Nhất Phẩm Giang Sơn
Quyển 7 - Chương 357: Điềm lành
Trước cuộc thi một ngày, sáu người giám khảo mỗi người ra một đề. Trần Khác tuy cũng là giám khảo, nhưng với cuộc thi ở cấp độ này, đội hình giám khảo cũng đủ doạ chết người rồi, thế nên không tới lượt hắn ra đề.
Tham Tri Chính Sự Âu Dương Tu ra luận đề "Vương giả không trị di địch", lấy từ bản ghi "Xuân Thu Công Dương truyện"của Hà Hưu.
Tham Tri Chính Sự Vương Khuê ra luận đề "Ký túy bị vạn phúc", lấy từ chú giải "Kinh Thi, Đại Nhã, Sinh Dân" của Trịnh Huyền.
Xu Mật phó sứ Ngô Khuê ra luận đề "Lễ Nghĩa Tín đủ là Đạo Đức", lấy từ bản ghi "Luận Ngữ, Tử Lộ Thiên" của Bao Hàm.
Long Đồ Các Trực Học Sĩ Dương Điền ra luận đề "Hình thế không bằng phẩm hạnh", lấy từ "Sử ký, Ngô Khởi liệt truyện".
Quyền Ngự Sử Trung Thừa Vương Trù ra luận đề "Dạy người lấy lễ làm gốc", lấy từ "Hán Thư, Lễ Nhạc Chí".
Tri Chế Cáo Vương An Thạch ra luận đề "Lưu Khải Đinh Hồng ai có tài", lấy từ "Hậu Hán Thư, Đinh Hồng truyện" và "Hậu Hán thư, Lưu Khải truyện".
Trong sáu đề gồm ba kinh ba sử, ba chính văn ba chú giải, yêu cầu cực kỳ nghiêm khắc. Người dự thi phải chỉ rõ từng luận đề được lấy từ đâu, sau đó trích dẫn toàn bộ văn tự trong luận đề, hoàn thành hết mới được gọi là ‘thông’. Người không biết nguồn gốc của luận đề không được chấm ‘thông’; người biết rõ nguồn gốc mà không trích dẫn được toàn bộ luận đề cũng không được chấm thông, chỉ được để ‘thô’. Người dự thi làm sáu luận, mỗi phần phải hơn ba ngàn chữ, cho nên ghi ít nhất phải một vạn tám ngàn chữ, yêu cầu hoàn thành trong một ngày một đêm.
Năm mươi người dự thi, tuy tất cả đều có thể hoàn thành, nhưng có không ít người vì nhanh mà làm qua loa.
Bài thi được thu lấy, Thư sử dán tên rồi ghi chép lại, sau đó chuyển đến Trần Khác. . . Vì quan sơ khảo chỉ có một mình hắn cho nên tất cả bài thi đều phải qua tay của hắn, hắn chỉ việc tuyển những người làm được bốn thông trở lên đưa cho sáu vị giám khảo mà thôi. Sau đó sáu vị giám khảo sẽ phân chia cấp bậc, chia những người bốn thông trở lên làm năm bậc, đến bậc bốn lại chia trên dưới, theo như lệ cũ, bậc một, bậc hai không cần xét, bậc ba xét tốt, bậc bốn trở lên mới có tư cách tham gia thi Ngự.
Nói chung, Trần Khác không có quyền hạn gì trong này, bởi vì ‘thông’, ‘thô’ hay ‘không thông’ đều rất rõ ràng. Nếu hắn làm sai, bị Ngự Sử vạch tội thì còn nhẹ, khó khăn tạo dựng hình tượng đại nho cũng sẽ bị sụp đổ trong chốc lát, vì vậy hắn không được phép sơ suất chút nào.
Nhưng điều này không có nghĩa rằng hắn không thể tác động lên kết quả. Trên thực tế, Trần Khác sử dụng một biện pháp khá khéo léo, khiến tất cả những người hắn muốn bảo vệ đều thuận lợi thông qua.
Người Trần Khác muốn bảo vệ, tất nhiên là bạn học cùng khoá với hắn ở Gia Hữu Học Xã, hắn rất quen thuộc văn phong của những người này, vì vậy không cần thông đồng với người khác, hắn vẫn có thể nhận ra bài thi cũng những vị bạn học này.
Trong đó, hắn không lo lắng Nhị Tô và Tằng Củng, bài viết của tám Đại Gia Đường Tống không qua được Các, đây mới là việc đáng cười nhất trong thiên hạ.
Người hắn muốn bảo vệ là Tứ Lang, Lâm Hi và Lã Huệ Khanh.
Hắn sử dụng chiến thuật quanh co, trước hết lấy bài thi của Nhị Tô và Tằng Củng đặt ở dưới cùng, đem tất cả ‘bài thi qua loa’ đặt ở trên cùng, bỏ bài thi của Tứ Lang vào giữa, phía dưới lại để vài bài thi ‘qua loa’. Như thế, sáu vị giám khảo sau khi loại bỏ kha khá các bài thi ‘qua loa’ phía trước, nhìn thấy bài thi cũng khá cẩn thận của Tứ Lang liền cảm thấy không tệ, vì đã loại hơi nhiều, chưa kể mấy bài thi kế tiếp cũng quá khó coi, tỷ lệ Tứ Lang được chọn tự nhiên tăng cao.
Lâm Hi và Lã Huệ Khanh cũng tương tự, bởi vì những bài thi ưu tú như Nhị Tô với Tằng Củng đều đặt ở cuối cùng, cho nên ba người được Trần Khác làm nổi bật lên được ‘qua Các’ không có gì lạ. Đến khi thấy mấy bài thi cuối cùng, cho dù mấy vị giám khảo biết trình độ của những người này cao, cũng sẽ không thay đổi kết quả phía trước.
Bởi vì sáu người cùng nhau chấm bài, cho nên người nào muốn thay đổi kết quả phía trước, chẳng khác nào không đồng ý với quyết định của năm người còn lại. Không đâu đi đắc tội với người khác, ngay cả Vương An Thạch cũng không điên đến mức này.
Kết quả được công bố, tổng cộng mười lăm người qua Các, trong đó có Tứ Lang, Lâm Hi và Lã Huệ Khanh, tất nhiên Nhị Tô với Tằng Củng cũng không bị vùi dập. Trừ sáu người bọn họ, Đặng Oản cũng qua được. Trong tất cả những người qua Các, có tới một nửa thuộc Gia Hữu Học Xã, ngay lập tức danh tiếng của Gia Hữu Học Xã một lần nữa được triều đình và dân chúng biết đến... Cuộc thi Ngự điện Sùng Chính bắt đầu một ngày sau, sáng sớm, quan gia tự mình chủ trì ra một đề sách. Lần ra đề này, có vẻ Triệu Trinh rất muốn nói điều gì đó, nên trong phần đề sách dùng tới mấy trăm chữ, mà đa số ý đều là cái nhìn của lão đối với các loại tệ nạn trong nước:
“Từ khi Trẫm lên ngôi đến nay. . . Đức có chỗ chưa đủ, giáo dục có chỗ chưa tốt, quản lý còn thiếu sót, hòa khí cũng ít. Dù ban ruộng đất, dân chúng cũng buồn chán. Biên cảnh dù yên ổn, binh lính không được rút lui. Lợi nhập vào quá sâu, chi phí di chuyển cũng càng lớn. Quân đội lộn xộn không có kinh nghiệm, quan cũng rối ren không rõ ràng. Trường học mở nhiều, lễ nghĩa chưa đủ; ít nhà được phong quan, kẻ sĩ bị bỏ qua. . . Người tại vị không cảm hoá dân tâm, người trị dân lấy pháp luật bắt bớ. Lệnh cấm nhiều, dân không biết tránh. Lợi dụng pháp luật, quan không sợ. Dân chúng mệt mỏi, người than thở nhiều. Đến tận năm này, đại nạn cũng dần thấy được . . ."
Tệ nạn Đại Tống được nhắc mấy lần, nếu viết ở trường hợp khác, đây chính là một chiếu thư tự kể tội.
Sau đó mới yêu cầu "đại phu ai cũng biết, sau nạn không cần thương tiếc".
Đây là tự làm khổ.
Quan Tường Định Tư Mã Quang chép đề sách, đầu đầy mồ hôi, sau khi chép xong cũng không dám nhận lệnh, nói:
- Bệ hạ nghĩ lại, nếu đề sách này phát ra, chắc chắn khiến thiên hạ đại náo!
- Có gì liên quan?
Triệu Trinh nửa cười nửa không hỏi.
- Vâng, là có liên quan.
Tư Mã Quang tự nhiên hơn rất nhiều so với những người khác khi ở cạnh hoàng đế, trầm giọng nói:
- Thánh nhân nói, thiên hạ không ai không phải cha mẹ, suy ra rộng khắp, cũng không ai không phải quân vương. Ngàn sai vạn sai, đều là thần sai. Bệ hạ chính là vua Đại Tống, người làm vua không thể sai, nếu không lòng dân không yên, ý xấu sẽ trỗi dậy!
- Quân Thực, ngươi đọc sách quá nhiều.
Quan hệ giữa Triệu Trinh và Tư Mã Quang rõ ràng càng lúc càng thân, dùng từ tương xứng nói:
- Tệ nạn trong thiên hạ đề ở đề sách này, cho dù ngươi không cho ta nói, ta làm hoàng đế bốn mươi năm, chẳng lẽ không có liên quan? Nếu không mượn cơ hội này nói ra, lại khiến cho người trong thiên hạ nghĩ Triệu Trinh ta tự gạt mình không gạt được người, lẩm cẩm như thế . . .
Nói xong cười nhạt một tiếng tiếp:
- Ngươi không nghe tục ngữ nói "gió mạnh mới biết cỏ cứng, hỗn loạn mới ra anh hùng" sao? Quả nhân muốn là gió mạnh, thổi tung khoang thuyền, để cho Đại Tống ta tìm được mấy cọng cỏ cứng, mấy vị anh hùng!
- Bệ hạ, ngài đã biết như thế, tại sao không đại chấn thiên uy, ra sức chấn chỉnh?
Bây giờ Tư Mã Quang đã nhận thức được, vị hoàng đế thoạt nhìn có chút yếu ớt vô lực này là người có đại trí tuệ.
Triệu Trinh sững sờ một lúc, hơi gục đầu xuống, thở dài nói:
- Quả nhân suýt chết hai lần, thân thể đã không còn được như lúc trước, khi vào triều nghe đại thần tấu, chỉ cần thời gian hơi dài thì tay chân liền run rẩy, đầu óc choáng váng, mặt mũi nhăn nhó. Nếu quả nhân tự thân chỉnh đốn. . . Giả như trên đường thân thể có biến, vị vua tương lai khó có thể thừa kế. Điều quả nhân có thể làm là chuẩn bị tốt nền móng cho vị vua tương lai, dọn dẹp chướng ngại. Ngươi rõ chưa Quân Thực?
Những lời giải bày tâm can thật đau khổ. Tư Mã Quang rơi lệ, khóc nức nở, nói:
- Thần rõ rồi, rất rõ...
- Cho nên quả nhân muốn cho những anh hùng này nổi lên, nếu bọn họ ẩn mình, làm sao ta có thể ra tay?
Hai mắt Triệu Trinh luôn lộ vẻ ôn hoà, ngay lúc này lộ ra lạnh lùng:
- Ngươi chờ xem sau Ngự thí này, có bao nhiêu trò hay sẽ trình diễn!
Tuy bây giờ là tháng tư, nhưng Tư Mã Quang vẫn cảm thấy một hồi lạnh lẽo. . .
‘Thi Ngự sách Chế Khoa’ yêu cầu hơn ba ngàn chữ, hoàn thành trước khi trời tối.
Nội dung đề sách rộng rãi như thế, khó trả lời hơn luận đề rất nhiều, cũng may chỉ có một đề, kiểu gì cũng có thể trả lời xong.
Trời tối liền thu bài, tuy chỉ có mười lăm bài nhưng vẫn niêm phong ống quyển, sao chép lại. Sau đó do quan sơ khảo, Quan Tường Định xét duyệt thứ tự hai lần rồi trình lên cho quan gia ngự lãm.
- Khoa này có hiền tài được xếp bậc ba không?
Triệu Trinh mỉm cười hỏi. Không phải lão xem thường sĩ phu nước mình, do bậc một bậc hai vốn không được phong quan, bậc ba là cấp cao nhất. Hơn nữa triều đình quy định ‘bậc ba Chế Khoa cũng như đứng đầu Tiến sĩ, trừ việc chọn hai chức quan Bình sự và Thiêm thư của Đại Lý Tự’, có nghĩa là đứng bậc ba Chế Khoa tương đương với Trạng Nguyên khoa Tiến Sĩ. Chưa kể từ khi dựng nước đến nay chỉ có Ngô Dục được bậc ba, ngoài ra không còn ai khác, còn hiếm hơn ba năm một Trạng Nguyên.
- Chúc mừng bệ hạ.
Tư Mã Quang cung kính nói:
- Kết quả khoa này rất khá, có sáu người đứng trên bậc bốn, nhất là bài của ‘Thần’, ‘Chiên’, lý lẽ diễn đạt đều tốt, tuyệt đối ngang nhau, dự tính đều được bậc ba.
‘Thần’, ‘Chiên’ là tên ký hiệu bài thi sau khi chép lại.
- Thế à.
Nghe có tới hai người đạt bậc ba, Triệu Trinh liền cảm thấy hứng thú, nói:
- Đưa quả nhân xem.
- Vâng.
Tư Mã Quang mang hai bài thi “dự tính bậc ba" trình lên.
Triệu Trinh cầm lên một bài, nheo mắt nhìn qua:
“Thần trịnh trọng trả lời: thần nghe thiên hạ không có việc gì, thì các bậc quyền quý nói nhẹ như lông hồng; thiên hạ xảy ra chuyện, thì người bình thường nói nặng như Thái Sơn. Không có trí tuệ tức không có năng lực, nơi bộc lộ công khai lại không quan sát kỹ, tình thế khó khăn lại càng đặc biệt vậy. . ."
Triệu Trinh cảm giác được câu từ bài này hoàn toàn tự nhiên, nhiều màu sắc phong phú. Giữa những hàng chữ ẩn chứa sức sống và tài văn chương vô tận, đáng quý ở chỗ, tác giả thể hiện một trái tim chân thành, không hề có chút khoe khoang trước mặt mình.
“Bởi vì ngày trôi qua, nên khoẻ mạnh, năm tháng đi tới, nên rõ ràng; dòng nước chảy hàng ngày, nên vô tận; tay chân con người hoạt động, nên không tật; bộ máy dùng hàng ngày, nên không mọt; thiên hạ, là đại vật (vật ở đây ý chỉ các loài trong trời đất). Để lâu không dùng, thì là đồ vô dụng, như thế chỉ càng tệ hơn mà thôi.’
Triệu Trinh vừa lớn tiếng đọc vừa khen:
- Văn chương của người này có thể sánh bằng Hàn Liễu.
Khi đọc đến ‘Thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua’, người bên cạnh đều biến sắc, Triệu Trinh cất tiếng cười to nói:
- Dám nói thẳng!
Đọc xong, cuốn lại bài thở dài:
- Đại Tống thật may mắn khi có người này, chấm bậc hai!
- Xin bệ hạ nghĩ lại, từ trước tới nay bậc hai không hề có tác dụng gì, dù là kỳ tài ngút trời cũng không nên phá lệ.
Tư Mã Quang nói khẽ:
- Đừng quên tấm gương Trần Trọng Phương, người này có thể có năng lực như Trần Trọng Phương...
Những năm này, đã bao nhiêu lần Trần Khác chịu cảnh đối xử không công bằng? Ngân đài ti thu các tấu chương buộc tội hắn có thể xếp đầy một căn phòng. Tuy được quan gia che chở, nhưng nếu không phải hắn lập đại công nhiều lần, lại luôn cảnh giác, chỉ sợ mười Trần Khác cũng bị xé thành từng mảnh.
Triệu Trinh suy nghĩ một lát, cũng thấy không thể đỡ lên rồi đạp xuống nhân tài, nên không kiên trì nữa:
- Vậy thì chấm bậc ba.
Nói xong lấy bài tiếp theo.
- Xin bệ hạ tha thứ.
Trán Tư Mã Quang đổ chút mồ hôi, nói:
- Từ ngữ bài thứ hai này có chút thẳng thắn, bệ hạ cần phải chuẩn bị. . .
- Ha ha. . .
Triệu Trinh không quá để ý cười nói:
- Quả nhân mở khoa này gọi là “khoa Cực ngôn trực gián" (can gián thẳng thắn), không thẳng thắn làm sao can gián?
