Ngược Về Thời Minh
Chương 195: Tình thế nan giải
Tiếng vó ngựa dồn dập, hơn hai mươi người cưỡi những thớt ngựa tráng kiện băng qua sông Ngự đến dưới chân núi Bạch Đăng. Con đường đất vàng vốn được đầm chắc đã bị tuyết tan thấm nhão, lại bị những đoàn xe quân sự xuôi ngược nghiến qua tạo nên những dải đất cứng ngoằn ngoèo vệt bánh xe, thế nhưng tuấn mã vẫn thoải mái phóng qua, lướt đi băng băng.
Những người này đều cưỡi ngựa giắt đao, áo da ống bó, đầu đội mũ trùm da hươu da chó, vung roi thúc ngựa trông rất dũng mãnh tráng kiện. Nhìn bọn họ y như những kẻ thân hào giàu có ra ngoài săn bắn, nhưng vùng Đại Đồng quanh năm gặp nạn binh đao, trăm họ lân cận cũng biết một ít về quân sự, nếu trông thấy vũ khí của những kỵ sĩ này nhất định sẽ cảm thấy hơi quái lạ.
Vỏ đao hơi cũ, trên chuôi đao không hề có dải tua đỏ trang trí, thân đao dài hơn đơn đao mũi dẹp bình thường đến hơn một thước, cùng là một loại phác đao. Các bộ phận đồng thau nối lưỡi vào chuôi đao đều sáng loáng do ma sát với vỏ đao, xem ra tất cả đều là vũ khí tùy thân được sử dụng hàng ngày.
Nỏ ngắn và bao tên treo lệch một bên yên ngựa, trông khí phách này tuyệt không phải là những kẻ đạp tuyết săn thú bình thường. Lúc gần trưa trời vừa đổ một cơn tuyết nhỏ kéo dài, quá trưa thì vừa tạnh, vẫn còn sót lại một ít bông tuyết rơi rơi, không khí se lạnh sảng khoái, thấm tận ruột gan.
Không xa ở phía trước là ngọn núi Bạch Đăng, nằm dựa vào núi Phương về hướng bắc. Năm xưa Hán Cao Tổ là Lưu Bang dẫn ba mươi hai vạn đại quân viễn chinh Hung Nô, sau một trận đại thắng đã khinh địch liều lĩnh tiến bừa, bị bốn mươi vạn đại quân Hung Nô vây khốn trên Bạch Đăng sơn suốt bảy ngày bảy đêm, sau phải dùng diệu kế mới có thể thoát thân. Ngọn núi nhỏ bé này cũng nhờ đó mà vang danh thiên hạ.
Trời rét đậm giữa tiết trọng đông, hiếm có ai nhàn rỗi lên núi nên vừa đến lân cận vùng núi đã không còn thấy dấu vết con người. Hơn hai mươi kỵ sĩ ruổi ngựa lên đồi, phóng mắt nhìn ra xa, trên cánh đồng tuyết nhấp nhô như sóng gợn nằm trơ trọi một ngọn núi nhỏ, cao không quá trăm trượng, cũng không tính là quá cao, thế núi thoai thoải. Lúc đầu nghe nói là "núi", Dương Lăng còn tưởng nó cao lớn hiểm trở thế nào, giờ trông thấy ngọn núi đồi và vùng đất khá bằng phẳng chung quanh, y mới cảm thấy yên tâm.
Ngọn núi này là một ngọn núi đồi đất vàng, căn bản không có chỗ nào hiểm trở để phòng thủ. Đương nhiên nếu trên núi bố trí trọng binh, chiếm lấy địa thế trên cao, thì với năm nghìn binh mã trở lên cũng đủ để chống lại sự công kích của mấy vạn đại quân. Từ nơi này đến Đại Đồng chỉ khoảng chục dặm, nếu thật sự gặp nguy hiểm, chỉ cần kiên trì chống đở nửa ngày là đủ để quân Minh kéo tới tiếp cứu.
Quanh núi là một mảng đồng hoang bát ngát. Nếu quân Minh bố trí sẵn phục binh, Đoá Nhan Tam Vệ đến kết minh cũng sẽ có thể phát hiện từ xa mà kịp thời xa chạy cao bay. Quả thật đây là chốn rất thích hợp để làm nơi đàm phán.
Tuy ngọn Bạch Đăng không cao nhưng chung quanh lại rộng rãi, chu vi chừng mấy dặm. Dương Lăng dẫn hơn hai mươi thân binh lên núi, ngước mắt nhìn xa, phía bắc chính là núi Phương trập trùng, cách chừng hai dặm là một thôn trang xem chừng cũng không nhỏ.
Dương Lăng ngồi thẳng trên lưng ngựa, quay đầu lại hơi nheo mắt nhìn về phía con đường trắng xoá đến nhức mắt, trông thấy từ đằng xa có mấy bóng đen đang đến gần. Với tốc độ đó, ắt hẳn bọn họ cũng đang cưỡi khoái mã.
Dương Lăng thả lỏng cương ngựa, cười sảng khoái:
- Quả nhiên không giấu được mắt kẻ hữu tâm.
