, tiếp tục theo dấu vết lún trong bùn. Sau vài dặm nữa, dấu vết đó chuyển hướng khỏi con đường mòn cũ kỹ, xuống một ngọn đồi gập ghềnh về phía đám cỏ cây rậm rạp. Trên đỉnh đồi là một tấm biển đề NGÕ CỤT.
Tôi tắt đèn pha, dắt xe khỏi lối mòn, giấu sau một bụi cây gai. Tôi lấy ba lô ra và kiểm tra những thứ đựng bên trong. Tôi bỏ lược, son dưỡng môi và những thứ linh tinh không cần thiết ra ngoài. Tôi không biết mình sẽ phải đi bộ bao lâu, cho nên ba lô càng nhẹ càng tốt.
Tôi đem theo điện thoại, bút bi, sổ tay, dao nhíp, kẹo, và cây đèn pin nhỏ. Rồi tôi nhét xe đạp, nón bảo hiểm, và những thứ khác dưới bụi cây gai. Trừ phi có ai đó cố ý muốn tìm, còn không thì khó mà nhìn thấy được chúng.
Tôi bắt đầu lặng lẽ đi bộ xuống đồi, theo vết xe đạp leo núi của anh trai tên Jasper. Ánh trăng chỉ sáng vừa đủ để thấy đường đi. Khi tôi đến mép sông, dấu xe kết thúc. Có cái gì đó dịch chuyển khẽ khàng ở phía trước. Một con thuyền cá cũ nát đang va vào phía cuối một cái cầu tàu ngắn ngủn.
Tôi cúi xuống nấp sau một cái cây gãy và quan sát khu vực xung quanh trong vài phút. Không có gì, không tiếng động, trừ tiếng nước vỗ và tiếng thuyền va vào cầu tàu. Không có ai. Tôi đợi thêm vài phút nữa để lấy can đảm, và cũng để vạch cho mình một lộ trình tẩu thoát. Rồi tôi lao thẳng tới cầu tàu nhỏ kia.
Tôi lặng lẽ bò qua tấm ván cót két, nhìn chăm chú vào trong thuyền. Có một buồng nhỏ ở giữa boong, chỉ nhỏ như cái ô trưng hàng hóa thôi. Tôi cúi xuống nhìn qua tấm kính. Không có ai trên thuyền - ít nhất là cho tới khi tôi bước ra khỏi cầu tàu, lẻn lên boong.
Chiếc thuyền khá xuống cấp, và chẳng thấy gì có thể giúp người ta nhận diện được chủ nhân của nó. Tôi bước vào trong buồng, có nghĩa là đi thêm ba bước ngắn nữa, rồi rút cây đèn pin ra khỏi ba lô, lia nó quanh căn buồng nhỏ.
Một băng ghế dài lắp cố định dọc theo vách, trên có trải một tấm nệm, thêm một cái ghế gỗ nhà bếp ọp ẹp cùng vài cái ghế cao nữa là tất cả những gì gọi là đồ nội thất trên thuyền. Rồi thì một cái bếp điện nhỏ, một lò điện bắp bung, và đĩa đủ loại - cả sạch lẫn bẩn - nằm đầy trên quầy và trong bồn rửa chén ở một góc phía sau. Kế bên là một căn phòng nhỏ xíu chất đầy thức ăn đóng hộp với một tấm bạt bốc mùi cá được dùng để lót sàn. Một góc khác nữa phía sau có một cánh cửa dẫn tới một phòng tắm nhỏ nhất mà tôi từng thấy - thậm chí còn nhỏ hơn cả phòng tắm trên máy bay.
Rác rến chất đống khắp phòng chính - hàng chồng báo, giấy gói thức ăn, túi rỗng - nhưng chẳng có thứ gì có vẻ như đang chứa hàng cuộn tiền ăn cắp bên trong cả. Không có nhà vệ sinh. Tôi kiểm tra cái tủ duy nhất dưới bồn rửa chén. Có nhiều thứ khá gớm ghiếc dưới đó, nhưng không có tiền.
Tôi đến băng ghế kê dọc bức vách. Tôi thật sự không muốn chạm tay vào tấm nệm ngồi trên đó nên chỉ đá nhẹ băng ghế một cái. Rỗng không. Tôi lần xuống phía cuối và đẩy vào mấy góc của băng ghế. Góc phía trên khá chắc, nhưng phía dưới thì không bằng.
Không có tay cầm nào cả, nhưng tôi đã xoay sở sao cho luồn được ngón tay xuống dưới tấm gỗ và giật mạnh. Phân nửa mặt gỗ phía trước bật ra như cánh cửa gắn bản lề. Bên trong có một số giỏ, nhỏ hơn mấy cái giỏ móc dưới yên xe của đội tôi. Trông giống như loại giỏ móc dưới yên của một chiếc xe đạp leo núi.
Tôi kéo chúng ra sàn thuyền. Khá kềnh càng và nặng. Trúng phóc, bên trong đó toàn những chồng tiền được xếp gọn gàng.
Suy nghĩ rất nhanh, tôi bỏ hết tiền sang ba lô của mình. Sau đó tôi vơ một nắm giấy báo vương vãi khắp sàn, và nhét lại vào mấy cái giỏ. Tôi sẽ cho gã Rainey nếm mùi gậy ông đập lưng ông.
Tôi ấn mấy cái giỏ trở lại cái tủ bí mật, thả cửa xuống, giờ trông nó hệt như lúc chưa bị tôi phát hiện ra.
Cuối cùng tôi đứng dậy, đeo cái ba lô đầy ắp tiền lên lưng. Suy nghĩ duy nhất của tôi bây giờ là phải rời khỏi thuyền. Tim tôi đập nhanh đến nỗi tưởng chừng như nó sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi thậm chí không còn nghe được âm thanh chiếc thuyền va vào cầu tàu nữa, vì mạch đập ở hai bên thái dương tôi đã át đi tất cả các tiếng ồn khác.
Ừm, hầu hết các tiếng ồn khác.
Có tiếng kim loại loảng xoảng rơi trên boong bên ngoài căn buồng nhỏ, vang vọng trong đêm. Con thuyền nghiêng mạnh qua bên phải, và tôi phải bước lên một bước để giữ thăng bằng. Ai đó đã ném cái gì đấy lên boong, và căn cứ theo tiếng động thì có vẻ như đó là một chiếc xe đạp leo núi.
Tôi nhảy lên và chạy vội đến căn buồng. Thuyền lại nghiêng qua bên phải, theo sau là tiếng bước chân. Ai đó vừa bước lên boong!
Tôi lách vào trong căn buồng bé tí, kéo cánh cửa lại. Khi tôi nhốt mình trong căn buồng tí tẹo đó, động cơ của con thuyền bắt đầu hoạt động, phát ra những tiếng kêu bình bịch, bình bịch.
Tác giả :
Carolyn Keene