Nói rồi chỉ vào bài còn lại tiếp:
- Quả nhân ngay cả lời nói “thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua" nghe rồi, còn điều gì không thể tiếp thu chứ?
- Vâng.
Lúc này Tư Mã Quang mới tạm thấy an tâm một chút.
Triệu Trinh từ từ mở bài thi lấy tên hiệu ‘Chiên’ ra, liền thấy một kỳ văn kinh tâm động phách hiện ra trước mắt:
“Thần trịnh trọng trả lời. . . Tính thần vốn cuồng ngu, không biết kiêng kị. . . Bệ hạ viết đề sách: ‘Trẫm thừa kế ngôi vị tổ tông, tiên đế để lại, hết sức mờ mịt, chỉnh lý không rõ ràng.’ Thoạt nhìn có vẻ bệ hạ đang lo sợ nên nói như vậy. Nhưng thần cho rằng bệ hạ không có việc gì để lo sợ."
“Nếu bệ hạ muốn thần nói thẳng can gián, những lời như thế thật không dễ nghe, có chỗ nào phạm huý, mong bệ hạ thứ cho. Bệ hạ nói bệ hạ lo lắng quốc sự, thần cảm thấy bệ hạ không thật sự lo lắng!"
“Từ năm Bảo Nguyên đến Khánh Lịch, Tây Khương làm khó, ban ngày bệ hạ toạ bất an, ban đêm nghỉ bất an. Lúc này, khắp thiên hạ đều kêu bệ hạ lo lắng như Chu Văn Vương. Nhưng mà khi phía tây giải binh, bệ hạ bỏ sự lo lắng qua một bên, không trả thù, giờ đã hai mươi năm."
“Năm đó, khi Lý Nguyên Hạo làm loạn, bệ hạ sợ tới mức ban ngày ngồi không yên, buổi tối ngủ không được. Lúc đó bệ hạ mới thật sự lo lắng. Nhưng sau khi nghị hoà Khánh Lịch, ngừng chiến tranh với Tây Hạ, vết sẹo của bệ hạ liền hết đau, thoáng cái trôi qua hai mươi năm."
“Nay bệ hạ không có chuyện thì không lo, có chuyện thì rất sợ. Thần cho rằng bệ hạ sống không yên ổn. Không có chuyện gì thì tỏ ra vô tâm, có chuyện liền lo âu thấp thỏm, cho nên thần mới nói, căn bản bệ hạ không thật sự lo lắng."
Tiếp đến, tác giả lại chỉ trích hoàng đế sa vào nữ sắc, cũng kể ra sáu vị vua gây hoạ trong lịch sử cảnh cáo, nói: “Sáu vị vua này, không lo lắng trị an thiên hạ, luôn không cảnh giác, đắm chìm trong rượu, hoang đắm trong sắc, lên triều muộn bãi triều sớm, ngủ sớm dậy muộn, đại thần không thể nói, tiểu thần không cố can. Trước sau trái phải, lúc nào cũng bị bao quanh bởi các phu nhân, người nói lời ngay thẳng không nghe, chỉ nghe vợ."
- Người này nói ta thích làm gì thì làm, giống như những vị vua gây hoạ.
“Bệ hạ đến tuổi này, quý cơ trong cung dùng ngàn mà tính, ca múa uống rượu, sung sướng thất tiết, lên triều không nghe báo cáo, biệt điện không hề chú ý. Ngài là một gã dâm lạc không biết kiềm chế tửu sắc, lên triều vô tình, tâm không yên chính sự!"
“Lão đại ngài đừng tưởng chỉ làm mấy vị phụ nhân sẽ không ảnh hưởng đại sự quốc gia, hiện tại ‘trong nước khốn cùng, dân sinh than khổ’, nếu ngài làm bừa... chỉ sợ ngài sẽ khiến ‘dân tâm không còn hướng về’!"
Ngoài việc chỉ trích hoàng đế trầm mê nữ sắc hưởng lạc, người này còn chỉ trích hoàng đế: “Bệ hạ chọn quan không tốt, khiến dân chúng ở dưới chịu hại, không biết tố ai; bệ hạ thu thuế nặng nề, dân chúng ngày thêm nghèo khó, quần áo không đủ che thân. Quan lại vô tâm, còn có thể đổi người; thu thuế vô tâm thì trách tội ai?"
Trách tội ai? Đương nhiên là ngài!
Người này còn chỉ trích hoàng đế lãng phí, đặt sưu cao thế nặng, dân sinh khốn khổ.
Lại chỉ trích hoàng đế ‘vì hư danh mà không biết làm chính sự’, nói: “Thần xem ý bệ hạ, có lẽ muốn Sử Quan lưu lại danh tiếng đẹp cho người đời sau, vậy thần cho rằng bệ hạ quá chú ý hư danh. . ."
Đọc thầm đoạn này, Triệu Trinh chảy mồ hôi đầm đìa, mặt mo đỏ bừng. Người này thật sự không biết kiêng nể gì cả, thà nói chuyện giật gân còn được, có vài chỗ chỉ trích như ngấm sâu vào trong xương tuỷ, vạch trần chút tâm tư bí ẩn của Triệu Trinh, phê phán vô cùng tinh tế!
Tuy Triệu Trinh cố gắng làm cho phẩm chất của mình thật tốt, nhưng ngày xưa đám đại thần chỉ trích không đến nơi đến chốn, có ai dám vạch trần lão thanh tĩnh không làm gì, đeo mặt nạ đi can gián, mang một bụng truy cầu danh tiếng, qua loa hưởng nhàn lộ rõ ra giữa thiên hạ?
Người này có thể nói là người đầu tiên trong trăm năm qua!
Một lúc lâu, Triệu Trinh mới lấy lại tinh thần, nhưng không dám nhìn bài thi này nữa, hỏi Tư Mã Quang:
- Ngươi cho rằng bài này đáng chấm bậc ba?
Trước đó Tư Mã Quang có chút hiểu ý nghĩ của vua mới lựa bài thi này ra, nhưng bây giờ thấy mặt hoàng đế đỏ như đít khỉ, trong lòng lại không chắc chắn, liền nói khẽ:
- Vi thần cho rằng, bên trong cái ngôn từ đạm mạc mênh mông của bài thi này có chứa một tác phong chính trực, tuy người này nói có hơi bất công, nhưng là thí sinh duy nhất thể hiện ‘hết sức nói thẳng can gián’, một trái tim khẩn thiết can gián bệ hạ, cho nên thần nghĩ đáng chấm bậc ba, biểu thị tấm lòng cầu người can gián của bệ hạ!
Dừng một lát nói:
- Nhưng Đường Trung Thừa không tán thành, cho rằng người này đang nói xấu vua, thẳng thừng gạt sang không chọn.
Tuy nhìn qua là để cho hoàng đế chọn, nhưng Triệu Trinh có thể nói “Không thể lấy tên này, gã mắng ta quá thảm" sao? Đem mặt mũi hoàng đế đặt đâu?
Nhưng nếu chọn bài thi này, tức phải phát ra thiên hạ, mấy chục năm mình cố gắng tạo dựng thanh danh chẳng phải liền huỷ trong chốc lát?
Nghĩ vậy, Triệu Trinh không khỏi tự giễu, ta quả đúng là người mua danh cầu lợi . . .
- Vi thần muốn chúc mừng bệ hạ.
Tư Mã Quang thấy hoàng đế chậm chạp không chịu mở miệng, liền chắp tay trầm giọng nói:
- Năm xưa Đường Thái Tông có Nguỵ Chinh mới thành Trinh Quán (niên hiệu vua Đường Thái Tông), bây giờ bệ hạ vì con cháu, tìm được Nguỵ Chinh của Đại Tống!
Được Tư Mã Quang nhắc nhở, Triệu Trinh mới nhớ tói nguyện vọng của mình, sắc mặt có chút dịu đi nói:
- Đúng vậy, quả nhân mở khoa thi này, không phải hi vọng có người hết sức nói thẳng can gián sao? Bây giờ đã có người như thế, quả nhân không phải tìm được “rồng Diệp Công thích" rồi!
Nói xong khoát tay:
- Nhưng ngươi cùng Đường Giới tính lại, xem xem phù hợp bậc mấy?
- Vâng.
Tư Mã Quang cầm lấy bài thi lui ra, không khỏi âm thầm cảm thán, bệ hạ thật sự rất có hàm dưỡng, nếu đổi một vị hoàng đế khác, chắc Tô Triệt cũng đã bị tống vào ngục. . . Vị hoàng đế này thật tốt, không hề tức giận.
Có đại sư chào hàng Tô Tuân, tất nhiên Tư Mã Quang không xa lạ gì văn phong của anh em Tô gia, so với ngôn từ bừa bãi, khách quan, không quá câu nệ của Đại Tô, y lại thích cái ngôn từ hơi kém một chút nhưng có phong thái quân tử của Tiểu Tô, hơn nữa cách làm người của Tiểu Tô cũng giống như y. Tư Mã Quang thầm nghĩ, nếu như chính mình tham gia cuộc thi lần này..., cũng sẽ trả lời như thế.
Trở lại Điện Sùng Chính, Tư Mã Quang bàn bạc với Đường Giới, hai người đều lùi một bước, vì vậy đổi thành bậc bốn.
Đã sắp xếp được thứ tự, khoa này lấy sáu người. Nhưng khi ghi bảng vàng, quan sơ khảo Hồ Túc không làm. Y kiên trì cho rằng Tô Triệt trả lời không đúng đề, đến nỗi làm loạn cả thời thịnh của hoàng thượng, tận lực yêu cầu huỷ bỏ kết quả!
‘Thần’, ‘Chiên’ là tên ký hiệu bài thi sau khi chép lại.
- Thế à.
Nghe có tới hai người đạt bậc ba, Triệu Trinh liền cảm thấy hứng thú, nói:
- Đưa quả nhân xem.
- Vâng.
Tư Mã Quang mang hai bài thi “dự tính bậc ba" trình lên.
Triệu Trinh cầm lên một bài, nheo mắt nhìn qua:
“Thần trịnh trọng trả lời: thần nghe thiên hạ không có việc gì, thì các bậc quyền quý nói nhẹ như lông hồng; thiên hạ xảy ra chuyện, thì người bình thường nói nặng như Thái Sơn. Không có trí tuệ tức không có năng lực, nơi bộc lộ công khai lại không quan sát kỹ, tình thế khó khăn lại càng đặc biệt vậy. . ."
Triệu Trinh cảm giác được câu từ bài này hoàn toàn tự nhiên, nhiều màu sắc phong phú. Giữa những hàng chữ ẩn chứa sức sống và tài văn chương vô tận, đáng quý ở chỗ, tác giả thể hiện một trái tim chân thành, không hề có chút khoe khoang trước mặt mình.
“Bởi vì ngày trôi qua, nên khoẻ mạnh, năm tháng đi tới, nên rõ ràng; dòng nước chảy hàng ngày, nên vô tận; tay chân con người hoạt động, nên không tật; bộ máy dùng hàng ngày, nên không mọt; thiên hạ, là đại vật (vật ở đây ý chỉ các loài trong trời đất). Để lâu không dùng, thì là đồ vô dụng, như thế chỉ càng tệ hơn mà thôi.’
Triệu Trinh vừa lớn tiếng đọc vừa khen:
- Văn chương của người này có thể sánh bằng Hàn Liễu.
Khi đọc đến ‘Thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua’, người bên cạnh đều biến sắc, Triệu Trinh cất tiếng cười to nói:
- Dám nói thẳng!
Đọc xong, cuốn lại bài thở dài:
- Đại Tống thật may mắn khi có người này, chấm bậc hai!
- Xin bệ hạ nghĩ lại, từ trước tới nay bậc hai không hề có tác dụng gì, dù là kỳ tài ngút trời cũng không nên phá lệ.
Tư Mã Quang nói khẽ:
- Đừng quên tấm gương Trần Trọng Phương, người này có thể có năng lực như Trần Trọng Phương...
Những năm này, đã bao nhiêu lần Trần Khác chịu cảnh đối xử không công bằng? Ngân đài ti thu các tấu chương buộc tội hắn có thể xếp đầy một căn phòng. Tuy được quan gia che chở, nhưng nếu không phải hắn lập đại công nhiều lần, lại luôn cảnh giác, chỉ sợ mười Trần Khác cũng bị xé thành từng mảnh.
Triệu Trinh suy nghĩ một lát, cũng thấy không thể đỡ lên rồi đạp xuống nhân tài, nên không kiên trì nữa:
- Vậy thì chấm bậc ba.
Nói xong lấy bài tiếp theo.
- Xin bệ hạ tha thứ.
Trán Tư Mã Quang đổ chút mồ hôi, nói:
- Từ ngữ bài thứ hai này có chút thẳng thắn, bệ hạ cần phải chuẩn bị. . .
- Ha ha. . .
Triệu Trinh không quá để ý cười nói:
- Quả nhân mở khoa này gọi là “khoa Cực ngôn trực gián" (can gián thẳng thắn), không thẳng thắn làm sao can gián?
Nói rồi chỉ vào bài còn lại tiếp:
- Quả nhân ngay cả lời nói “thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua" nghe rồi, còn điều gì không thể tiếp thu chứ?
- Vâng.
Lúc này Tư Mã Quang mới tạm thấy an tâm một chút.
Triệu Trinh từ từ mở bài thi lấy tên hiệu ‘Chiên’ ra, liền thấy một kỳ văn kinh tâm động phách hiện ra trước mắt:
“Thần trịnh trọng trả lời. . . Tính thần vốn cuồng ngu, không biết kiêng kị. . . Bệ hạ viết đề sách: ‘Trẫm thừa kế ngôi vị tổ tông, tiên đế để lại, hết sức mờ mịt, chỉnh lý không rõ ràng.’ Thoạt nhìn có vẻ bệ hạ đang lo sợ nên nói như vậy. Nhưng thần cho rằng bệ hạ không có việc gì để lo sợ."
“Nếu bệ hạ muốn thần nói thẳng can gián, những lời như thế thật không dễ nghe, có chỗ nào phạm huý, mong bệ hạ thứ cho. Bệ hạ nói bệ hạ lo lắng quốc sự, thần cảm thấy bệ hạ không thật sự lo lắng!"
“Từ năm Bảo Nguyên đến Khánh Lịch, Tây Khương làm khó, ban ngày bệ hạ toạ bất an, ban đêm nghỉ bất an. Lúc này, khắp thiên hạ đều kêu bệ hạ lo lắng như Chu Văn Vương. Nhưng mà khi phía tây giải binh, bệ hạ bỏ sự lo lắng qua một bên, không trả thù, giờ đã hai mươi năm."
“Năm đó, khi Lý Nguyên Hạo làm loạn, bệ hạ sợ tới mức ban ngày ngồi không yên, buổi tối ngủ không được. Lúc đó bệ hạ mới thật sự lo lắng. Nhưng sau khi nghị hoà Khánh Lịch, ngừng chiến tranh với Tây Hạ, vết sẹo của bệ hạ liền hết đau, thoáng cái trôi qua hai mươi năm."
“Nay bệ hạ không có chuyện thì không lo, có chuyện thì rất sợ. Thần cho rằng bệ hạ sống không yên ổn. Không có chuyện gì thì tỏ ra vô tâm, có chuyện liền lo âu thấp thỏm, cho nên thần mới nói, căn bản bệ hạ không thật sự lo lắng."
Tiếp đến, tác giả lại chỉ trích hoàng đế sa vào nữ sắc, cũng kể ra sáu vị vua gây hoạ trong lịch sử cảnh cáo, nói: “Sáu vị vua này, không lo lắng trị an thiên hạ, luôn không cảnh giác, đắm chìm trong rượu, hoang đắm trong sắc, lên triều muộn bãi triều sớm, ngủ sớm dậy muộn, đại thần không thể nói, tiểu thần không cố can. Trước sau trái phải, lúc nào cũng bị bao quanh bởi các phu nhân, người nói lời ngay thẳng không nghe, chỉ nghe vợ."
- Người này nói ta thích làm gì thì làm, giống như những vị vua gây hoạ.
“Bệ hạ đến tuổi này, quý cơ trong cung dùng ngàn mà tính, ca múa uống rượu, sung sướng thất tiết, lên triều không nghe báo cáo, biệt điện không hề chú ý. Ngài là một gã dâm lạc không biết kiềm chế tửu sắc, lên triều vô tình, tâm không yên chính sự!"
“Lão đại ngài đừng tưởng chỉ làm mấy vị phụ nhân sẽ không ảnh hưởng đại sự quốc gia, hiện tại ‘trong nước khốn cùng, dân sinh than khổ’, nếu ngài làm bừa... chỉ sợ ngài sẽ khiến ‘dân tâm không còn hướng về’!"