Ngũ Hán Siêu đưa cương ngựa lên đẩy vành nón, hơi căng thẳng:
- Đại nhân! Phục binh của chúng ta đang ở Lý Gia tập, cách nơi đây hai dặm. Thuộc hạ vẫn cảm thấy bất an trong lòng, chúng ta có nên đến gần bên đó một chút nữa chăng?
Tuy Ngũ Hán Siêu tài cao gan lớn nhưng chàng cũng biết trong Di Lặc giáo có mấy tay cao thủ trùm đời. Chưa nói đến giáo chủ Lý Phúc Đạt của Di Lặc giáo, nội ba người con của lão cùng vài vị thiên sư trong giáo cũng võ nghệ không kém cạnh gì chàng ta. Nếu đơn thương độc mã thì chàng tự tin dù không địch lại cũng vẫn có thể tẩu thoát, song hiện tại có Dương Lăng ở đây, chàng không dám mạo hiểm. Nhược bằng Dương Lăng lại bị kẻ địch bắt đi mất, khi ấy chẳng cần người khác nói ra nói vào, bản thân chàng cũng sẽ chỉ còn có nước tự sát tạ tội.
Dương Lăng lại không nghĩ vậy. Không phải là y lơ là, có điều hôm nay hai mươi tay thân binh bên cạnh y không phải là quân lính "chuyển ngành" thành phiên tử Nội xưởng, mà là thị vệ đại nội y mượn của Chính Đức. Thuộc hạ chân chính thuộc về y thì ngoài Ngũ Hán Siêu ra chỉ còn gã Lưu Đại Bổng Chùy do y mới thu làm thân binh thị vệ.
Võ công những người này tuy không bằng Ngũ Hán Siêu, song cũng không thua kém bao nhiêu. Nhóm truy binh đã đuổi đến gần kề, xem ra chỉ có bảy tám người cưỡi ngựa, hơn hai mươi người này của mình chẳng lẽ còn không thu thập nổi? Xem ra mình đã vẽ to chuyện khi âm thầm bố trí bốn trăm tay phục binh ở Lý Gia tập sau khi nhận được tin tức do Hàn Lâm đưa đến hôm qua rồi.
Hai mươi tay thị vệ đại nội ngồi ung dung bình tĩnh trên lưng ngựa, hơi tò mò nhìn chằm chằm vào đội nhân mã đang đến gần. Những thị vệ này đều là những trang thiếu niên anh tuấn kiêm tài lẫn đức của các môn phái, rất ít kẻ làm việc trong cung. Chỉ cần dựa vào chiêu bài đại nội thị vệ, trên giang hồ còn kẻ nào dám đắc tội với bọn họ? Cho nên ai nấy cũng đều đặt mắt ở trên trán, mấy tên yêu nhân Di Lặc giáo còn chưa đáng để lọt vào mắt bọn họ.
Lưu Đại Bổng Chùy là kẻ duy nhất trong đám thị vệ này sử dụng côn sắt. Gã râu xồm này là kẻ võ biền, tuy côn pháp quanh đi quẩn lại chỉ có mấy chiêu song lại rất hữu dụng để giết giặc trên chiến trường. Mặc dù so tài đo nghệ thì gã không bằng Ngũ Hán Siêu, nhưng một khi xông pha chém giết trên chiến trường thì vô luận là thanh thế hay số kẻ thù giết được thì Ngũ Hán Siêu đều kém xa gã.
Gã hồi hộp liếm môi, ồm ồm khuyên giải:
- Đại soái! Thuộc hạ nghĩ hay là chúng ta cứ đến Lý Gia tập đi. Mặc kệ nó là yêu đạo hay là giặc Thát, Đại Bổng Chùy tôi đều chả sợ chút nào. Nhưng mà có đại soái ở đây, nếu thật sự động thủ thuộc hạ sẽ bị bó tay bó chân lắm! Vừa phải để ý tới đại soái, vừa phải đánh yêu đạo, phiền phức lắm.
Tuy gã này nói chuyện thô lỗ, nhưng sự quan tâm lại biểu lộ rất rõ ràng, Dương Lăng nghe xong thì bất giác bật cười. Suy nghĩ một lúc, y bảo:
- Được, vậy chúng ta đi! Đến Lý Gia tập chờ bọn họ.
Lý Gia tập nằm kế Đại Đồng. Con đường truyền tin từ kinh sư đi qua đầu thôn kéo đến quan ải phương bắc, nối mọi nẻo đường nên khá là đông đúc. Thương nhân buôn lậu không dám để bò, dê, ngựa trong thành Đại Đồng mà phần lớn bọn họ sẽ nương nấu tạm ở đây, đợi mua bán xong xuôi rồi mới đồng loạt chuyển đi, cho nên đầu thôn còn mở một quán ăn lớn.
Nói là quán ăn nhưng chẳng qua chỉ là mấy gian chòi gỗ trét bùn, cung cấp nước nôi và vài món ăn đơn giản, để những người buôn bán vãng lai có chỗ nghỉ chân, lót dạ. Chung quanh quán được bao bọc bởi một hàng rào cây, không hề có cánh cửa gỗ nào cả, trông hết sức đơn sơ. Hiện đang là mùa đông, buôn bán tiêu điều, quán ăn chỉ mới mở một cánh cửa, bên trong vẫn chưa có khách.