Ngoài việc chỉ trích hoàng đế trầm mê nữ sắc hưởng lạc, người này còn chỉ trích hoàng đế: “Bệ hạ chọn quan không tốt, khiến dân chúng ở dưới chịu hại, không biết tố ai; bệ hạ thu thuế nặng nề, dân chúng ngày thêm nghèo khó, quần áo không đủ che thân. Quan lại vô tâm, còn có thể đổi người; thu thuế vô tâm thì trách tội ai?"
Trách tội ai? Đương nhiên là ngài!
Người này còn chỉ trích hoàng đế lãng phí, đặt sưu cao thế nặng, dân sinh khốn khổ.
Lại chỉ trích hoàng đế ‘vì hư danh mà không biết làm chính sự’, nói: “Thần xem ý bệ hạ, có lẽ muốn Sử Quan lưu lại danh tiếng đẹp cho người đời sau, vậy thần cho rằng bệ hạ quá chú ý hư danh. . ."
Đọc thầm đoạn này, Triệu Trinh chảy mồ hôi đầm đìa, mặt mo đỏ bừng. Người này thật sự không biết kiêng nể gì cả, thà nói chuyện giật gân còn được, có vài chỗ chỉ trích như ngấm sâu vào trong xương tuỷ, vạch trần chút tâm tư bí ẩn của Triệu Trinh, phê phán vô cùng tinh tế!
Tuy Triệu Trinh cố gắng làm cho phẩm chất của mình thật tốt, nhưng ngày xưa đám đại thần chỉ trích không đến nơi đến chốn, có ai dám vạch trần lão thanh tĩnh không làm gì, đeo mặt nạ đi can gián, mang một bụng truy cầu danh tiếng, qua loa hưởng nhàn lộ rõ ra giữa thiên hạ?
Người này có thể nói là người đầu tiên trong trăm năm qua!
Một lúc lâu, Triệu Trinh mới lấy lại tinh thần, nhưng không dám nhìn bài thi này nữa, hỏi Tư Mã Quang:
- Ngươi cho rằng bài này đáng chấm bậc ba?
Trước đó Tư Mã Quang có chút hiểu ý nghĩ của vua mới lựa bài thi này ra, nhưng bây giờ thấy mặt hoàng đế đỏ như đít khỉ, trong lòng lại không chắc chắn, liền nói khẽ:
- Vi thần cho rằng, bên trong cái ngôn từ đạm mạc mênh mông của bài thi này có chứa một tác phong chính trực, tuy người này nói có hơi bất công, nhưng là thí sinh duy nhất thể hiện ‘hết sức nói thẳng can gián’, một trái tim khẩn thiết can gián bệ hạ, cho nên thần nghĩ đáng chấm bậc ba, biểu thị tấm lòng cầu người can gián của bệ hạ!
Dừng một lát nói:
- Nhưng Đường Trung Thừa không tán thành, cho rằng người này đang nói xấu vua, thẳng thừng gạt sang không chọn.
Tuy nhìn qua là để cho hoàng đế chọn, nhưng Triệu Trinh có thể nói “Không thể lấy tên này, gã mắng ta quá thảm" sao? Đem mặt mũi hoàng đế đặt đâu?
Nhưng nếu chọn bài thi này, tức phải phát ra thiên hạ, mấy chục năm mình cố gắng tạo dựng thanh danh chẳng phải liền huỷ trong chốc lát?
Nghĩ vậy, Triệu Trinh không khỏi tự giễu, ta quả đúng là người mua danh cầu lợi . . .
- Vi thần muốn chúc mừng bệ hạ.
Tư Mã Quang thấy hoàng đế chậm chạp không chịu mở miệng, liền chắp tay trầm giọng nói:
- Năm xưa Đường Thái Tông có Nguỵ Chinh mới thành Trinh Quán (niên hiệu vua Đường Thái Tông), bây giờ bệ hạ vì con cháu, tìm được Nguỵ Chinh của Đại Tống!
Được Tư Mã Quang nhắc nhở, Triệu Trinh mới nhớ tói nguyện vọng của mình, sắc mặt có chút dịu đi nói:
- Đúng vậy, quả nhân mở khoa thi này, không phải hi vọng có người hết sức nói thẳng can gián sao? Bây giờ đã có người như thế, quả nhân không phải tìm được “rồng Diệp Công thích" rồi!
Nói xong khoát tay:
- Nhưng ngươi cùng Đường Giới tính lại, xem xem phù hợp bậc mấy?
- Vâng.
Tư Mã Quang cầm lấy bài thi lui ra, không khỏi âm thầm cảm thán, bệ hạ thật sự rất có hàm dưỡng, nếu đổi một vị hoàng đế khác, chắc Tô Triệt cũng đã bị tống vào ngục. . . Vị hoàng đế này thật tốt, không hề tức giận.
Có đại sư chào hàng Tô Tuân, tất nhiên Tư Mã Quang không xa lạ gì văn phong của anh em Tô gia, so với ngôn từ bừa bãi, khách quan, không quá câu nệ của Đại Tô, y lại thích cái ngôn từ hơi kém một chút nhưng có phong thái quân tử của Tiểu Tô, hơn nữa cách làm người của Tiểu Tô cũng giống như y. Tư Mã Quang thầm nghĩ, nếu như chính mình tham gia cuộc thi lần này..., cũng sẽ trả lời như thế.
Trở lại Điện Sùng Chính, Tư Mã Quang bàn bạc với Đường Giới, hai người đều lùi một bước, vì vậy đổi thành bậc bốn.
Đã sắp xếp được thứ tự, khoa này lấy sáu người. Nhưng khi ghi bảng vàng, quan sơ khảo Hồ Túc không làm. Y kiên trì cho rằng Tô Triệt trả lời không đúng đề, đến nỗi làm loạn cả thời thịnh của hoàng thượng, tận lực yêu cầu huỷ bỏ kết quả!
Theo như quy định, nếu quan sơ khảo không kí tên, bài thi sẽ không được chấp nhận, không được chấp nhận thì không được ghi tên lên bảng vàng. Vì thế, Tư Mã Quang đã tranh luận kịch liệt với Hồ Túc. Hồ Túc là quan Tu khởi cư chú tiền nhiệm, tự cho mình là tiền bối, căn bản không cần xem mặt, cuối cùng không có biện pháp, chỉ có thể bàn giao lên trên.
Triệu Trinh tự đánh mặt mình một lần là đủ rồi, sẽ không có lần thứ hai, nếu không cũng có chút hèn. Vì vậy y lệnh cho các mệnh quan triều đình xác định thứ tự người này.
Kết quả ý kiến của Trung Xu là tùy theo quan sơ khảo, cũng chính là ý kiến của Hồ Túc - truất bỏ bài thi này…
Biết Trung Xu không đồng ý xếp bậc cho Tô Triệt, Tư Mã Quang lập tức thượng tấu nói:
“Thần thiết nghĩ quốc gia tổ chức thi đại khoa là muốn tìm được những người tri thức có tài trí sâu rộng, không dùng văn từ hoa mỹ, là bậc hiền đức với kiến thức uyên bác. Thần không dám nói về văn từ của thí sinh ‘Chiên’, nhưng thần thấy người này không hề băn khoăn mà chỉ ra chỗ sai chỗ dở của triều đình, là người nói thẳng nhất trong tất cả các thí sinh. Nay nếu dùng lý do đấy mà đánh giá, thần sợ mọi người trong thiên hạ đều nghĩ triều đình tổ chức một khoa thi nói thẳng can gián chỉ để làm bộ. Còn thí sinh ‘Chiên’ bị truất bài thi chỉ vì nói thẳng, nếu từ nay về sau khắp nơi khi nói đều sợ phạm huý thì thật sự làm tổn hại đến phẩm hạnh và sự công minh của thánh thượng!"
Tấu chương của Tư Mã Quang dâng lên, Hồ Túc cũng dâng thư với từ ngữ ác liệt, nói người này mượn cớ công kích hoàng thượng, công kích tình hình chính trị bây giờ mà nâng chính mình lên, rõ ràng có mưu đồ mua danh chuộc tiếng, những người như thế không chém đầu là còn may, tất nhiên càng không thể trúng tuyển.
Sự việc còn kinh động đến cả Trung Xu, Hàn tướng công, Tằng tướng công cũng ủng hộ Hồ Túc, cho rằng không thể phá lệ, nếu không ngày sau sẽ ‘có nhiều tội đồ nói xấu quân thượng, mượn núi Chung Nam làm đường tắt lên làm quan*’!
(*Một tích của Trung Quốc, thời Đường, một người vì muốn làm quan nên giả vờ làm ẩn sĩ dọn đến ở núi Chung Nam gần kinh đô Trường An, sau này đã lừa được vua mời ra làm quan.)
Nhưng người ủng hộ Tư Mã Quang cũng không ít, Phú tướng công, Âu Dương Tu, Bao Chửng, đều cho rằng trăm năm qua vì việc “nói không bị trị tội" mới tạo thành tính nói thẳng can gián của sĩ phu. Hôm nay lấy lý do đó mà truất bài của thí sinh, sợ rằng sẽ làm tổn hại thánh đức!
Vì thế hai phe không ngừng tranh chấp, theo lệ cũ của triều đình Bắc Tống, khi một phe không thể thuyết phục một phe khác, cũng không bị một phe khác thuyết phục, thì đành phải đá quả bóng sang chân Triệu Trinh.
Triệu Trinh đành phải ngự phê: “Cầu nói thẳng mà lại chối bỏ, thiên hạ xem ta ra gì!’
Vì vậy bài thi được xếp vào bậc bốn.
Nhưng tranh đấu vẫn tiếp tục, Tri Chế Cáo Vương An Thạch đã lên tiếng. Cho dù người này thi đậu, cũng đừng mơ lấy được chiếu thư bổ nhiệm trong tay y!
Trong cái cảnh ồn ào này, vua và dân vô cùng tò mò muốn biết cái người trẻ tuổi dám lên án cả thiên hạ này là ai, nhất thời, không còn ai chú ý đến bốn thí sinh bậc bốn còn lại, ngay cả danh tiếng của thí sinh bậc ba thứ hai trong vòng trăm năm qua cũng bị y chiếm hết.
Dưới sự chú ý của hơn vạn người, tên của thí sinh này cuối cùng cũng được bộc lộ, thì ra vị tiên sinh không sợ chết này họ Tô tên Triệt tự Tử Do!
Mà thí sinh được xếp bậc ba chính là anh trai ruột của y, Tô Thức, bốn người còn lại là Vương Giới, Trần Thung, Đặng Oản, Lã Huệ Khanh. . . Trong đình hoa viên Trần phủ, Trần Khác và Tô Triệt ngồi đối diện nhau.
Anh em Tô gia đều đậu cao, có thể nói là giai thoại thiên cổ, thật đáng mừng, nhưng trên mặt hai người lúc này lại không hề có nửa phần vui mừng.
- Dù nói gì đi nữa, trong sáu người được xếp bậc thì Gia Hữu Học Xã chúng ta có năm người, tóm lại là toàn thắng.
Tô Triệt mặc một chiếc nho bào màu xanh da trời, sắc mặt không được tốt lắm.
- Đúng vậy
Trần Khác gật đầu cười nói:
- Khoa này đối với chúng ta là một bước tiến.
Nói xong nhẹ giọng hỏi:
- Bây giờ nhạc phụ thế nào?
- Cha ta tức điên lên.
Tô Triệt cười khổ nói:
- Ta ở nhờ nhà ngươi mấy ngày, đợi ông ấy hết giận rồi trở về.
- Cứ thoải mái.
Trần Khác gật đầu, nói khẽ:
- Việc lần này khá ồn ào nhưng thật ra là có người mượn cớ gây chuyện. Ngươi xem đi, sự việc càng về sau càng lớn, ngươi phải cố chịu qua khoảng thời gian này.
- Hắc. . .
Tô Triệt xoa mặt nói:
- Ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục?
- Cũng không cần quá lo lắng. Ngươi chỉ cần tĩnh tâm đọc sách, không phải để ý chuyện bên ngoài, không học người bình thường tìm phiền phức.
Trần Khác cười nói:
- Chuyện còn lại cứ giao cho ta đi.
- Ừm.
Tô Triệt gật đầu, cười nói:
- Hi vọng ta ‘chết’ có chút giá trị.
- Rất có giá trị!
Trần Khác gật đầu quả quyết, nói:
- Chúng ta rất muốn cảm ơn ngươi!
Hiện tại Triệu Tông Tích còn ở Quảng Tây. Trần Khác ở kinh thành bước đi rất khó, mặc kệ là ai nhìn vào, bọn họ sẽ không chủ động khiêu khích trước.
Nhưng nếu biết không thể tránh được tranh đấu, hơn nữa đối phương nhất định sẽ chủ động gây khó dễ, vậy biện pháp tốt nhất chính là ra tay trước để chiếm ưu thế. Tại nơi mà mình chiếm ưu thế, đánh một trận chiến mà mình chắc thắng!
Lúc trước sau khi cân nhắc lợi và hại, Trần Khác đồng ý phương châm nói thẳng can gián của Tô Triệt. Hắn biết rõ tại thời điểm nhạy cảm như vậy, với thân phận của Tô Triệt ở trong thi Ngự làm sách luận nói thẳng quân thượng, công kích tình hình chính trị bấy giờ, tất nhiên đối phương cho rằng đây là cơ hội tốt trời cho, sẽ đuổi đánh tới cùng!
Không hi sinh một đứa trẻ thì không bắt được sói. Sở dĩ Trần Khác dám lấy cậu em vợ làm mồi là vì có Tư Mã Quang cung cấp tình báo quý giá, hắn biết rõ tâm cảnh của Triệu Trinh bị đan xen bởi trách nhiệm cùng tự trách nên mới ra đề sách như chiếu thư nhận tội.
Nhưng hai vào hai ra của Trung Xu lại công kích khiến đảng Triệu Tông Thực lâm vào sợ hãi cùng phẫn nộ, bọn họ muốn làm gì đó thật gấp để thay đổi tình trạng suy sụp này, đồng thời chứng minh với người trong thiên hạ rằng mọi thứ vẫn được nắm giữ!
Cho nên bọn họ không có tâm tư đâu mà suy nghĩ đến nỗi khổ tâm của Triệu Trinh, bọn họ chỉ thấy Tô Triệt là cậu em vợ Trần Khác, cho rằng bài luận của Tô Triệt là ý của đảng Triệu Tông Tích, tụ tập những người bất mãn về triều chính, không có được lợi ích từ Triệu Tông Thực. Cho nên họ đến tranh luận, giống như một con bò đực thấy vải đỏ liền hung dữ đâm vào!
Bọn họ hoàn toàn không để ý câu ngự phê của Triệu Trinh, ‘cầu nói thẳng mà lại chối bỏ, thiên hạ xem ta ra gì’, cho rằng hoàng đế chỉ nói mấy câu lấy mặt mũi. Họ không biết, Triệu Trinh đã quyết tâm thay đổi cái không khí sống được ngày nào hay ngày ấy của Đại Tống suốt hai mươi năm qua, vì vị vua tương lai thúc đẩy cải cách, trải phẳng đường.
Trong tình huống này, lưu lại Tô Triệt không phải vì vấn đề cá nhân của Triệu Trinh, mà nó quan hệ đến hướng đi của quốc sách.
Tiếp tục sống tạm hay bắt đầu tỉnh lại? Cho dù Triệu Trinh có mềm yếu cũng không thể giống xe tuột xích ngay từ đầu được. Nên dù khó chịu, Triệu Trinh cũng kiên định che chở Tô Triệt.
Dưới tình hình như thế, khó tránh khỏi Triệu Trinh nghĩ việc bọn họ không buông tha một nhân vật nhỏ như Tô Triệt là để bảo vệ dấu hiệu ‘hưng thịnh’ giả tạo, ngăn cản chính mình trải đường cho cải cách.
Chỉ cần một ngày bọn Triệu Tông Thực chưa ý thức đến điểm này thì sẽ tiếp tục tấn công Tô Triệt. Bọn họ không biết đối thủ của họ đã theo phe Trần Khác, lặng lẽ biến thành hoàng đế Triệu Trinh!
Bọn họ cho rằng công kích cờ hiệu giữ gìn tôn nghiêm hoàng đế thì có thể đuổi đánh tới cùng, nhưng lại quên chính mình đã khiêu khích quyền uy hoàng đế trước. Tô Triệt là người quan gia ngự phê, bọn họ lại nhất định phải làm Tô Triệt xong đời, đây không phải là bỏ qua quyền uy của quan gia thì là gì?
Trần Khác thi triển ‘vật đổi sao dời’ là năng lực từ trước tới nay hắn đắc ý nhất.
Đương nhiên chỉ có một mình hắn thì không thể hoàn thành chiến dịch này được. Ngoại trừ Tô Triệt với tư cách mồi nhử, Tư Mã Quang người được hoàng đế tin cậy có tác dụng cực kỳ quan trọng.
Không có tin tức Tư Mã Quang đưa thì Trần Khác không thể lập kế hoạch; không có quan Tường Định Tư Mã Quang, Tô Triệt sẽ không được tuyển chọn; không có Tư Mã Quang dùng từ ngữ khéo léo giảng giải cho hoàng đế, Triệu Trinh sẽ không xem Tô Triệt thành người mở rộng tiêu chí ngôn luận và cầu biến ích lợi cho mình.
Có thể thấy năm đó kết giao Tư Mã Quang là một nước cờ trọng yếu như thế nào. . . Theo như quy chế, sau khi tuyển chọn Chế Khoa liền trao quan, không được kéo dài.
Hơn nữa cấp bậc nào được chức quan gì đều đã định sẵn. Ý chỉ truyền xuống rất nhanh, Tô Thức được làm Bình sự Đại Lý, Phán quan thiêm thư phủ Phượng Tường. Năm người Tô Triệt thì làm Bí thư tỉnh Hiệu thư lang, đẩy Tô Triệt đến Thương Châu làm quan, bốn người Vương Giới thì ở lại Biện Kinh chờ phân công.
Bởi vì quan viên triều Tống nhất định phải có kinh nghiệm địa phương thì mới có thể nhậm chức ở triều đình. Tô Thức và Tô Triệt thiếu kinh nghiệm này nên cần phải bổ sung, ý muốn bảo vệ Tô Triệt đứng phía trước chịu trận rất rõ ràng.
Chiếu thư của năm người khác truyền xuống rất nhanh nhưng đến Tô Triệt lại bị ngăn chặn, Tri Chế Cáo Vương An Thạch cho là lão bao che Tể tướng, chủ định tấn công người, không chịu viết.
Hoàng đế tự mình hạ lệnh bổ nhiệm lại bị chính thư ký ngăn cản, ở triều đại khác là chuyện không tưởng nhưng ở triều Tống lại quá quen thuộc.
Bởi vì ngày trước lúc Triệu Khuông Dận và Triệu Phổ đặt ra chế độ, không chỉ tập trung quản thúc văn võ, cũng nghĩ về việc xuất hiện một vị hôn quân làm chủ. Để tránh giang sơn của mình bị con cháu chà đạp, Triệu Khuông Dận dùng hoàng quyền đặt ra hạn chế nặng nề, đại biểu lớn nhất là giao cho hai Chế Quan quyền lực “phong hoàn từ đầu".
Cái gọi là “từ đầu" chính là thủ dụ của hoàng đế. Trên lý luận, “từ đầu" không có hiệu lực về pháp luật, chỉ có hai Chế Quan từ “từ đầu" ghi thành chiếu thư chính thức mới cóhiệu lực. Nếu hai Chế Quan cảm thấy ý chỉ không ổn, họ có quyền đem “từ đầu" phong trả, không ghi chiếu thư, để cho lời nói của hoàng đế biến thành không khí.
Tất nhiên không phải ai cũng có dũng khí dùng cái quyền phong trả này, đây là gọt mặt mũi hoàng đế, vả miệng hoàng đế. Cái quyền lực này chỉ có ở trong tay khúc xương cứng Vương An Thạch mới có thể phát huy tác dụng của nó.
Chỉ là chẳng ai ngờ Vương An Thạch lại tiêu diệt Tô Triệt. Mọi người đều biết quan hệ giữa con trai y với Nhị Tô và Trần Khác không tệ, cộng thêm người đảng Tân Học luôn tạo thế cho Triệu Tông Tích, rất nhiều người đều suy đoán có phải là Vương An Thạch đã trở thành người bên Triệu Tông Tích?
Ai có thể ngờ y lại đập chết Tô Triệt không chút lưu tình. Đây cuối cùng là nội chiến hay thật ra y không hề kết đảng?
Nhìn “từ đầu" bị trả về, Triệu Trinh cười nói với Tư Mã Quang:
- Người bạn tốt của ngươi thật đúng là không cho ngươi mặt mũi.
- Vương Giới Phủ là quân tử đạo đức...
Tư Mã Quang lộ ra một nụ cười khổ nói:
- Trong mắt y, dù là nhân tình thể diện, nhưng so với pháp luật triều đình thì không đáng nhắc tới.
- Y là quân tử đạo đức, vậy ngươi là gì?
Triệu Trinh cười thưởng thức, hỏi.
- Vi thần cũng luôn lấy tiêu chuẩn quân tử đạo đức...
Trí tuệ của Tư Mã Quang đủ cho y đối phó bất cứ điều khó dễ nào:
- Để yêu cầu chính mình.
- Vậy thì lạ thật...
Triệu Trinh cười nói:
- Hai quân tử đạo đức tại sao lại đấu đá lẫn nhau?
- Điều này rất bình thường.
Tư Mã Quang thản nhiên nói:
- Chính kiến bất đồng mà thôi.
- Ha ha.
Triệu Trinh cười đầy ẩn ý nói:
- Rất nhiều người còn nghĩ các ngươi chung một đảng đây này.
- Đạo của quân tử, bầy mà không đảng.
Tư Mã Quang nghiêm mặt nói:
- Nhìn lòng người lâu ngày, lời đồn sẽ tự sụp đổ!
- Không sai.
Triệu Trinh thoả mãn gật đầu nói:
- Quả nhân đối với Quân Thực ngươi vẫn rất yên tâm.
Nói xong cười tiếp:
- Còn Vương Giới Phủ, tuy gan lớn lại bướng bỉnh, nhưng hẳn y cũng không dám loạn pháp làm bậy...
- Nghe nói Vương An Thạch từ chối viết chế từ?
Trong phòng Chính Sự Đường Tập Hiền Tướng, Hàn Kỳ đang hỏi vị Tri Chế Cáo Thẩm Cấu.
Thẩm Cấu là Bảng Nhãn năm Hoàng Hữu thứ nhất. Y nhỏ hơn Vương An Thạch năm tuổi, con đường làm quan cũng tươi sáng hơn rất nhiều. Thẩm Cấu nghe thấy vậy liền cung kính nói:
- Vâng, “từ đầu" đã phong trả Hoàng thượng rồi.
- Có chút thú vị.
Trong suy nghĩ của những người không rõ chân tướng, Hàn Kỳ những năm gần đây dường như giấu tài, vô thanh vô tức. Kỳ thực ở trong Chính Sự Đường, ông ta vẫn giữ được vị thế vững chắc.
Có lẽ sống trong quân đội quá lâu, chịu ảnh hưởng từ tính cách thô dã của binh lính, cho nên dù đã lên làm chức Tể tướng, Hàn Kỳ nói chuyện vẫn tràn đầy ngữ điệu của binh nghiệp. Ngay cả trước mặt cấp trên của ông ta là Thủ tướng Phú Bật cũng không có ý kiềm chế.
Có một lần ở trong Chính Sự Đường, hai người vì một việc mà tranh cãi không dứt. Theo lý thuyết Phú Bật là thượng cấp, ngươi và thượng cấp tranh chấp, bản thân đã là sai, nhưng Hàn Kỳ lại không cho là như vậy. Tranh cãi đến đỉnh điểm, đột nhiên ông ta thốt ra một câu:
- Lải nhải điếc cả tai!
Phú Bật ngay lập tức thay đổi sắc mặt. Những từ này chỉ dùng cho phố phường cãi nhau, người có học sẽ không nói, vậy mà lại xuất hiện trong miệng của đường đường Tể tướng Đại Tống. Như vậy chính phủ cao nhất của quốc gia chả phải thành cái chợ sao? Dù Phú tướng công là người giỏi kiềm chế cũng phải tức giận đến đỏ mặt, quát một tiếng:
- Ngươi vừa nói cái gì?
Hàn Kỳ chỉ bĩu môi, không giải thích thêm…
Kỳ thực, những người quen biết Hàn Kỳ đều biết rằng, khi Hàn tướng công ở Xu Mật Viện không phải là người như vậy. Khi đó ông ta thanh cao giống như chim bay trên trời, băng tuyết trên đỉnh núi, làm người còn quân tử hơn cả Phú Bật. Chỉ khi chuyển tới Đông phủ mới bắt đầu bị lây nhiễm tính cách của quân đội.
Tú tài gặp binh, có lý nhưng không nói ra được. Có lẽ Hàn tướng công là rơi vào trong trường hợp này.
……
Hiện tại, Hàn tướng công đang ngồi ở sau bàn làm việc, khoanh tay híp mắt nói:
- Ngươi cảm thấy thế nào?
Thẩm Cấu cung kính nói:
- Vương Giới Phủ làm người bướng bỉnh, đã nhận thức đúng cái gì, khó mà có thể thay đổi.
- Hừ…
Hàn Kỳ cười lạnh nói:
- Ngươi thực sự tin rằng, những việc mà con trai y làm không có liên quan gì tới y sao?
- Con của y đã làm cái gì?
Thẩm Cấu sửng sốt hỏi.
- Không có gì.
Hàn Kỳ mới ý thức được đối phương cũng không hiểu rõ tình hình. Chỉ lắc đầu, trầm giọng nói:
- Vương An Thạch không đơn giản như ngươi nghĩ. Lý do y không chịu soạn từ là vì Tô Triệt Bao che Tể tướng, công kích nhân chủ’. Nói xong thở hắt:
- Sách luận của tên kia ta cũng đã nhìn qua. Y nói ‘Tể tướng không đủ dùng, muốn có Lâu Sư Đức, nên dùng Hách Xử Tuấn’ (*). Sao có thể nói là bao che cho Tể tướng đây?
(*) Lâu Sư Đức và Hách Xử Tuấn đều là đại thần thời Đường, làm quan thanh liêm, qua đời trong sự yên bình, vì thế hai người luôn được nhắc tên cùng với nhau.
- Đúng vậy.
Thẩm Cấu chưa từng nghĩ qua vấn đề này, nghe vậy kỳ quái hói:
- Vì sao y phải nói như vậy?
- Một là thể hiện bản thân là người không thuộc về đảng phái nào.
Hàn Kỳ lạnh lùng nói:
- Hai là, đơn giản muốn kéo lão phu xuống nước.
Thẩm Cấu không phải là kẻ ngu dốt, nghe vậy liền hiểu ý tứ của Hàn tướng công. Phong trả “từ đầu" chỉ là bắt đầu, không có khả năng cứ như vậy bị bác bỏ, nếu không quyền uy của Hoàng đế ở nơi nào? Gặp phải tình huống này, nên đến lượt Chính Sự Đường phối hợp.
Mà cách làm của Vương An Thạch là để cho Chính Sự Đường không thể che chở Tô Triệt. Bằng không song phương trở thành đồng mưu, đem nguyên nhân loạn trong giặc ngoài hết thảy đổ lên người Hoàng đế.
Dựa vào tính cách của Phú tướng công, tuyệt đối sẽ không đáp ứng, cũng sẽ không gây ra loại chuyện thị phi như vậy. Cuối cùng vẫn phải do Hàn tướng công đến xử lý.
- Cũng may tướng công phản đối Tô Triệt trúng tuyển, đây là điều thiên hạ đều biết.
Thẩm Cấu hạ giọng nói:
- Vừa lúc thuận nước đẩy thuyền…
- Trong này có trá…
Hàn Kỳ nhíu mày. Trải qua bao nhiêu năm sống trong quan trường chìm nổi, khiến cho ông ta dự cảm được nguy hiểm. Đứng dậy thong thả đi vài bước trong phòng, Hàn Kỳ dùng một tay đấm xuống mặt bàn, căm hận nói:
- Chu Du đánh Hoàng Cái!
- A?
Thẩm Cấu cả kinh hỏi:
- Vì sao tướng công nói ra lời ấy?
- Hừ…
Hàn Kỳ hừ lạnh một tiếng nói:
- Lão phu xem qua các bài văn của Tô Triệt, cảm thấy người này rất bảo thủ. Trong Tam Tô, người này là kém nhất, vậy mà y lại viết ra một bài sách luận gan lớn trùm trời như thế. Ngươi cảm thấy có kỳ quái hay không?
- Rất kỳ quái.
- Tư Mã Quang là người theo tư tưởng nói nhiều, làm nhiều không bằng yên lặng, lại đột nhiên như bị ma ám một mực cổ vũ Tô Triệt?
Hàn Kỳ càng nói, sắc mặt càng khó coi:
- Còn có chuyện Vương An Thạch bất ngờ phong trả “từ đầu", ngươi không cảm thấy việc này từ đầu đến cuối đều có vẻ quỷ dị sao?
- Tướng công nói như vậy, hạ quan cũng cảm thấy kỳ lạ!
- Đây rõ ràng là bọn họ đang đóng kịch, dùng khổ nhục kế để bẫy chúng ta.
Hàn Kỳ căm hận nói.
- Bọn họ tính toán làm thế nào?
Thẩm Cấu vẫn khó hiểu hỏi.
- Dụ chúng ta công kích Tô Triệt!
- Một Tô Triệt địa vị nhỏ nhoi, dù chúng ta giết y thì có làm sao?
- Chúng ta đã không chú ý tới Quan gia, bài sách luận này là có thâm ý.
Hàn Kỳ đã nghĩ thông suốt, sắc mặt âm trầm nói:
- Sách luận của Tô Triệt, lúc đầu quan gia cũng không coi trọng, nhưng người của chúng ta vừa đánh hội đồng Tô Triệt, quan gia liền coi cuốn sách luận đó đại biểu cho ý kiến của ngài. Chúng ta đả kích Tô Triệt, chính là chúng ta đang đả kích quan gia.
- A….
Thẩm Cấu cũng thay đổi sắc mặt nói:
- Nói như vậy, chúng ta đã trúng gian kế của bọn họ?
Không khỏi may mắn nói:
- Cũng may tướng công đoán ra kịp thời, khiến cho âm mưu của bọn họ không thực hiện được!
- Có thể âm mưu này đã thực hiện được rồi…
Hàn Kỳ âm trầm nói:
- Năm nay là năm thành lập đảng của Thái tử. Dưới tình hình rối loạn như hiện tại, một khi khiến cho quan gia có ấn tượng xấu thì sẽ rất khó xoay chuyển!
- Không đến mức như vậy đâu, phải không tướng công?
Thẩm Cấu run giọng nói. Vậy còn tiền đồ của mình….
- Đương nhiên không đến mức như vậy.
Hàn Kỳ khinh miệt liếc y một cái, ngồi lại sau bàn làm việc:
- Y có kế Trương Lương, ta có kế qua cầu. Yên tâm, có lão phu ở đây, bọn họ cũng không lật trời được.
- Đúng vậy. Có tướng công ở đây, chúng ta còn phải lo lắng sao?
Thẩm Cấu cười nói.
- Nhưng cũng không thể khinh thường.
Hàn Kỳ nhìn y nói:
- Nếu Vương An Thạch không chịu viết chiếu, vậy ngươi đến viết thay.
- Mong tướng công chỉ bảo.
Trong phòng của Tể tướng, giấy tờ bút mực đều chuẩn bị đầy đủ, Thẩm Cấu lập tức tiến vào trạng thái công tác.
- Vẫn có câu yêu cho roi cho vọt, tên Tô Triệt này mặc dù có chút cuồng ngạo, nhưng cũng là người yêu nước. Quả nhân tha thứ cho vị cuồng nhân trực tính này, coi như một việc thiện.
Hàn Kỳ suy nghĩ một chút, chậm rãi nói.
Trong căn phòng, Thẩm Cấu dùng chế từ viết theo lời của Hàn Kỳ. Viết xong, y đưa cho Hàn Kỳ duyệt: “Trẫm phụng mệnh tiên thánh, thống trị thiên hạ. Mặc dù ngủ quên trong cảnh thái bình, không dám hưởng lạc, thường lo sợ mình có điều sai quấy làm hỏng cơ nghiệp của tổ tiên.. Việc triều chính không hề bỏ bê, luôn lắng nghe ý kiến của các đại thần. Nay có Tô Triệt thẳng thắn khuyên gian, tuy tài văn chương chưa giỏi lắm, chưa nghiên cứu kỹ, nhưng nể tình y có tấm lòng ái quân. Trẫm viết ra những lời này để tỏ rõ sự khen ngợi y."
- Không tồi.
Hàn Kỳ hài lòng vuốt cằm nói:
- Chính là ý này.