Thấy đám đông hơn hai mươi người của Dương Lăng kéo đến, ông chủ quán không khỏi vui sướng ngất ngây, liền vội chạy ra nghênh đón, mặt cười toe toét nồng nhiệt đón tiếp:
- Chào các vị khách quan! Các vị dùng món gì vậy?
Lão lia mắt thật nhanh, nhận biết những người này không giống thương gia bình thường. Nhưng lão chỉ là ông chủ của một quán ăn nho nhỏ, là một tiểu nhân vật thấp hèn nhất, kiếm được hai văn đồng trinh đã là tốt rồi, sẽ không có ai lại hạ mình đi gây chuyện với những kẻ nghèo khổ như lão.
Lưu Đại Bổng Chùy buộc ngựa vào cột, lại nhanh nhẹn tiếp lấy cương ngựa của Dương Lăng buộc vào, rồi lớn tiếng dặn dò:
- Ông chủ! Trong quán có món gì ăn được thì cứ bưng lên là được rồi! Đồ ăn nóng càng tốt, đúng rồi, kiếm chút rượu trắng luôn.
Ông chủ vội đáp:
- Dạ! Trong quán có bánh bao không nhân, bánh nướng, còn có lợn béo vừa mới mổ đón tết nữa. Tuyệt nữa là có món thịt heo xắt vụn, các vị khách quan lại uống thêm bát canh dê, bảo đảm uống xong sẽ thấy ấm người.
Xắt vụn là cách gọi của người dân sứ Sơn Tây. Cách làm là ngâm heo hoặc dê cả vào nước, rồi lát mỏng, rắc gia vị như tiêu, gừng, tỏi, muối... vào, sau đó hầm thành một nồi. Dùng món thịt nguội này với rượu trắng, kết hợp cùng nước canh dê óng ánh, quả thực mùi vị rất không tệ.
Đám đại nội thị vệ vây quanh bảo vệ Dương Lăng đi vào chòi. Lau sậy được chất quanh chòi thành đống, bên trong kín gió nên khá ấm áp. Sáu viên thị vệ không cần căn dặn đã dằn đao chậm rãi đi loanh quanh trước cửa. Chiến mã được buộc kiểu thòng lọng ở một bên, giật một cái liền tuột ngay, có thể lên ngựa tác chiến bất cứ lúc nào.
Chủ quán bê một vại nước cốt ngâm trong một cái chậu to từ trên quầy đến; trời lạnh khiến mặt trên lớp thịt lợn xắt vụn đóng một lớp váng mỡ trắng tinh. Ôngg chủ vội vã chạy ra sau quán gọi lớn:
- Con mẹ nó Tam Nhi, mau đun lửa hâm đồ ăn đi! Tao nói thằng nhãi mày mau nhanh chân một chút đi, mặt trời đã chiếu tới đít rồi! Mau chạy đi lấy lúa mạch và trấu cám đem cho ngựa của mấy vị khách quan đây ăn đi!
Dương Lăng xát mạnh hai tay, cười nói:
- Chủ quán à, không cần phải lo cho ngựa đâu! Chúng tôi đến từ thành Đại Đồng, không xa mấy, chốc nữa còn phải chạy về. Ăn đại chút gì đó là được rồi.
Căn chòi lớn này xoay về hướng mặt trời, khi cuộn rèm lên ánh nắng sẽ chiếu thẳng vào, khiến nó ấm hơn khi che rèm lại. Dương Lăng ngồi ở bàn gần cửa, ánh nắng rọi lên thân y, bóng râm của chòi che khuất khuôn mặt nên y lại có thể nhìn thấy rõ bên ngoài.
Mặt đất sau mùa gặt phủ một lớp tuyết trắng mỏng manh, thấp thoáng lộ ra những gốc rơm rạ, sáu bảy thớt ngựa ở đằng xa dừng lại trên con đường dưới chân núi Bạch Đăng một chốc, chừng như đang do dự không biết có nên đuổi theo hay không. Dương Lăng thấy vậy không khỏi thầm cười nhạt. Đêm qua Hàn Lâm đã lặng lẽ phái người chuyển tin tức thám thính được sang chỗ y.
Do binh hoang mã loạn, thương nhân từ các nơi khác đến thành Đại Đồng không nhiều. Nhờ Hàn Lâm khổ tâm tổ chức ở Đại Đồng, mạng lưới tình báo của Nội xưởng dễ dàng nắm vững hành tung của bọn họ và truyền tin về.
Hàn Lâm biết nếu muốn giết Hoàng đế, quyết không thể chỉ vài ba nhân vật giang hồ võ công siêu đẳng mà đã có thể làm được; chỉ riêng việc theo dõi, cảnh giới, và dò la tin tức đã cần đến không ít người rồi. Vì vậy ông lại sàng lọc trong những tin tức được trình lên, chọn ra toàn bộ những nhóm dưới hai ba người, đặc biệt là những nhóm có phụ nữ và trẻ em, sau cùng chỉ còn lại mấy tốp nhân vật cực kỳ khả nghi.