Quyển chiếu này được viết vô cùng khéo léo. Đầu tiên là nói về lời phê bình của Tô Triệt hướng tới quan gia, nhưng quan gia vẫn tỏ thái độ khoan dung rộng lượng, đồng thời phê bình sách luận của Tô Triệt ‘Tài văn chương chưa được, chưa nghiên cứu kỹ’ nhằm trấn an đám người Hồ Túc phản đối Tô Triệt. Kế
Tham Tri Chính Sự Âu Dương Tu ra luận đề "Vương giả không trị di địch", lấy từ bản ghi "Xuân Thu Công Dương truyện"của Hà Hưu.
Tham Tri Chính Sự Vương Khuê ra luận đề "Ký túy bị vạn phúc", lấy từ chú giải "Kinh Thi, Đại Nhã, Sinh Dân" của Trịnh Huyền.
Xu Mật phó sứ Ngô Khuê ra luận đề "Lễ Nghĩa Tín đủ là Đạo Đức", lấy từ bản ghi "Luận Ngữ, Tử Lộ Thiên" của Bao Hàm.
Long Đồ Các Trực Học Sĩ Dương Điền ra luận đề "Hình thế không bằng phẩm hạnh", lấy từ "Sử ký, Ngô Khởi liệt truyện".
Quyền Ngự Sử Trung Thừa Vương Trù ra luận đề "Dạy người lấy lễ làm gốc", lấy từ "Hán Thư, Lễ Nhạc Chí".
Tri Chế Cáo Vương An Thạch ra luận đề "Lưu Khải Đinh Hồng ai có tài", lấy từ "Hậu Hán Thư, Đinh Hồng truyện" và "Hậu Hán thư, Lưu Khải truyện".
Trong sáu đề gồm ba kinh ba sử, ba chính văn ba chú giải, yêu cầu cực kỳ nghiêm khắc. Người dự thi phải chỉ rõ từng luận đề được lấy từ đâu, sau đó trích dẫn toàn bộ văn tự trong luận đề, hoàn thành hết mới được gọi là ‘thông’. Người không biết nguồn gốc của luận đề không được chấm ‘thông’; người biết rõ nguồn gốc mà không trích dẫn được toàn bộ luận đề cũng không được chấm thông, chỉ được để ‘thô’. Người dự thi làm sáu luận, mỗi phần phải hơn ba ngàn chữ, cho nên ghi ít nhất phải một vạn tám ngàn chữ, yêu cầu hoàn thành trong một ngày một đêm.
Năm mươi người dự thi, tuy tất cả đều có thể hoàn thành, nhưng có không ít người vì nhanh mà làm qua loa.
Bài thi được thu lấy, Thư sử dán tên rồi ghi chép lại, sau đó chuyển đến Trần Khác. . . Vì quan sơ khảo chỉ có một mình hắn cho nên tất cả bài thi đều phải qua tay của hắn, hắn chỉ việc tuyển những người làm được bốn thông trở lên đưa cho sáu vị giám khảo mà thôi. Sau đó sáu vị giám khảo sẽ phân chia cấp bậc, chia những người bốn thông trở lên làm năm bậc, đến bậc bốn lại chia trên dưới, theo như lệ cũ, bậc một, bậc hai không cần xét, bậc ba xét tốt, bậc bốn trở lên mới có tư cách tham gia thi Ngự.
Nói chung, Trần Khác không có quyền hạn gì trong này, bởi vì ‘thông’, ‘thô’ hay ‘không thông’ đều rất rõ ràng. Nếu hắn làm sai, bị Ngự Sử vạch tội thì còn nhẹ, khó khăn tạo dựng hình tượng đại nho cũng sẽ bị sụp đổ trong chốc lát, vì vậy hắn không được phép sơ suất chút nào.
Nhưng điều này không có nghĩa rằng hắn không thể tác động lên kết quả. Trên thực tế, Trần Khác sử dụng một biện pháp khá khéo léo, khiến tất cả những người hắn muốn bảo vệ đều thuận lợi thông qua.
Người Trần Khác muốn bảo vệ, tất nhiên là bạn học cùng khoá với hắn ở Gia Hữu Học Xã, hắn rất quen thuộc văn phong của những người này, vì vậy không cần thông đồng với người khác, hắn vẫn có thể nhận ra bài thi cũng những vị bạn học này.
Trong đó, hắn không lo lắng Nhị Tô và Tằng Củng, bài viết của tám Đại Gia Đường Tống không qua được Các, đây mới là việc đáng cười nhất trong thiên hạ.
Người hắn muốn bảo vệ là Tứ Lang, Lâm Hi và Lã Huệ Khanh.
Hắn sử dụng chiến thuật quanh co, trước hết lấy bài thi của Nhị Tô và Tằng Củng đặt ở dưới cùng, đem tất cả ‘bài thi qua loa’ đặt ở trên cùng, bỏ bài thi của Tứ Lang vào giữa, phía dưới lại để vài bài thi ‘qua loa’. Như thế, sáu vị giám khảo sau khi loại bỏ kha khá các bài thi ‘qua loa’ phía trước, nhìn thấy bài thi cũng khá cẩn thận của Tứ Lang liền cảm thấy không tệ, vì đã loại hơi nhiều, chưa kể mấy bài thi kế tiếp cũng quá khó coi, tỷ lệ Tứ Lang được chọn tự nhiên tăng cao.
Lâm Hi và Lã Huệ Khanh cũng tương tự, bởi vì những bài thi ưu tú như Nhị Tô với Tằng Củng đều đặt ở cuối cùng, cho nên ba người được Trần Khác làm nổi bật lên được ‘qua Các’ không có gì lạ. Đến khi thấy mấy bài thi cuối cùng, cho dù mấy vị giám khảo biết trình độ của những người này cao, cũng sẽ không thay đổi kết quả phía trước.
Bởi vì sáu người cùng nhau chấm bài, cho nên người nào muốn thay đổi kết quả phía trước, chẳng khác nào không đồng ý với quyết định của năm người còn lại. Không đâu đi đắc tội với người khác, ngay cả Vương An Thạch cũng không điên đến mức này.
Kết quả được công bố, tổng cộng mười lăm người qua Các, trong đó có Tứ Lang, Lâm Hi và Lã Huệ Khanh, tất nhiên Nhị Tô với Tằng Củng cũng không bị vùi dập. Trừ sáu người bọn họ, Đặng Oản cũng qua được. Trong tất cả những người qua Các, có tới một nửa thuộc Gia Hữu Học Xã, ngay lập tức danh tiếng của Gia Hữu Học Xã một lần nữa được triều đình và dân chúng biết đến... Cuộc thi Ngự điện Sùng Chính bắt đầu một ngày sau, sáng sớm, quan gia tự mình chủ trì ra một đề sách. Lần ra đề này, có vẻ Triệu Trinh rất muốn nói điều gì đó, nên trong phần đề sách dùng tới mấy trăm chữ, mà đa số ý đều là cái nhìn của lão đối với các loại tệ nạn trong nước:
“Từ khi Trẫm lên ngôi đến nay. . . Đức có chỗ chưa đủ, giáo dục có chỗ chưa tốt, quản lý còn thiếu sót, hòa khí cũng ít. Dù ban ruộng đất, dân chúng cũng buồn chán. Biên cảnh dù yên ổn, binh lính không được rút lui. Lợi nhập vào quá sâu, chi phí di chuyển cũng càng lớn. Quân đội lộn xộn không có kinh nghiệm, quan cũng rối ren không rõ ràng. Trường học mở nhiều, lễ nghĩa chưa đủ; ít nhà được phong quan, kẻ sĩ bị bỏ qua. . . Người tại vị không cảm hoá dân tâm, người trị dân lấy pháp luật bắt bớ. Lệnh cấm nhiều, dân không biết tránh. Lợi dụng pháp luật, quan không sợ. Dân chúng mệt mỏi, người than thở nhiều. Đến tận năm này, đại nạn cũng dần thấy được . . ."
Tệ nạn Đại Tống được nhắc mấy lần, nếu viết ở trường hợp khác, đây chính là một chiếu thư tự kể tội.
Sau đó mới yêu cầu "đại phu ai cũng biết, sau nạn không cần thương tiếc".
Đây là tự làm khổ.
Quan Tường Định Tư Mã Quang chép đề sách, đầu đầy mồ hôi, sau khi chép xong cũng không dám nhận lệnh, nói:
- Bệ hạ nghĩ lại, nếu đề sách này phát ra, chắc chắn khiến thiên hạ đại náo!
- Có gì liên quan?
Triệu Trinh nửa cười nửa không hỏi.
- Vâng, là có liên quan.
Tư Mã Quang tự nhiên hơn rất nhiều so với những người khác khi ở cạnh hoàng đế, trầm giọng nói:
- Thánh nhân nói, thiên hạ không ai không phải cha mẹ, suy ra rộng khắp, cũng không ai không phải quân vương. Ngàn sai vạn sai, đều là thần sai. Bệ hạ chính là vua Đại Tống, người làm vua không thể sai, nếu không lòng dân không yên, ý xấu sẽ trỗi dậy!
- Quân Thực, ngươi đọc sách quá nhiều.
Quan hệ giữa Triệu Trinh và Tư Mã Quang rõ ràng càng lúc càng thân, dùng từ tương xứng nói:
- Tệ nạn trong thiên hạ đề ở đề sách này, cho dù ngươi không cho ta nói, ta làm hoàng đế bốn mươi năm, chẳng lẽ không có liên quan? Nếu không mượn cơ hội này nói ra, lại khiến cho người trong thiên hạ nghĩ Triệu Trinh ta tự gạt mình không gạt được người, lẩm cẩm như thế . . .
Nói xong cười nhạt một tiếng tiếp:
- Ngươi không nghe tục ngữ nói "gió mạnh mới biết cỏ cứng, hỗn loạn mới ra anh hùng" sao? Quả nhân muốn là gió mạnh, thổi tung khoang thuyền, để cho Đại Tống ta tìm được mấy cọng cỏ cứng, mấy vị anh hùng!
- Bệ hạ, ngài đã biết như thế, tại sao không đại chấn thiên uy, ra sức chấn chỉnh?
Bây giờ Tư Mã Quang đã nhận thức được, vị hoàng đế thoạt nhìn có chút yếu ớt vô lực này là người có đại trí tuệ.
Triệu Trinh sững sờ một lúc, hơi gục đầu xuống, thở dài nói:
- Quả nhân suýt chết hai lần, thân thể đã không còn được như lúc trước, khi vào triều nghe đại thần tấu, chỉ cần thời gian hơi dài thì tay chân liền run rẩy, đầu óc choáng váng, mặt mũi nhăn nhó. Nếu quả nhân tự thân chỉnh đốn. . . Giả như trên đường thân thể có biến, vị vua tương lai khó có thể thừa kế. Điều quả nhân có thể làm là chuẩn bị tốt nền móng cho vị vua tương lai, dọn dẹp chướng ngại. Ngươi rõ chưa Quân Thực?
Những lời giải bày tâm can thật đau khổ. Tư Mã Quang rơi lệ, khóc nức nở, nói:
- Thần rõ rồi, rất rõ...
- Cho nên quả nhân muốn cho những anh hùng này nổi lên, nếu bọn họ ẩn mình, làm sao ta có thể ra tay?
Hai mắt Triệu Trinh luôn lộ vẻ ôn hoà, ngay lúc này lộ ra lạnh lùng:
- Ngươi chờ xem sau Ngự thí này, có bao nhiêu trò hay sẽ trình diễn!
Tuy bây giờ là tháng tư, nhưng Tư Mã Quang vẫn cảm thấy một hồi lạnh lẽo. . .
‘Thi Ngự sách Chế Khoa’ yêu cầu hơn ba ngàn chữ, hoàn thành trước khi trời tối.
Nội dung đề sách rộng rãi như thế, khó trả lời hơn luận đề rất nhiều, cũng may chỉ có một đề, kiểu gì cũng có thể trả lời xong.
Trời tối liền thu bài, tuy chỉ có mười lăm bài nhưng vẫn niêm phong ống quyển, sao chép lại. Sau đó do quan sơ khảo, Quan Tường Định xét duyệt thứ tự hai lần rồi trình lên cho quan gia ngự lãm.
- Khoa này có hiền tài được xếp bậc ba không?
Triệu Trinh mỉm cười hỏi. Không phải lão xem thường sĩ phu nước mình, do bậc một bậc hai vốn không được phong quan, bậc ba là cấp cao nhất. Hơn nữa triều đình quy định ‘bậc ba Chế Khoa cũng như đứng đầu Tiến sĩ, trừ việc chọn hai chức quan Bình sự và Thiêm thư của Đại Lý Tự’, có nghĩa là đứng bậc ba Chế Khoa tương đương với Trạng Nguyên khoa Tiến Sĩ. Chưa kể từ khi dựng nước đến nay chỉ có Ngô Dục được bậc ba, ngoài ra không còn ai khác, còn hiếm hơn ba năm một Trạng Nguyên.
- Chúc mừng bệ hạ.
Tư Mã Quang cung kính nói:
- Kết quả khoa này rất khá, có sáu người đứng trên bậc bốn, nhất là bài của ‘Thần’, ‘Chiên’, lý lẽ diễn đạt đều tốt, tuyệt đối ngang nhau, dự tính đều được bậc ba.
‘Thần’, ‘Chiên’ là tên ký hiệu bài thi sau khi chép lại.
- Thế à.
Nghe có tới hai người đạt bậc ba, Triệu Trinh liền cảm thấy hứng thú, nói:
- Đưa quả nhân xem.
- Vâng.
Tư Mã Quang mang hai bài thi “dự tính bậc ba" trình lên.
Triệu Trinh cầm lên một bài, nheo mắt nhìn qua:
“Thần trịnh trọng trả lời: thần nghe thiên hạ không có việc gì, thì các bậc quyền quý nói nhẹ như lông hồng; thiên hạ xảy ra chuyện, thì người bình thường nói nặng như Thái Sơn. Không có trí tuệ tức không có năng lực, nơi bộc lộ công khai lại không quan sát kỹ, tình thế khó khăn lại càng đặc biệt vậy. . ."
Triệu Trinh cảm giác được câu từ bài này hoàn toàn tự nhiên, nhiều màu sắc phong phú. Giữa những hàng chữ ẩn chứa sức sống và tài văn chương vô tận, đáng quý ở chỗ, tác giả thể hiện một trái tim chân thành, không hề có chút khoe khoang trước mặt mình.
“Bởi vì ngày trôi qua, nên khoẻ mạnh, năm tháng đi tới, nên rõ ràng; dòng nước chảy hàng ngày, nên vô tận; tay chân con người hoạt động, nên không tật; bộ máy dùng hàng ngày, nên không mọt; thiên hạ, là đại vật (vật ở đây ý chỉ các loài trong trời đất). Để lâu không dùng, thì là đồ vô dụng, như thế chỉ càng tệ hơn mà thôi.’
Triệu Trinh vừa lớn tiếng đọc vừa khen:
- Văn chương của người này có thể sánh bằng Hàn Liễu.
Khi đọc đến ‘Thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua’, người bên cạnh đều biến sắc, Triệu Trinh cất tiếng cười to nói:
- Dám nói thẳng!
Đọc xong, cuốn lại bài thở dài:
- Đại Tống thật may mắn khi có người này, chấm bậc hai!
- Xin bệ hạ nghĩ lại, từ trước tới nay bậc hai không hề có tác dụng gì, dù là kỳ tài ngút trời cũng không nên phá lệ.
Tư Mã Quang nói khẽ:
- Đừng quên tấm gương Trần Trọng Phương, người này có thể có năng lực như Trần Trọng Phương...
Những năm này, đã bao nhiêu lần Trần Khác chịu cảnh đối xử không công bằng? Ngân đài ti thu các tấu chương buộc tội hắn có thể xếp đầy một căn phòng. Tuy được quan gia che chở, nhưng nếu không phải hắn lập đại công nhiều lần, lại luôn cảnh giác, chỉ sợ mười Trần Khác cũng bị xé thành từng mảnh.
Triệu Trinh suy nghĩ một lát, cũng thấy không thể đỡ lên rồi đạp xuống nhân tài, nên không kiên trì nữa:
- Vậy thì chấm bậc ba.
Nói xong lấy bài tiếp theo.
- Xin bệ hạ tha thứ.
Trán Tư Mã Quang đổ chút mồ hôi, nói:
- Từ ngữ bài thứ hai này có chút thẳng thắn, bệ hạ cần phải chuẩn bị. . .
- Ha ha. . .
Triệu Trinh không quá để ý cười nói:
- Quả nhân mở khoa này gọi là “khoa Cực ngôn trực gián" (can gián thẳng thắn), không thẳng thắn làm sao can gián?
Nói rồi chỉ vào bài còn lại tiếp:
- Quả nhân ngay cả lời nói “thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua" nghe rồi, còn điều gì không thể tiếp thu chứ?
- Vâng.
Lúc này Tư Mã Quang mới tạm thấy an tâm một chút.
Triệu Trinh từ từ mở bài thi lấy tên hiệu ‘Chiên’ ra, liền thấy một kỳ văn kinh tâm động phách hiện ra trước mắt:
“Thần trịnh trọng trả lời. . . Tính thần vốn cuồng ngu, không biết kiêng kị. . . Bệ hạ viết đề sách: ‘Trẫm thừa kế ngôi vị tổ tông, tiên đế để lại, hết sức mờ mịt, chỉnh lý không rõ ràng.’ Thoạt nhìn có vẻ bệ hạ đang lo sợ nên nói như vậy. Nhưng thần cho rằng bệ hạ không có việc gì để lo sợ."
“Nếu bệ hạ muốn thần nói thẳng can gián, những lời như thế thật không dễ nghe, có chỗ nào phạm huý, mong bệ hạ thứ cho. Bệ hạ nói bệ hạ lo lắng quốc sự, thần cảm thấy bệ hạ không thật sự lo lắng!"
“Từ năm Bảo Nguyên đến Khánh Lịch, Tây Khương làm khó, ban ngày bệ hạ toạ bất an, ban đêm nghỉ bất an. Lúc này, khắp thiên hạ đều kêu bệ hạ lo lắng như Chu Văn Vương. Nhưng mà khi phía tây giải binh, bệ hạ bỏ sự lo lắng qua một bên, không trả thù, giờ đã hai mươi năm."
“Năm đó, khi Lý Nguyên Hạo làm loạn, bệ hạ sợ tới mức ban ngày ngồi không yên, buổi tối ngủ không được. Lúc đó bệ hạ mới thật sự lo lắng. Nhưng sau khi nghị hoà Khánh Lịch, ngừng chiến tranh với Tây Hạ, vết sẹo của bệ hạ liền hết đau, thoáng cái trôi qua hai mươi năm."
“Nay bệ hạ không có chuyện thì không lo, có chuyện thì rất sợ. Thần cho rằng bệ hạ sống không yên ổn. Không có chuyện gì thì tỏ ra vô tâm, có chuyện liền lo âu thấp thỏm, cho nên thần mới nói, căn bản bệ hạ không thật sự lo lắng."
Tiếp đến, tác giả lại chỉ trích hoàng đế sa vào nữ sắc, cũng kể ra sáu vị vua gây hoạ trong lịch sử cảnh cáo, nói: “Sáu vị vua này, không lo lắng trị an thiên hạ, luôn không cảnh giác, đắm chìm trong rượu, hoang đắm trong sắc, lên triều muộn bãi triều sớm, ngủ sớm dậy muộn, đại thần không thể nói, tiểu thần không cố can. Trước sau trái phải, lúc nào cũng bị bao quanh bởi các phu nhân, người nói lời ngay thẳng không nghe, chỉ nghe vợ."
- Người này nói ta thích làm gì thì làm, giống như những vị vua gây hoạ.
“Bệ hạ đến tuổi này, quý cơ trong cung dùng ngàn mà tính, ca múa uống rượu, sung sướng thất tiết, lên triều không nghe báo cáo, biệt điện không hề chú ý. Ngài là một gã dâm lạc không biết kiềm chế tửu sắc, lên triều vô tình, tâm không yên chính sự!"
“Lão đại ngài đừng tưởng chỉ làm mấy vị phụ nhân sẽ không ảnh hưởng đại sự quốc gia, hiện tại ‘trong nước khốn cùng, dân sinh than khổ’, nếu ngài làm bừa... chỉ sợ ngài sẽ khiến ‘dân tâm không còn hướng về’!"
Ngoài việc chỉ trích hoàng đế trầm mê nữ sắc hưởng lạc, người này còn chỉ trích hoàng đế: “Bệ hạ chọn quan không tốt, khiến dân chúng ở dưới chịu hại, không biết tố ai; bệ hạ thu thuế nặng nề, dân chúng ngày thêm nghèo khó, quần áo không đủ che thân. Quan lại vô tâm, còn có thể đổi người; thu thuế vô tâm thì trách tội ai?"
Trách tội ai? Đương nhiên là ngài!
Người này còn chỉ trích hoàng đế lãng phí, đặt sưu cao thế nặng, dân sinh khốn khổ.
Lại chỉ trích hoàng đế ‘vì hư danh mà không biết làm chính sự’, nói: “Thần xem ý bệ hạ, có lẽ muốn Sử Quan lưu lại danh tiếng đẹp cho người đời sau, vậy thần cho rằng bệ hạ quá chú ý hư danh. . ."
Đọc thầm đoạn này, Triệu Trinh chảy mồ hôi đầm đìa, mặt mo đỏ bừng. Người này thật sự không biết kiêng nể gì cả, thà nói chuyện giật gân còn được, có vài chỗ chỉ trích như ngấm sâu vào trong xương tuỷ, vạch trần chút tâm tư bí ẩn của Triệu Trinh, phê phán vô cùng tinh tế!
Tuy Triệu Trinh cố gắng làm cho phẩm chất của mình thật tốt, nhưng ngày xưa đám đại thần chỉ trích không đến nơi đến chốn, có ai dám vạch trần lão thanh tĩnh không làm gì, đeo mặt nạ đi can gián, mang một bụng truy cầu danh tiếng, qua loa hưởng nhàn lộ rõ ra giữa thiên hạ?
Người này có thể nói là người đầu tiên trong trăm năm qua!
Một lúc lâu, Triệu Trinh mới lấy lại tinh thần, nhưng không dám nhìn bài thi này nữa, hỏi Tư Mã Quang:
- Ngươi cho rằng bài này đáng chấm bậc ba?
Trước đó Tư Mã Quang có chút hiểu ý nghĩ của vua mới lựa bài thi này ra, nhưng bây giờ thấy mặt hoàng đế đỏ như đít khỉ, trong lòng lại không chắc chắn, liền nói khẽ:
- Vi thần cho rằng, bên trong cái ngôn từ đạm mạc mênh mông của bài thi này có chứa một tác phong chính trực, tuy người này nói có hơi bất công, nhưng là thí sinh duy nhất thể hiện ‘hết sức nói thẳng can gián’, một trái tim khẩn thiết can gián bệ hạ, cho nên thần nghĩ đáng chấm bậc ba, biểu thị tấm lòng cầu người can gián của bệ hạ!
Dừng một lát nói:
- Nhưng Đường Trung Thừa không tán thành, cho rằng người này đang nói xấu vua, thẳng thừng gạt sang không chọn.
Tuy nhìn qua là để cho hoàng đế chọn, nhưng Triệu Trinh có thể nói “Không thể lấy tên này, gã mắng ta quá thảm" sao? Đem mặt mũi hoàng đế đặt đâu?
Nhưng nếu chọn bài thi này, tức phải phát ra thiên hạ, mấy chục năm mình cố gắng tạo dựng thanh danh chẳng phải liền huỷ trong chốc lát?
Nghĩ vậy, Triệu Trinh không khỏi tự giễu, ta quả đúng là người mua danh cầu lợi . . .
- Vi thần muốn chúc mừng bệ hạ.
Tư Mã Quang thấy hoàng đế chậm chạp không chịu mở miệng, liền chắp tay trầm giọng nói:
- Năm xưa Đường Thái Tông có Nguỵ Chinh mới thành Trinh Quán (niên hiệu vua Đường Thái Tông), bây giờ bệ hạ vì con cháu, tìm được Nguỵ Chinh của Đại Tống!
Được Tư Mã Quang nhắc nhở, Triệu Trinh mới nhớ tói nguyện vọng của mình, sắc mặt có chút dịu đi nói:
- Đúng vậy, quả nhân mở khoa thi này, không phải hi vọng có người hết sức nói thẳng can gián sao? Bây giờ đã có người như thế, quả nhân không phải tìm được “rồng Diệp Công thích" rồi!
Nói xong khoát tay:
- Nhưng ngươi cùng Đường Giới tính lại, xem xem phù hợp bậc mấy?
- Vâng.
Tư Mã Quang cầm lấy bài thi lui ra, không khỏi âm thầm cảm thán, bệ hạ thật sự rất có hàm dưỡng, nếu đổi một vị hoàng đế khác, chắc Tô Triệt cũng đã bị tống vào ngục. . . Vị hoàng đế này thật tốt, không hề tức giận.
Có đại sư chào hàng Tô Tuân, tất nhiên Tư Mã Quang không xa lạ gì văn phong của anh em Tô gia, so với ngôn từ bừa bãi, khách quan, không quá câu nệ của Đại Tô, y lại thích cái ngôn từ hơi kém một chút nhưng có phong thái quân tử của Tiểu Tô, hơn nữa cách làm người của Tiểu Tô cũng giống như y. Tư Mã Quang thầm nghĩ, nếu như chính mình tham gia cuộc thi lần này..., cũng sẽ trả lời như thế.
Trở lại Điện Sùng Chính, Tư Mã Quang bàn bạc với Đường Giới, hai người đều lùi một bước, vì vậy đổi thành bậc bốn.
Đã sắp xếp được thứ tự, khoa này lấy sáu người. Nhưng khi ghi bảng vàng, quan sơ khảo Hồ Túc không làm. Y kiên trì cho rằng Tô Triệt trả lời không đúng đề, đến nỗi làm loạn cả thời thịnh của hoàng thượng, tận lực yêu cầu huỷ bỏ kết quả!
‘Thần’, ‘Chiên’ là tên ký hiệu bài thi sau khi chép lại.
- Thế à.
Nghe có tới hai người đạt bậc ba, Triệu Trinh liền cảm thấy hứng thú, nói:
- Đưa quả nhân xem.
- Vâng.
Tư Mã Quang mang hai bài thi “dự tính bậc ba" trình lên.
Triệu Trinh cầm lên một bài, nheo mắt nhìn qua:
“Thần trịnh trọng trả lời: thần nghe thiên hạ không có việc gì, thì các bậc quyền quý nói nhẹ như lông hồng; thiên hạ xảy ra chuyện, thì người bình thường nói nặng như Thái Sơn. Không có trí tuệ tức không có năng lực, nơi bộc lộ công khai lại không quan sát kỹ, tình thế khó khăn lại càng đặc biệt vậy. . ."
Triệu Trinh cảm giác được câu từ bài này hoàn toàn tự nhiên, nhiều màu sắc phong phú. Giữa những hàng chữ ẩn chứa sức sống và tài văn chương vô tận, đáng quý ở chỗ, tác giả thể hiện một trái tim chân thành, không hề có chút khoe khoang trước mặt mình.
“Bởi vì ngày trôi qua, nên khoẻ mạnh, năm tháng đi tới, nên rõ ràng; dòng nước chảy hàng ngày, nên vô tận; tay chân con người hoạt động, nên không tật; bộ máy dùng hàng ngày, nên không mọt; thiên hạ, là đại vật (vật ở đây ý chỉ các loài trong trời đất). Để lâu không dùng, thì là đồ vô dụng, như thế chỉ càng tệ hơn mà thôi.’
Triệu Trinh vừa lớn tiếng đọc vừa khen:
- Văn chương của người này có thể sánh bằng Hàn Liễu.
Khi đọc đến ‘Thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua’, người bên cạnh đều biến sắc, Triệu Trinh cất tiếng cười to nói:
- Dám nói thẳng!
Đọc xong, cuốn lại bài thở dài:
- Đại Tống thật may mắn khi có người này, chấm bậc hai!
- Xin bệ hạ nghĩ lại, từ trước tới nay bậc hai không hề có tác dụng gì, dù là kỳ tài ngút trời cũng không nên phá lệ.
Tư Mã Quang nói khẽ:
- Đừng quên tấm gương Trần Trọng Phương, người này có thể có năng lực như Trần Trọng Phương...
Những năm này, đã bao nhiêu lần Trần Khác chịu cảnh đối xử không công bằng? Ngân đài ti thu các tấu chương buộc tội hắn có thể xếp đầy một căn phòng. Tuy được quan gia che chở, nhưng nếu không phải hắn lập đại công nhiều lần, lại luôn cảnh giác, chỉ sợ mười Trần Khác cũng bị xé thành từng mảnh.
Triệu Trinh suy nghĩ một lát, cũng thấy không thể đỡ lên rồi đạp xuống nhân tài, nên không kiên trì nữa:
- Vậy thì chấm bậc ba.
Nói xong lấy bài tiếp theo.
- Xin bệ hạ tha thứ.
Trán Tư Mã Quang đổ chút mồ hôi, nói:
- Từ ngữ bài thứ hai này có chút thẳng thắn, bệ hạ cần phải chuẩn bị. . .
- Ha ha. . .
Triệu Trinh không quá để ý cười nói:
- Quả nhân mở khoa này gọi là “khoa Cực ngôn trực gián" (can gián thẳng thắn), không thẳng thắn làm sao can gián?
Nói rồi chỉ vào bài còn lại tiếp:
- Quả nhân ngay cả lời nói “thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua" nghe rồi, còn điều gì không thể tiếp thu chứ?
- Vâng.
Lúc này Tư Mã Quang mới tạm thấy an tâm một chút.
Triệu Trinh từ từ mở bài thi lấy tên hiệu ‘Chiên’ ra, liền thấy một kỳ văn kinh tâm động phách hiện ra trước mắt:
“Thần trịnh trọng trả lời. . . Tính thần vốn cuồng ngu, không biết kiêng kị. . . Bệ hạ viết đề sách: ‘Trẫm thừa kế ngôi vị tổ tông, tiên đế để lại, hết sức mờ mịt, chỉnh lý không rõ ràng.’ Thoạt nhìn có vẻ bệ hạ đang lo sợ nên nói như vậy. Nhưng thần cho rằng bệ hạ không có việc gì để lo sợ."
“Nếu bệ hạ muốn thần nói thẳng can gián, những lời như thế thật không dễ nghe, có chỗ nào phạm huý, mong bệ hạ thứ cho. Bệ hạ nói bệ hạ lo lắng quốc sự, thần cảm thấy bệ hạ không thật sự lo lắng!"
“Từ năm Bảo Nguyên đến Khánh Lịch, Tây Khương làm khó, ban ngày bệ hạ toạ bất an, ban đêm nghỉ bất an. Lúc này, khắp thiên hạ đều kêu bệ hạ lo lắng như Chu Văn Vương. Nhưng mà khi phía tây giải binh, bệ hạ bỏ sự lo lắng qua một bên, không trả thù, giờ đã hai mươi năm."
“Năm đó, khi Lý Nguyên Hạo làm loạn, bệ hạ sợ tới mức ban ngày ngồi không yên, buổi tối ngủ không được. Lúc đó bệ hạ mới thật sự lo lắng. Nhưng sau khi nghị hoà Khánh Lịch, ngừng chiến tranh với Tây Hạ, vết sẹo của bệ hạ liền hết đau, thoáng cái trôi qua hai mươi năm."
“Nay bệ hạ không có chuyện thì không lo, có chuyện thì rất sợ. Thần cho rằng bệ hạ sống không yên ổn. Không có chuyện gì thì tỏ ra vô tâm, có chuyện liền lo âu thấp thỏm, cho nên thần mới nói, căn bản bệ hạ không thật sự lo lắng."
Tiếp đến, tác giả lại chỉ trích hoàng đế sa vào nữ sắc, cũng kể ra sáu vị vua gây hoạ trong lịch sử cảnh cáo, nói: “Sáu vị vua này, không lo lắng trị an thiên hạ, luôn không cảnh giác, đắm chìm trong rượu, hoang đắm trong sắc, lên triều muộn bãi triều sớm, ngủ sớm dậy muộn, đại thần không thể nói, tiểu thần không cố can. Trước sau trái phải, lúc nào cũng bị bao quanh bởi các phu nhân, người nói lời ngay thẳng không nghe, chỉ nghe vợ."
- Người này nói ta thích làm gì thì làm, giống như những vị vua gây hoạ.
“Bệ hạ đến tuổi này, quý cơ trong cung dùng ngàn mà tính, ca múa uống rượu, sung sướng thất tiết, lên triều không nghe báo cáo, biệt điện không hề chú ý. Ngài là một gã dâm lạc không biết kiềm chế tửu sắc, lên triều vô tình, tâm không yên chính sự!"
“Lão đại ngài đừng tưởng chỉ làm mấy vị phụ nhân sẽ không ảnh hưởng đại sự quốc gia, hiện tại ‘trong nước khốn cùng, dân sinh than khổ’, nếu ngài làm bừa... chỉ sợ ngài sẽ khiến ‘dân tâm không còn hướng về’!"
Ngoài việc chỉ trích hoàng đế trầm mê nữ sắc hưởng lạc, người này còn chỉ trích hoàng đế: “Bệ hạ chọn quan không tốt, khiến dân chúng ở dưới chịu hại, không biết tố ai; bệ hạ thu thuế nặng nề, dân chúng ngày thêm nghèo khó, quần áo không đủ che thân. Quan lại vô tâm, còn có thể đổi người; thu thuế vô tâm thì trách tội ai?"