Đám người Dương Hổ tự xưng là thương nhân hàng da, nhưng quản sự và gia bộc mang theo có đến bảy tám người. Năm mới bọn họ lại chạy vội chạy vàng đến thành Đại Đồng, chỉ ăn rồi ngủ, không chịu vội mua hàng rời đi, thật hết sức đáng ngờ. Thành thử ông đã phái thêm người bí mật giám sát bọn họ, đồng thời mau chóng truyền tin cho Dương Lăng.
Hiện Đại Đồng giống như binh doanh vậy, Dương Lăng cũng dự liệu nếu quả thật có thích khách thì nhân số cũng sẽ không quá nhiều. Trương Vĩnh nghe tin xong thì lập tức muốn mang người đi bắt bọn họ lại, mặc kể có phải là kẻ xấu hay không, cứ vứt vào đại lao rồi tính sau.
Đám người Đại vương, Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu đã ngầm ưng thuận việc Hoàng đế gặp mặt Hoa Đáng, hơn nữa cũng đã ngầm hẹn không đến bái kiến Hoàng thượng, cho nên bề ngoài bọn họ cũng vờ như không hề biết chuyện Hoàng đế đang ở Đại Đồng.
Dương Lăng lo rằng nếu Nội xưởng giương cờ gióng trống bắt người trong thành, một khi tin tức lọt vào tai đám người Hồ Toản thì bọn họ sẽ lại đổi ý, lo lắng chạy ào tới khóc lóc can ngăn Hoàng thượng. Cho nên y quyết định lấy thân làm mồi, dụ rắn ra khỏi hang.
Đằng xa, đám sáu bảy kỵ sĩ cứ đi lòng vòng mà không tiến vào thôn nọ dường như đã bàn bạc xong, bỗng giục ngựa phi thẳng tới. Bọn thị vệ ngồi trong chòi cùng đứng dậy đánh soạt, tay đã án trên chuôi đao.
Dương Lăng bình tĩnh bảo:
- Ngồi xuống! Bọn chúng có thể xông thẳng vào trong chòi hay sao? Chuẩn bị kỹ hoả tiễn và pháo hiệu, một khi có sự liền lập tức gọi người. Quan binh bắt giặc không tội gì mà đơn đả độc đấu!
Đám thị vệ lại chậm rãi ngồi xuống, song tay vẫn dằn trên chuôi đao, mắt nhìn chằm chằm ra bên ngoài.
Đám người nọ tới gần, tổng cộng bảy người ngựa. Ngoại trừ một lão già trạc ngũ tuần, còn lại đều là tráng niên tuổi chừng ba mươi, trông khoẻ như cọp, đầu quấn khăn trùm, hông giắt Nhạn Linh đao. Ánh mắt của Dương Lăng thoáng lướt trên khuôn mặt của bảy người rồi dừng lại trên mặt một gã mặt sẹo.
Người này chính là Dương Hổ. Tuy gã đã cải trang, khuôn mặt đã được thay đổi qua loa nhưng thân hình vẫn vậy. Cái khí chất ngông cuồng ngạo nghễ vẫn khiến y nổi bật giữa đám đông như hạc giữa bầy gà, nghiễm nhiên là thủ lĩnh của cả bọn.
Ánh mắt của hai người chạm vào nhau trong tích tắc, mắt Dương Lăng hơi loé lên một tia kinh ngạc. Y đã mang máng nhận ra Dương Hổ, "Không ngờ kẻ đuổi tới lại là Dương Hổ mà không phải là người của Di Lặc giáo." Việc này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của y.
"Sao Di Lặc giáo không thấy có động tĩnh gì mà lại là Dương Hổ đuổi tới đây?
Nếu cho rằng Hồng Nương Tử gạt mình thì thực khó hiểu. Dù sao thì mình cũng đã biết tin, bất luận thật hay giả ắt sẽ đều tăng cường cảnh giác. Nếu những gì Hồng Nương Tử nói là thật, thì sao Dương Hổ còn ngu xuẩn để mặc cho Di Lặc giáo lợi dụng? Chẳng lẽ gã và Hồng Nương Tử vẫn chưa gặp nhau, vẫn chưa biết chuyện này?"
Vẻ kinh ngạc thoáng qua trên khuôn mặt Dương Lăng bị Dương Hổ lầm tưởng là do sợ hãi. Trên mặt gã loé lên vẻ khinh thường rồi quay đầu đi như không có việc gì. Gã vừa ngông nghênh bước vào chòi vừa gọi chủ quán:
- Ông chủ, xắt mười cân thịt bò, hâm một vò rượu nóng, mau dọn lên cho bọn ta!
Gọi món rồi gã sảng khoái ngồi phịch xuống bàn bên, gỡ thanh bội đao giắt hông vắt ngang lên bàn, hung hãn trừng mắt với Dương Lăng.
Chủ quán vội châm trà đưa lên bàn cho gã, thừa dịp liếc mắt nhìn đám người chung quanh. Ai nấy mặt mày hầm hầm, cộng thêm bầu không khí căng thẳng và lạnh lẽo khiến lão rét cả người, bèn lật đật lui ra sau quầy.
Dương Hổ cũng không thèm để ý đến lão, hai mắt gã vẫn nhìn Dương Lăng chằm chằm. Gã thực căm hận Dương Lăng đến tận xương tủy, hai trăm tâm phúc của gã bỏ mạng trước Cao Lão trang, mối thù này gã trút hết cả lên đầu Dương Lăng. Nay ái thê cũng vì bất đồng ý kiến mà giận dỗi bỏ đi, món nợ này gã cũng trút lên đầu Dương Lăng nốt, vì vậy gã càng coi Dương Lăng là cái gai phải nhổ.