Trách tội ai? Đương nhiên là ngài!
Người này còn chỉ trích hoàng đế lãng phí, đặt sưu cao thế nặng, dân sinh khốn khổ.
Lại chỉ trích hoàng đế ‘vì hư danh mà không biết làm chính sự’, nói: “Thần xem ý bệ hạ, có lẽ muốn Sử Quan lưu lại danh tiếng đẹp cho người đời sau, vậy thần cho rằng bệ hạ quá chú ý hư danh. . ."
Đọc thầm đoạn này, Triệu Trinh chảy mồ hôi đầm đìa, mặt mo đỏ bừng. Người này thật sự không biết kiêng nể gì cả, thà nói chuyện giật gân còn được, có vài chỗ chỉ trích như ngấm sâu vào trong xương tuỷ, vạch trần chút tâm tư bí ẩn của Triệu Trinh, phê phán vô cùng tinh tế!
Tuy Triệu Trinh cố gắng làm cho phẩm chất của mình thật tốt, nhưng ngày xưa đám đại thần chỉ trích không đến nơi đến chốn, có ai dám vạch trần lão thanh tĩnh không làm gì, đeo mặt nạ đi can gián, mang một bụng truy cầu danh tiếng, qua loa hưởng nhàn lộ rõ ra giữa thiên hạ?
Người này có thể nói là người đầu tiên trong trăm năm qua!
Một lúc lâu, Triệu Trinh mới lấy lại tinh thần, nhưng không dám nhìn bài thi này nữa, hỏi Tư Mã Quang:
- Ngươi cho rằng bài này đáng chấm bậc ba?
Trước đó Tư Mã Quang có chút hiểu ý nghĩ của vua mới lựa bài thi này ra, nhưng bây giờ thấy mặt hoàng đế đỏ như đít khỉ, trong lòng lại không chắc chắn, liền nói khẽ:
- Vi thần cho rằng, bên trong cái ngôn từ đạm mạc mênh mông của bài thi này có chứa một tác phong chính trực, tuy người này nói có hơi bất công, nhưng là thí sinh duy nhất thể hiện ‘hết sức nói thẳng can gián’, một trái tim khẩn thiết can gián bệ hạ, cho nên thần nghĩ đáng chấm bậc ba, biểu thị tấm lòng cầu người can gián của bệ hạ!
Dừng một lát nói:
- Nhưng Đường Trung Thừa không tán thành, cho rằng người này đang nói xấu vua, thẳng thừng gạt sang không chọn.
Tuy nhìn qua là để cho hoàng đế chọn, nhưng Triệu Trinh có thể nói “Không thể lấy tên này, gã mắng ta quá thảm" sao? Đem mặt mũi hoàng đế đặt đâu?
Nhưng nếu chọn bài thi này, tức phải phát ra thiên hạ, mấy chục năm mình cố gắng tạo dựng thanh danh chẳng phải liền huỷ trong chốc lát?
Nghĩ vậy, Triệu Trinh không khỏi tự giễu, ta quả đúng là người mua danh cầu lợi . . .
- Vi thần muốn chúc mừng bệ hạ.
Tư Mã Quang thấy hoàng đế chậm chạp không chịu mở miệng, liền chắp tay trầm giọng nói:
- Năm xưa Đường Thái Tông có Nguỵ Chinh mới thành Trinh Quán (niên hiệu vua Đường Thái Tông), bây giờ bệ hạ vì con cháu, tìm được Nguỵ Chinh của Đại Tống!
Được Tư Mã Quang nhắc nhở, Triệu Trinh mới nhớ tói nguyện vọng của mình, sắc mặt có chút dịu đi nói:
- Đúng vậy, quả nhân mở khoa thi này, không phải hi vọng có người hết sức nói thẳng can gián sao? Bây giờ đã có người như thế, quả nhân không phải tìm được “rồng Diệp Công thích" rồi!
Nói xong khoát tay:
- Nhưng ngươi cùng Đường Giới tính lại, xem xem phù hợp bậc mấy?
- Vâng.
Tư Mã Quang cầm lấy bài thi lui ra, không khỏi âm thầm cảm thán, bệ hạ thật sự rất có hàm dưỡng, nếu đổi một vị hoàng đế khác, chắc Tô Triệt cũng đã bị tống vào ngục. . . Vị hoàng đế này thật tốt, không hề tức giận.
Có đại sư chào hàng Tô Tuân, tất nhiên Tư Mã Quang không xa lạ gì văn phong của anh em Tô gia, so với ngôn từ bừa bãi, khách quan, không quá câu nệ của Đại Tô, y lại thích cái ngôn từ hơi kém một chút nhưng có phong thái quân tử của Tiểu Tô, hơn nữa cách làm người của Tiểu Tô cũng giống như y. Tư Mã Quang thầm nghĩ, nếu như chính mình tham gia cuộc thi lần này..., cũng sẽ trả lời như thế.
Trở lại Điện Sùng Chính, Tư Mã Quang bàn bạc với Đường Giới, hai người đều lùi một bước, vì vậy đổi thành bậc bốn.
Đã sắp xếp được thứ tự, khoa này lấy sáu người. Nhưng khi ghi bảng vàng, quan sơ khảo Hồ Túc không làm. Y kiên trì cho rằng Tô Triệt trả lời không đúng đề, đến nỗi làm loạn cả thời thịnh của hoàng thượng, tận lực yêu cầu huỷ bỏ kết quả!
Theo như quy định, nếu quan sơ khảo không kí tên, bài thi sẽ không được chấp nhận, không được chấp nhận thì không được ghi tên lên bảng vàng. Vì thế, Tư Mã Quang đã tranh luận kịch liệt với Hồ Túc. Hồ Túc là quan Tu khởi cư chú tiền nhiệm, tự cho mình là tiền bối, căn bản không cần xem mặt, cuối cùng không có biện pháp, chỉ có thể bàn giao lên trên.
Triệu Trinh tự đánh mặt mình một lần là đủ rồi, sẽ không có lần thứ hai, nếu không cũng có chút hèn. Vì vậy y lệnh cho các mệnh quan triều đình xác định thứ tự người này.
Kết quả ý kiến của Trung Xu là tùy theo quan sơ khảo, cũng chính là ý kiến của Hồ Túc - truất bỏ bài thi này…
Biết Trung Xu không đồng ý xếp bậc cho Tô Triệt, Tư Mã Quang lập tức thượng tấu nói:
“Thần thiết nghĩ quốc gia tổ chức thi đại khoa là muốn tìm được những người tri thức có tài trí sâu rộng, không dùng văn từ hoa mỹ, là bậc hiền đức với kiến thức uyên bác. Thần không dám nói về văn từ của thí sinh ‘Chiên’, nhưng thần thấy người này không hề băn khoăn mà chỉ ra chỗ sai chỗ dở của triều đình, là người nói thẳng nhất trong tất cả các thí sinh. Nay nếu dùng lý do đấy mà đánh giá, thần sợ mọi người trong thiên hạ đều nghĩ triều đình tổ chức một khoa thi nói thẳng can gián chỉ để làm bộ. Còn thí sinh ‘Chiên’ bị truất bài thi chỉ vì nói thẳng, nếu từ nay về sau khắp nơi khi nói đều sợ phạm huý thì thật sự làm tổn hại đến phẩm hạnh và sự công minh của thánh thượng!"
Tấu chương của Tư Mã Quang dâng lên, Hồ Túc cũng dâng thư với từ ngữ ác liệt, nói người này mượn cớ công kích hoàng thượng, công kích tình hình chính trị bây giờ mà nâng chính mình lên, rõ ràng có mưu đồ mua danh chuộc tiếng, những người như thế không chém đầu là còn may, tất nhiên càng không thể trúng tuyển.
Sự việc còn kinh động đến cả Trung Xu, Hàn tướng công, Tằng tướng công cũng ủng hộ Hồ Túc, cho rằng không thể phá lệ, nếu không ngày sau sẽ ‘có nhiều tội đồ nói xấu quân thượng, mượn núi Chung Nam làm đường tắt lên làm quan*’!
(*Một tích của Trung Quốc, thời Đường, một người vì muốn làm quan nên giả vờ làm ẩn sĩ dọn đến ở núi Chung Nam gần kinh đô Trường An, sau này đã lừa được vua mời ra làm quan.)
Nhưng người ủng hộ Tư Mã Quang cũng không ít, Phú tướng công, Âu Dương Tu, Bao Chửng, đều cho rằng trăm năm qua vì việc “nói không bị trị tội" mới tạo thành tính nói thẳng can gián của sĩ phu. Hôm nay lấy lý do đó mà truất bài của thí sinh, sợ rằng sẽ làm tổn hại thánh đức!
Vì thế hai phe không ngừng tranh chấp, theo lệ cũ của triều đình Bắc Tống, khi một phe không thể thuyết phục một phe khác, cũng không bị một phe khác thuyết phục, thì đành phải đá quả bóng sang chân Triệu Trinh.
Triệu Trinh đành phải ngự phê: “Cầu nói thẳng mà lại chối bỏ, thiên hạ xem ta ra gì!’
Vì vậy bài thi được xếp vào bậc bốn.
Nhưng tranh đấu vẫn tiếp tục, Tri Chế Cáo Vương An Thạch đã lên tiếng. Cho dù người này thi đậu, cũng đừng mơ lấy được chiếu thư bổ nhiệm trong tay y!
Trong cái cảnh ồn ào này, vua và dân vô cùng tò mò muốn biết cái người trẻ tuổi dám lên án cả thiên hạ này là ai, nhất thời, không còn ai chú ý đến bốn thí sinh bậc bốn còn lại, ngay cả danh tiếng của thí sinh bậc ba thứ hai trong vòng trăm năm qua cũng bị y chiếm hết.
Dưới sự chú ý của hơn vạn người, tên của thí sinh này cuối cùng cũng được bộc lộ, thì ra vị tiên sinh không sợ chết này họ Tô tên Triệt tự Tử Do!
Mà thí sinh được xếp bậc ba chính là anh trai ruột của y, Tô Thức, bốn người còn lại là Vương Giới, Trần Thung, Đặng Oản, Lã Huệ Khanh. . . Trong đình hoa viên Trần phủ, Trần Khác và Tô Triệt ngồi đối diện nhau.
Anh em Tô gia đều đậu cao, có thể nói là giai thoại thiên cổ, thật đáng mừng, nhưng trên mặt hai người lúc này lại không hề có nửa phần vui mừng.
- Dù nói gì đi nữa, trong sáu người được xếp bậc thì Gia Hữu Học Xã chúng ta có năm người, tóm lại là toàn thắng.
Tô Triệt mặc một chiếc nho bào màu xanh da trời, sắc mặt không được tốt lắm.
- Đúng vậy
Trần Khác gật đầu cười nói:
- Khoa này đối với chúng ta là một bước tiến.
Nói xong nhẹ giọng hỏi:
- Bây giờ nhạc phụ thế nào?
- Cha ta tức điên lên.
Tô Triệt cười khổ nói:
- Ta ở nhờ nhà ngươi mấy ngày, đợi ông ấy hết giận rồi trở về.
- Cứ thoải mái.
Trần Khác gật đầu, nói khẽ:
- Việc lần này khá ồn ào nhưng thật ra là có người mượn cớ gây chuyện. Ngươi xem đi, sự việc càng về sau càng lớn, ngươi phải cố chịu qua khoảng thời gian này.
- Hắc. . .
Tô Triệt xoa mặt nói:
- Ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục?
- Cũng không cần quá lo lắng. Ngươi chỉ cần tĩnh tâm đọc sách, không phải để ý chuyện bên ngoài, không học người bình thường tìm phiền phức.
Trần Khác cười nói:
- Chuyện còn lại cứ giao cho ta đi.
- Ừm.
Tô Triệt gật đầu, cười nói:
- Hi vọng ta ‘chết’ có chút giá trị.
- Rất có giá trị!
Trần Khác gật đầu quả quyết, nói:
- Chúng ta rất muốn cảm ơn ngươi!
Hiện tại Triệu Tông Tích còn ở Quảng Tây. Trần Khác ở kinh thành bước đi rất khó, mặc kệ là ai nhìn vào, bọn họ sẽ không chủ động khiêu khích trước.
Nhưng nếu biết không thể tránh được tranh đấu, hơn nữa đối phương nhất định sẽ chủ động gây khó dễ, vậy biện pháp tốt nhất chính là ra tay trước để chiếm ưu thế. Tại nơi mà mình chiếm ưu thế, đánh một trận chiến mà mình chắc thắng!
Lúc trước sau khi cân nhắc lợi và hại, Trần Khác đồng ý phương châm nói thẳng can gián của Tô Triệt. Hắn biết rõ tại thời điểm nhạy cảm như vậy, với thân phận của Tô Triệt ở trong thi Ngự làm sách luận nói thẳng quân thượng, công kích tình hình chính trị bấy giờ, tất nhiên đối phương cho rằng đây là cơ hội tốt trời cho, sẽ đuổi đánh tới cùng!
Không hi sinh một đứa trẻ thì không bắt được sói. Sở dĩ Trần Khác dám lấy cậu em vợ làm mồi là vì có Tư Mã Quang cung cấp tình báo quý giá, hắn biết rõ tâm cảnh của Triệu Trinh bị đan xen bởi trách nhiệm cùng tự trách nên mới ra đề sách như chiếu thư nhận tội.
Nhưng hai vào hai ra của Trung Xu lại công kích khiến đảng Triệu Tông Thực lâm vào sợ hãi cùng phẫn nộ, bọn họ muốn làm gì đó thật gấp để thay đổi tình trạng suy sụp này, đồng thời chứng minh với người trong thiên hạ rằng mọi thứ vẫn được nắm giữ!
Cho nên bọn họ không có tâm tư đâu mà suy nghĩ đến nỗi khổ tâm của Triệu Trinh, bọn họ chỉ thấy Tô Triệt là cậu em vợ Trần Khác, cho rằng bài luận của Tô Triệt là ý của đảng Triệu Tông Tích, tụ tập những người bất mãn về triều chính, không có được lợi ích từ Triệu Tông Thực. Cho nên họ đến tranh luận, giống như một con bò đực thấy vải đỏ liền hung dữ đâm vào!
Bọn họ hoàn toàn không để ý câu ngự phê của Triệu Trinh, ‘cầu nói thẳng mà lại chối bỏ, thiên hạ xem ta ra gì’, cho rằng hoàng đế chỉ nói mấy câu lấy mặt mũi. Họ không biết, Triệu Trinh đã quyết tâm thay đổi cái không khí sống được ngày nào hay ngày ấy của Đại Tống suốt hai mươi năm qua, vì vị vua tương lai thúc đẩy cải cách, trải phẳng đường.
Trong tình huống này, lưu lại Tô Triệt không phải vì vấn đề cá nhân của Triệu Trinh, mà nó quan hệ đến hướng đi của quốc sách.
Tiếp tục sống tạm hay bắt đầu tỉnh lại? Cho dù Triệu Trinh có mềm yếu cũng không thể giống xe tuột xích ngay từ đầu được. Nên dù khó chịu, Triệu Trinh cũng kiên định che chở Tô Triệt.
Dưới tình hình như thế, khó tránh khỏi Triệu Trinh nghĩ việc bọn họ không buông tha một nhân vật nhỏ như Tô Triệt là để bảo vệ dấu hiệu ‘hưng thịnh’ giả tạo, ngăn cản chính mình trải đường cho cải cách.
Chỉ cần một ngày bọn Triệu Tông Thực chưa ý thức đến điểm này thì sẽ tiếp tục tấn công Tô Triệt. Bọn họ không biết đối thủ của họ đã theo phe Trần Khác, lặng lẽ biến thành hoàng đế Triệu Trinh!
Bọn họ cho rằng công kích cờ hiệu giữ gìn tôn nghiêm hoàng đế thì có thể đuổi đánh tới cùng, nhưng lại quên chính mình đã khiêu khích quyền uy hoàng đế trước. Tô Triệt là người quan gia ngự phê, bọn họ lại nhất định phải làm Tô Triệt xong đời, đây không phải là bỏ qua quyền uy của quan gia thì là gì?
Trần Khác thi triển ‘vật đổi sao dời’ là năng lực từ trước tới nay hắn đắc ý nhất.
Đương nhiên chỉ có một mình hắn thì không thể hoàn thành chiến dịch này được. Ngoại trừ Tô Triệt với tư cách mồi nhử, Tư Mã Quang người được hoàng đế tin cậy có tác dụng cực kỳ quan trọng.