Di Lặc giáo giao du với tầng lớp thượng tầng, biết rằng Hoàng đế cải trang không phải là chuyện đùa, nếu trọng thần bên cạnh hắn bị ám sát thì khi ấy muốn đụng đến hắn ắt sẽ khó như lên trời. Nhưng Dương Hổ - một tên mã tặc - thì lại suy luận rằng diệt trừ được vây cánh của Hoàng đế thì mới dễ xuống tay với hắn ta.
Chỉ mang theo vài người, gã ở Đại Đồng như kẻ mù dắt ngựa loà, không có kể sách gì cả, biện pháp duy nhất chính là phái người thay phiên dán mắt vào Dương Lăng, giúp y canh nhà giữ sân, âm thầm theo y tới lui giữa vương phủ và dịch quán. Sáng hôm nay nhận được tin Dương Lăng cải trang giả dạng thường dân ra ngoài thành, Dương Hổ mừng khôn kể xiết, liền lập tức dẫn người đuổi theo.
Sát khí bao trùm cả căn chòi, thớ thịt của mọi người đều trở nên căng cứng, ánh mắt âm u lạnh lẽo nhìn chằm chằm vào đối phương, đại chiến chực chờ bùng nổ. Dương Lăng nhón lấy chén trà, cẩn thận uống một hớp rồi lại nhẹ nhàng đặt xuống, chỉ sợ tiếng động lớn quá sẽ lập tức dẫn đến một hồi đại chiến.
Lão chủ quán khéo nhìn sắc mặt trông thấy tình hình không ổn, thế là không khỏi thầm kêu khổ. Lặng lẽ đẩy bàn tính ra, lão bắt đầu khe khẽ lui về phía sau, lặng lẽ đưa tay ra sau lưng rờ tấm rèm cửa.
Dương Hổ lặng lẽ quan sát một hồi, phát hiện trong và ngoài chòi chỉ có hơn hai mươi người. Sau khi ước lượng qua võ công của đám phiên tử Nội xưởng trong đêm công kích Dương phủ ngoài Cao Lão trang, gã liền có quyết định.
Hiện tại ngoại trừ gã còn có một cao thủ về Ưng Trảo công là Hoắc Ngũ Thúc, nếu muốn tập kích giết chết Dương Lăng giữa sự bảo hộ của hơn hai mươi tên thị vệ này thì phần thắng ít ra cũng có đến bảy thành. Gã đưa mắt nhìn Hoắc Ngũ Thúc ngồi đối diện, mắt hơi cụp xuống ra hiệu đã quyết định động thủ!
Lão chủ quán vừa mới vén rèm cửa, Dương Hổ đã chợt đứng bật dậy, các đại nội thị vệ ngồi chung quanh nhịn không được cũng đứng cả lên. Tiếng đao bạt khỏi vỏ xoàn xoạt nghe rợn người, đao quang loé khắp căn chòi.
Thủ hạ của Dương Hổ cũng đứng bật dậy, lật ngã một băng ghế dài xuống đất đánh “bộp". Chỉ có Hoắc Ngũ Gia vẫn ngồi trên ghế dài vững như bàn thạch, song trên mu bàn tay cầm chén trà nóng hổi của lão đã không chút cử động mà nổi vồng gân xanh.
Dương Lăng và Ngũ Hán Siêu ngồi đối diện cũng không động đậy; Ngũ Hán Siêu một tay dằn lấy phối kiếm (*), một tay lặng lẽ lần vào trong chiếc túi giắt thõng dưới lưng, cầm lấy năm cây phi tiêu Kim Tiền được mài bén cạnh. Lưu Đại Bổng Chùy ngồi bên phải lại đã nhảy bật dậy, nắm chặt cây côn sắt đen thùi trong tay.
(*) một loại kiếm cổ có nguồn gốc từ Indonesia.
Xem thêm http://baike.baidu.com/view/3075016.htm
Dương Hổ liếc mắt nhìn quanh, rồi chợt ngửa mặt lên trời cười lớn. Tiếng cười liên miên của gã chưa dứt, Dương Lăng cũng chợt mỉm cười nói:
- Trước mặt hẳn là Dương Hổ Dương huynh phải không? Từ dạo chia tay nhau tại kinh sư, bấy lâu huynh vẫn khoẻ chứ?
Dương Hổ cười gằn đáp:
- Đa tạ đã quan tâm! Dương mỗ gặp nạn lớn không chết, vẫn mong được báo đáp ân đức của Dương đại nhân đây. Tiếc rằng thềm cửa nhà họ Dương quá cao, Dương mỗ chẳng dám bước vào. Giờ thì tốt rồi, đại nhân vậy mà rời xa kinh sư, thật đúng là cầu được ước thấy, ông trời có mắt đây.
Dương Lăng khẽ lắc đầu bảo:
- Vốn dĩ... chúng ta có thể làm huynh đệ tốt. Ngươi đuổi đến Đại Đồng, có phải là đã quyết tâm muốn tạo phản? Có chịu nghe ta khuyên nhủ một câu không? Lúc này buông đao, bản đốc có thể tha cho ngươi tội chết!
Dương Hổ cười hắc hắc, đang định giễu lại, chợt có tiếng vó ngựa gõ dồn, mọi người trong chòi đều vụt đưa mắt nhìn xa ra bên ngoài. Từ đằng xa có một người cưỡi khoái mã phóng như bay tiến đến. Kỵ sĩ khom lưng trên lưng ngựa, cùng ngựa tạo nên một đường thẳng tắp, nhìn từ xa trông không rõ tướng mạo, chỉ nhận ra được người đó vận một chiếc áo bào màu tro, là trang phục đàn ông, hông giắt một cây đao thép không vỏ, thi thoảng tia nắng quét ngang hắt ra những tia sáng chói mắt.
Chỉ trong chốc lát ngựa đã đến trước cửa chòi, kỵ sĩ ghìm cương, kiện mã hí một tràng dài, người nọ đứng thẳng dậy, vó ngựa đá tung cụm tuyết trước mặt. Chân ngựa còn chưa tiếp đất, kỵ sĩ đã nhẹ nhàng nhảy xuống, sải bước tiến vào trong chòi.
Hai bên đang ở thế giương cung bạt kiếm, không biết kẻ đến là địch hay ta, đều trừng mắt nhìn kẻ đó không nói tiếng nào. Người này mặt ngọc mày kiếm, mũi cao miệng nhỏ, thoạt trông khí khái tràn trề, tuy ăn vận như một chàng trai trẻ tuấn tú, nhưng Dương Lăng và Dương Hổ liếc mắt đều lập tức nhận ra cô nàng qua lớp dịch dung vô cùng đơn giản đó. Dương Hổ mừng rỡ gọi:
- Nương tử, nàng đến thật đúng lúc! Hãy liên thủ với vi phu giết chết Dương Lăng báo thù cho các huynh đệ!
Năm ngón tay của Hoắc Ngũ Gia bấu chặt lấy chén trà nóng hổi, vốn định ném về phía Dương Lăng, lúc này trông thấy nàng, lão cũng kinh ngạc lỏng tay, mừng rỡ đứng dậy gọi:
- Oanh Nhi? Cháu gái ngoan của thúc, thực khiến Ngũ thúc lo muốn chết. Mau qua đây, Dương Lăng chỉ mang theo hơn hai mươi tên thị vệ, chú cháu chúng ta liên thủ liền sẽ có thể giết y dễ như trở bàn tay!
Thôi Oanh Nhi đanh mặt đáp: ối
- Ngũ thúc, mục tiêu chính của chúng ta là Di Lặc giáo. Muốn báo mthù đó thì thật là chuyện chó đi bắt nhím, biết cắn chỗ nào*. Nếu vì trăm họ, chúng ta nào có bản lĩnh cai trị giang sơn. Nếu thật sự sát hại Hoàng đế và Dương Lăng, chính là giúp cho Di Lặc giáo toại nguyện, lại khiến cho giặc Thát ngoài quan ải thừa thế xông vào. Chúng ta gánh không nổi tiếng xấu mấy đời này đâu. (*: ý nói tìm kiếm Di Lặc giáo báo thù là chuyện vô vọng)
Cặp mắt như thu thủy của nàng liếc sang Dương Lăng, rồi chắp tay vái những tay thảo khấu, nói:
- Các vị huynh đệ, trong các vị có người là nhân mã trại cũ của Thôi gia ta, có người là huynh đệ khe Phi Hổ của tướng công ta. Thôi Oanh Nhi và các vị huynh đệ cùng tiến cùng lui, đồng sinh cộng tử, đã có bao giờ là kẻ sợ chuyện? Cho dù là vị khâm sai đại nhân này...
Nàng liếc ngang đôi mắt đẹp về phía Dương Lăng, ngạo nghễ nói tiếp:
- Ta cũng tự tay bắt y về, bình yên mà thoát khỏi vòng vây trùng trùng của mười vạn đại quân. Oanh Nhi không phải là kẻ sợ chuyện. Nhưng người giang hồ chúng ta coi trọng đạo lý oan có đầu, nợ có chủ. Dương phủ là con dê béo, chúng ta là kẻ bắt cóc, có đắc thủ hay không đều phải dựa vào bản lĩnh mỗi người. Chưa từng nghe chuyện bắt cóc thất thủ rồi lại coi con dê béo là kẻ thù; đó chỉ là bởi chúng ta học nghệ chưa tinh thông mà thôi!
Nhưng nếu như chúng ta đã bị kẻ khác lừa đi bắt người, đã trúng phải kế lùa hổ trị hổ của người ta, các vị nói thù này có nên trả không? Nay rõ rành rành Di Lặc giáo muốn đối phó với Dương Lăng, sơn trại chúng ta bị quan binh nhổ mất mà chúng ta lại cứ cố chạy đến làm tốt thí cho người ta, để người ta ăn ốc còn mình phải đổ vỏ, làm chuyện ngu xuẩn như thế xem có được không?