Không có tin tức Tư Mã Quang đưa thì Trần Khác không thể lập kế hoạch; không có quan Tường Định Tư Mã Quang, Tô Triệt sẽ không được tuyển chọn; không có Tư Mã Quang dùng từ ngữ khéo léo giảng giải cho hoàng đế, Triệu Trinh sẽ không xem Tô Triệt thành người mở rộng tiêu chí ngôn luận và cầu biến ích lợi cho mình.
Có thể thấy năm đó kết giao Tư Mã Quang là một nước cờ trọng yếu như thế nào. . . Theo như quy chế, sau khi tuyển chọn Chế Khoa liền trao quan, không được kéo dài.
Hơn nữa cấp bậc nào được chức quan gì đều đã định sẵn. Ý chỉ truyền xuống rất nhanh, Tô Thức được làm Bình sự Đại Lý, Phán quan thiêm thư phủ Phượng Tường. Năm người Tô Triệt thì làm Bí thư tỉnh Hiệu thư lang, đẩy Tô Triệt đến Thương Châu làm quan, bốn người Vương Giới thì ở lại Biện Kinh chờ phân công.
Bởi vì quan viên triều Tống nhất định phải có kinh nghiệm địa phương thì mới có thể nhậm chức ở triều đình. Tô Thức và Tô Triệt thiếu kinh nghiệm này nên cần phải bổ sung, ý muốn bảo vệ Tô Triệt đứng phía trước chịu trận rất rõ ràng.
Chiếu thư của năm người khác truyền xuống rất nhanh nhưng đến Tô Triệt lại bị ngăn chặn, Tri Chế Cáo Vương An Thạch cho là lão bao che Tể tướng, chủ định tấn công người, không chịu viết.
Hoàng đế tự mình hạ lệnh bổ nhiệm lại bị chính thư ký ngăn cản, ở triều đại khác là chuyện không tưởng nhưng ở triều Tống lại quá quen thuộc.
Bởi vì ngày trước lúc Triệu Khuông Dận và Triệu Phổ đặt ra chế độ, không chỉ tập trung quản thúc văn võ, cũng nghĩ về việc xuất hiện một vị hôn quân làm chủ. Để tránh giang sơn của mình bị con cháu chà đạp, Triệu Khuông Dận dùng hoàng quyền đặt ra hạn chế nặng nề, đại biểu lớn nhất là giao cho hai Chế Quan quyền lực “phong hoàn từ đầu".
Cái gọi là “từ đầu" chính là thủ dụ của hoàng đế. Trên lý luận, “từ đầu" không có hiệu lực về pháp luật, chỉ có hai Chế Quan từ “từ đầu" ghi thành chiếu thư chính thức mới cóhiệu lực. Nếu hai Chế Quan cảm thấy ý chỉ không ổn, họ có quyền đem “từ đầu" phong trả, không ghi chiếu thư, để cho lời nói của hoàng đế biến thành không khí.
Tất nhiên không phải ai cũng có dũng khí dùng cái quyền phong trả này, đây là gọt mặt mũi hoàng đế, vả miệng hoàng đế. Cái quyền lực này chỉ có ở trong tay khúc xương cứng Vương An Thạch mới có thể phát huy tác dụng của nó.
Chỉ là chẳng ai ngờ Vương An Thạch lại tiêu diệt Tô Triệt. Mọi người đều biết quan hệ giữa con trai y với Nhị Tô và Trần Khác không tệ, cộng thêm người đảng Tân Học luôn tạo thế cho Triệu Tông Tích, rất nhiều người đều suy đoán có phải là Vương An Thạch đã trở thành người bên Triệu Tông Tích?
Ai có thể ngờ y lại đập chết Tô Triệt không chút lưu tình. Đây cuối cùng là nội chiến hay thật ra y không hề kết đảng?
Nhìn “từ đầu" bị trả về, Triệu Trinh cười nói với Tư Mã Quang:
- Người bạn tốt của ngươi thật đúng là không cho ngươi mặt mũi.
- Vương Giới Phủ là quân tử đạo đức...
Tư Mã Quang lộ ra một nụ cười khổ nói:
- Trong mắt y, dù là nhân tình thể diện, nhưng so với pháp luật triều đình thì không đáng nhắc tới.
- Y là quân tử đạo đức, vậy ngươi là gì?
Triệu Trinh cười thưởng thức, hỏi.
- Vi thần cũng luôn lấy tiêu chuẩn quân tử đạo đức...
Trí tuệ của Tư Mã Quang đủ cho y đối phó bất cứ điều khó dễ nào:
- Để yêu cầu chính mình.
- Vậy thì lạ thật...
Triệu Trinh cười nói:
- Hai quân tử đạo đức tại sao lại đấu đá lẫn nhau?
- Điều này rất bình thường.
Tư Mã Quang thản nhiên nói:
- Chính kiến bất đồng mà thôi.
- Ha ha.
Triệu Trinh cười đầy ẩn ý nói:
- Rất nhiều người còn nghĩ các ngươi chung một đảng đây này.
- Đạo của quân tử, bầy mà không đảng.
Tư Mã Quang nghiêm mặt nói:
- Nhìn lòng người lâu ngày, lời đồn sẽ tự sụp đổ!
- Không sai.
Triệu Trinh thoả mãn gật đầu nói:
- Quả nhân đối với Quân Thực ngươi vẫn rất yên tâm.
Nói xong cười tiếp:
- Còn Vương Giới Phủ, tuy gan lớn lại bướng bỉnh, nhưng hẳn y cũng không dám loạn pháp làm bậy...
- Nghe nói Vương An Thạch từ chối viết chế từ?
Trong phòng Chính Sự Đường Tập Hiền Tướng, Hàn Kỳ đang hỏi vị Tri Chế Cáo Thẩm Cấu.
Thẩm Cấu là Bảng Nhãn năm Hoàng Hữu thứ nhất. Y nhỏ hơn Vương An Thạch năm tuổi, con đường làm quan cũng tươi sáng hơn rất nhiều. Thẩm Cấu nghe thấy vậy liền cung kính nói:
- Vâng, “từ đầu" đã phong trả Hoàng thượng rồi.
- Có chút thú vị.
Trong suy nghĩ của những người không rõ chân tướng, Hàn Kỳ những năm gần đây dường như giấu tài, vô thanh vô tức. Kỳ thực ở trong Chính Sự Đường, ông ta vẫn giữ được vị thế vững chắc.
Có lẽ sống trong quân đội quá lâu, chịu ảnh hưởng từ tính cách thô dã của binh lính, cho nên dù đã lên làm chức Tể tướng, Hàn Kỳ nói chuyện vẫn tràn đầy ngữ điệu của binh nghiệp. Ngay cả trước mặt cấp trên của ông ta là Thủ tướng Phú Bật cũng không có ý kiềm chế.
Có một lần ở trong Chính Sự Đường, hai người vì một việc mà tranh cãi không dứt. Theo lý thuyết Phú Bật là thượng cấp, ngươi và thượng cấp tranh chấp, bản thân đã là sai, nhưng Hàn Kỳ lại không cho là như vậy. Tranh cãi đến đỉnh điểm, đột nhiên ông ta thốt ra một câu:
- Lải nhải điếc cả tai!
Phú Bật ngay lập tức thay đổi sắc mặt. Những từ này chỉ dùng cho phố phường cãi nhau, người có học sẽ không nói, vậy mà lại xuất hiện trong miệng của đường đường Tể tướng Đại Tống. Như vậy chính phủ cao nhất của quốc gia chả phải thành cái chợ sao? Dù Phú tướng công là người giỏi kiềm chế cũng phải tức giận đến đỏ mặt, quát một tiếng:
- Ngươi vừa nói cái gì?
Hàn Kỳ chỉ bĩu môi, không giải thích thêm…
Kỳ thực, những người quen biết Hàn Kỳ đều biết rằng, khi Hàn tướng công ở Xu Mật Viện không phải là người như vậy. Khi đó ông ta thanh cao giống như chim bay trên trời, băng tuyết trên đỉnh núi, làm người còn quân tử hơn cả Phú Bật. Chỉ khi chuyển tới Đông phủ mới bắt đầu bị lây nhiễm tính cách của quân đội.
Tú tài gặp binh, có lý nhưng không nói ra được. Có lẽ Hàn tướng công là rơi vào trong trường hợp này.
……
Hiện tại, Hàn tướng công đang ngồi ở sau bàn làm việc, khoanh tay híp mắt nói:
- Ngươi cảm thấy thế nào?
Thẩm Cấu cung kính nói:
- Vương Giới Phủ làm người bướng bỉnh, đã nhận thức đúng cái gì, khó mà có thể thay đổi.
- Hừ…
Hàn Kỳ cười lạnh nói:
- Ngươi thực sự tin rằng, những việc mà con trai y làm không có liên quan gì tới y sao?
- Con của y đã làm cái gì?
Thẩm Cấu sửng sốt hỏi.
- Không có gì.
Hàn Kỳ mới ý thức được đối phương cũng không hiểu rõ tình hình. Chỉ lắc đầu, trầm giọng nói:
- Vương An Thạch không đơn giản như ngươi nghĩ. Lý do y không chịu soạn từ là vì Tô Triệt Bao che Tể tướng, công kích nhân chủ’. Nói xong thở hắt:
- Sách luận của tên kia ta cũng đã nhìn qua. Y nói ‘Tể tướng không đủ dùng, muốn có Lâu Sư Đức, nên dùng Hách Xử Tuấn’ (*). Sao có thể nói là bao che cho Tể tướng đây?
(*) Lâu Sư Đức và Hách Xử Tuấn đều là đại thần thời Đường, làm quan thanh liêm, qua đời trong sự yên bình, vì thế hai người luôn được nhắc tên cùng với nhau.
- Đúng vậy.
Thẩm Cấu chưa từng nghĩ qua vấn đề này, nghe vậy kỳ quái hói:
- Vì sao y phải nói như vậy?
- Một là thể hiện bản thân là người không thuộc về đảng phái nào.
Hàn Kỳ lạnh lùng nói:
- Hai là, đơn giản muốn kéo lão phu xuống nước.
Thẩm Cấu không phải là kẻ ngu dốt, nghe vậy liền hiểu ý tứ của Hàn tướng công. Phong trả “từ đầu" chỉ là bắt đầu, không có khả năng cứ như vậy bị bác bỏ, nếu không quyền uy của Hoàng đế ở nơi nào? Gặp phải tình huống này, nên đến lượt Chính Sự Đường phối hợp.
Mà cách làm của Vương An Thạch là để cho Chính Sự Đường không thể che chở Tô Triệt. Bằng không song phương trở thành đồng mưu, đem nguyên nhân loạn trong giặc ngoài hết thảy đổ lên người Hoàng đế.
Dựa vào tính cách của Phú tướng công, tuyệt đối sẽ không đáp ứng, cũng sẽ không gây ra loại chuyện thị phi như vậy. Cuối cùng vẫn phải do Hàn tướng công đến xử lý.
- Cũng may tướng công phản đối Tô Triệt trúng tuyển, đây là điều thiên hạ đều biết.
Thẩm Cấu hạ giọng nói:
- Vừa lúc thuận nước đẩy thuyền…
- Trong này có trá…
Hàn Kỳ nhíu mày. Trải qua bao nhiêu năm sống trong quan trường chìm nổi, khiến cho ông ta dự cảm được nguy hiểm. Đứng dậy thong thả đi vài bước trong phòng, Hàn Kỳ dùng một tay đấm xuống mặt bàn, căm hận nói:
- Chu Du đánh Hoàng Cái!
- A?
Thẩm Cấu cả kinh hỏi:
- Vì sao tướng công nói ra lời ấy?
- Hừ…
Hàn Kỳ hừ lạnh một tiếng nói:
- Lão phu xem qua các bài văn của Tô Triệt, cảm thấy người này rất bảo thủ. Trong Tam Tô, người này là kém nhất, vậy mà y lại viết ra một bài sách luận gan lớn trùm trời như thế. Ngươi cảm thấy có kỳ quái hay không?
- Rất kỳ quái.
- Tư Mã Quang là người theo tư tưởng nói nhiều, làm nhiều không bằng yên lặng, lại đột nhiên như bị ma ám một mực cổ vũ Tô Triệt?
Hàn Kỳ càng nói, sắc mặt càng khó coi:
- Còn có chuyện Vương An Thạch bất ngờ phong trả “từ đầu", ngươi không cảm thấy việc này từ đầu đến cuối đều có vẻ quỷ dị sao?
- Tướng công nói như vậy, hạ quan cũng cảm thấy kỳ lạ!
- Đây rõ ràng là bọn họ đang đóng kịch, dùng khổ nhục kế để bẫy chúng ta.
Hàn Kỳ căm hận nói.
- Bọn họ tính toán làm thế nào?
Thẩm Cấu vẫn khó hiểu hỏi.
- Dụ chúng ta công kích Tô Triệt!
- Một Tô Triệt địa vị nhỏ nhoi, dù chúng ta giết y thì có làm sao?
- Chúng ta đã không chú ý tới Quan gia, bài sách luận này là có thâm ý.
Hàn Kỳ đã nghĩ thông suốt, sắc mặt âm trầm nói:
- Sách luận của Tô Triệt, lúc đầu quan gia cũng không coi trọng, nhưng người của chúng ta vừa đánh hội đồng Tô Triệt, quan gia liền coi cuốn sách luận đó đại biểu cho ý kiến của ngài. Chúng ta đả kích Tô Triệt, chính là chúng ta đang đả kích quan gia.
- A….
Thẩm Cấu cũng thay đổi sắc mặt nói:
- Nói như vậy, chúng ta đã trúng gian kế của bọn họ?
Không khỏi may mắn nói:
- Cũng may tướng công đoán ra kịp thời, khiến cho âm mưu của bọn họ không thực hiện được!
- Có thể âm mưu này đã thực hiện được rồi…
Hàn Kỳ âm trầm nói:
- Năm nay là năm thành lập đảng của Thái tử. Dưới tình hình rối loạn như hiện tại, một khi khiến cho quan gia có ấn tượng xấu thì sẽ rất khó xoay chuyển!
- Không đến mức như vậy đâu, phải không tướng công?
Thẩm Cấu run giọng nói. Vậy còn tiền đồ của mình….
- Đương nhiên không đến mức như vậy.
Hàn Kỳ khinh miệt liếc y một cái, ngồi lại sau bàn làm việc:
- Y có kế Trương Lương, ta có kế qua cầu. Yên tâm, có lão phu ở đây, bọn họ cũng không lật trời được.
- Đúng vậy. Có tướng công ở đây, chúng ta còn phải lo lắng sao?
Thẩm Cấu cười nói.
- Nhưng cũng không thể khinh thường.
Hàn Kỳ nhìn y nói:
- Nếu Vương An Thạch không chịu viết chiếu, vậy ngươi đến viết thay.
- Mong tướng công chỉ bảo.
Trong phòng của Tể tướng, giấy tờ bút mực đều chuẩn bị đầy đủ, Thẩm Cấu lập tức tiến vào trạng thái công tác.
- Vẫn có câu yêu cho roi cho vọt, tên Tô Triệt này mặc dù có chút cuồng ngạo, nhưng cũng là người yêu nước. Quả nhân tha thứ cho vị cuồng nhân trực tính này, coi như một việc thiện.
Hàn Kỳ suy nghĩ một chút, chậm rãi nói.
Trong căn phòng, Thẩm Cấu dùng chế từ viết theo lời của Hàn Kỳ. Viết xong, y đưa cho Hàn Kỳ duyệt: “Trẫm phụng mệnh tiên thánh, thống trị thiên hạ. Mặc dù ngủ quên trong cảnh thái bình, không dám hưởng lạc, thường lo sợ mình có điều sai quấy làm hỏng cơ nghiệp của tổ tiên.. Việc triều chính không hề bỏ bê, luôn lắng nghe ý kiến của các đại thần. Nay có Tô Triệt thẳng thắn khuyên gian, tuy tài văn chương chưa giỏi lắm, chưa nghiên cứu kỹ, nhưng nể tình y có tấm lòng ái quân. Trẫm viết ra những lời này để tỏ rõ sự khen ngợi y."
- Không tồi.
Hàn Kỳ hài lòng vuốt cằm nói:
- Chính là ý này.
Quyển chiếu này được viết vô cùng khéo léo. Đầu tiên là nói về lời phê bình của Tô Triệt hướng tới quan gia, nhưng quan gia vẫn tỏ thái độ khoan dung rộng lượng, đồng thời phê bình sách luận của Tô Triệt ‘Tài văn chương chưa được, chưa nghiên cứu kỹ’ nhằm trấn an đám người Hồ Túc phản đối Tô Triệt. Kế
Tác giả :
Tam Giới Đại Sư