Đoạn nàng bất mãn trừng mắt với Dương Hổ, bảo:
- Thấy các người lục tục kéo ra khỏi thành thì ta ra theo thôi, không có ý gì khác cả. Ta không đồng ý với việc giết Dương Lăng vin vào lá cờ "Thế thiên hành đạo" của sơn trại chúng ta! Lý lẽ cần nói ta đã nói hết rồi, huynh đệ nào đồng ý với ta, mời đứng sang bên này!
Những người thuộc trại cũ của Thôi gia đưa mắt nhìn nhau. Bọn họ đều là lứa cao thủ sơn tặc trẻ tuổi, trong mắt bọn họ, sức hiệu triệu của Thôi đại tiểu thư hơn xa Hoắc Ngũ Thúc đã qua thời đỉnh cao. Nghe xong những lời lẫm liệt của Thôi Oanh Nhi, bọn họ từ từ bỏ đao xuống, chần chừ bước sang bên cạnh Thôi Oanh Nhi.
Dương Hổ giận muốn rách phổi, trợn mắt mắng to:
- Thôi Oanh Nhi, cô điên rồi à? Cô là vợ ta hay là vợ tên Dương Lăng hả? Không ngờ cô lại nối giáo cho giặc! Cô không giúp ta thì thôi, còn muốn lôi kéo các huynh đệ đi, đấy là bổn phận làm vợ đó sao? Được lắm, được lắm!
Gã giận quá hóa cười:
- Xưa nay ta luôn nhịn cô, nhường cô, nhưng không sợ cô. Cô thật sự nghĩ mình là Dương Khóa Hổ ư? Trở về sơn trại ta sẽ mời tất cả các trại chủ các núi tới trước mặt nhạc trượng đại nhân hỏi cho rõ ràng. Lão dạy dỗ con gái mình thật giỏi!
Hoắc Ngũ Thúc cũng không nén được lửa giận. Tuy rằng lão yêu thương Thôi Oanh Nhi, thế nhưng con gái lấy chồng coi như nước đã đổ đi, không liên can gì đến Thôi gia nữa, đâu lại có chuyện vợ trái lời chồng, đó chẳng phải là đại nghịch bất đạo sao? Hơn nữa lúc đi lão gia tử đã có lời yêu cầu lão áp chế Thôi Oanh Nhi, không để nàng can thiệp vào đại sự của Dương Hổ.
Hoắc Ngũ Thúc nghiêm khắc quát:
- Bọn khốn chúng mày! Lúc lão gia tử phái chúng mày đi đã nói thế nào? Hết thảy đều phải nghe theo sự an bài của cô gia, giờ lại theo Oanh Nhi làm loạn sao? Dương Lăng đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây, ngoại trừ hôm nay, còn có cơ hội nào tốt như vậy nữa chứ? Nghe lời ta, cùng cầm lấy vũ khí, làm thịt cái tên họ Dương nó, bằng không chắc các ngươi cũng biết sơn quy của Thôi lão đại rồi đó.
Mấy gã cao thủ thuộc sơn trại nhà họ Thôi lưỡng lự nhìn nhau, cảm thấy khó xử, nhất thời không biết nên nghe ai. Khuôn mặt xinh xắn của Thôi Oanh Nhi thoáng trắng bệch, nói:
- Ngũ thúc, Dương Hổ bị lợi danh làm mê muội tâm can, thúc còn chống lưng cho gã sao?
Hoắc Ngũ Thúc hừ một tiếng, nghiêm khắc:
- Oanh Nhi, đừng trách Ngũ Thúc nói với con điều này: con đang làm chuyện quá hồ đồ khiến người ngoài nghe thấy chê cười rồi đó. Chúng ta là kẻ lăn lộn trên sơn trại, vậy mà con lại đến giúp quan binh, sau này cha con và chồng của con biết đứng trong giới lục lâm như thế nào?
Lưu Đại Bổng Chùy nhìn thấy màn đấu đá nội bộ này mà cả mừng, nhăn nhở cười nói:
- Thực có khí phách! Đấy gọi là thấu hiểu đại nghĩa. Cái... cái cô gái Hồng Phất nữ này(*), ừm, hẳn là một cô nương không còn thú vị gì lắm rồi, nếu không một nữ nhân hiểu lý lẽ như vậy, một tên thủ lĩnh mã tặc như hắn sẽ không nói bỏ là bỏ ngay đâu. Thôi thì theo đại soái của chúng ta ăn uống thoả thuê đi!
(*: Nhắc tích Hồng Phất Nữ là nữ tì của Dương Tố, nàng nhận ra Lý Tịnh, tuy đang hàn vi, là bậc anh hùng thao lược nên đang đêm bỏ phủ Dương Tố, trốn theo Lý Tịnh)
Thôi Oanh Nhi nghe hắn nói xằng thì giận đến nóng mặt, cổ tay thoáng run lên, một chiếc thiết tật lê (đinh sắt) bay vút về phía cái miệng đang thao thao bất tuyệt của Lưu Đại Bổng Chùy. Ngũ Hán Siêu đã đề phòng sẵn, một đồng tiền liền bay tới nghênh đón, "keng" một tiếng, hai miếng sắt chạm vào nhau bắn sang một bên.
Lưu Đại Bổng Chùy giật mình hoảng hồn, mắng lớn:
- Mẹ nó! Sơn tặc đúng là sơn tặc, trở mặt còn nhanh hơn cả lật sách!
Ngũ Hán Siêu cười nhạt nói:
- Hắn là kẻ thô lỗ, Dương phu nhân hà tất phải so đo? Dương đại đương gia định bắt nạt lúc chúng ta ít người sao? Thật ngại quá, nói thật với huynh đài, chỉ dựa vào mấy người chúng ta đây, các vị chưa hẳn đã đánh lại. Vả lại, đúng như vị Ngũ thúc đây đã nói, đại nhân chúng ta đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây, há chỉ có bấy nhiêu người?
Đám người Dương Hổ, Hoắc Ngũ thúc và Hồng Nương Tử thoạt tiên là sững ra, rồi lập tức sực hiểu, sắc mặt không khỏi biến xấu. Một viên cao thủ đại nội đứng trước cửa mỉm cười, thấy Ngũ Hán Siêu nháy mắt với mình, liền lập tức lật cổ tay, một viên pháo hiệu bay thẳng lên trời, tiếng nổ vang đi rất xa. Trong khoảnh khắc, mấy trăm viên phiên tử cầm đao mang cung từ các ngõ hẻm hai bên thôn ùa ra, vây chặt lấy căn chòi.
Một số tay phiên tử rút từ trong thắt lưng ra chiếc dây xích dài đen thui, tung lên mái chòi rồi tất cả cùng kéo mạnh, "rầm" một tiếng, cả căn chòi bị kéo đổ thành mấy mảnh. Cũng may trên mái chòi toàn bộ là tuyết, không hề bị đóng bụi, mọi người trong chòi đều vung binh khí đập cho mấy tấm ván gỗ mỏng tang nát vụn, trên người chỉ dính một lớp tuyết sốp.
Nhờ có cây côn sắt to dài tám thước của Lưu Đại Bổng Chùy, chỗ Dương Lăng đứng cũng không gặp gì nguy hiểm. Trong nháy mắt cả căn chòi hoàn toàn biến mất, mọi người đều hiện rõ giữa mảnh đất trống, những mũi tên bén ngót dày đặc chung quanh đã ngắm vào bọn họ.
Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy che chắn trước người Dương Lăng, chầm chậm lui ra ngoài, nhóm đại nội thị vệ cũng cùng vừa lui ra vừa giữ cự ly để có thể phối hợp kịp thời. Dương Lăng lùi vào giữa đám thủ hạ, cất cao giọng hô:
- Hồng Nương Tử! Chính do lời của cô vừa rồi, bản quan sẽ cho các người thêm một cơ hội. Đâm vua giết chúa, hành thích đại thần, đều là tội đại nghịch phải chết! Nhưng chỉ cần các người vứt đao đầu hàng, bản quan sẽ bảo đảm các ngươi không bị tội chết!
Hồng Nương Tử hít một hơi, liếc y bằng ánh mắt quật cường, đoạn giơ thanh bội đao trong tay lên, cao giọng đáp:
- Dương đại nhân! Ta khuyên tướng công quay đầu chỉ vì không muốn bị người ta lợi dụng mà thôi. Hảo hán lục lâm Bá Châu chúng ta không biết quỳ gối đầu hàng quan binh. Thôi Oanh Nhi cùng tướng công và các vị huynh đệ sơn trại đây đồng sinh cộng tử, vạn tiễn xuyên tim cũng sẽ không chút nhăn mặt nhíu mày. Ý tốt của đại nhân ta chỉ xin tâm lĩnh!
Dương Hổ cười lớn:
- Hay lắm, thế mới là nương tử của Dương Hổ ta chứ! Các huynh đệ, cầm lấy vũ khí, lấy ván gỗ làm khiên, chúng ta xông ra đoạt lấy ngựa rồi rút lên núi Phương!
Đám sơn tặc vội vã lật bàn và lấy mảnh ván vỡ làm những tấm khiên đơn giản, quây lại bảo vệ chung quanh. Tiếng cung kéo rít lên rợn người, cung tên trong tay đám phiên tử đã kéo căng như mảnh trăng rằm.
Ngũ Hán Siêu đưa mắt nhìn Dương Lăng, xin lệnh:
- Đại nhân?
Dương Lăng binh tĩnh nhìn Thôi Oanh Nhi, "bắn người con gái này thành con nhím?" Con tim thoáng xao động, y quát:
- Dương Hổ! Thôi Oanh Nhi! Hẳn các người có thể thấy hôm nay các người sẽ không thoát được. Cho dù các người võ nghệ cao cường như thế nào đi nữa, liệu có thể giết hết bốn trăm thiết vệ của ta không? Còn không mau buông vũ khí đầu hàng?
Đám người Dương Hổ và Thôi Oanh Nhi đều là những kẻ cướp cao ngạo bất kham, hung hãn không sợ chết, nghe y nói vậy thì chỉ cười nhạt tránh sau tấm khiên không đáp lời. Dương Lăng cắn răng, định quát lệnh bắn tên thì chợt có âm thanh rì rầm lúc trầm lúc bổng như có bầy dã thú đang kéo tới khiến Dương Lăng không khỏi ngạc nhiên.
Y đưa mắt nhìn về hướng phát ra âm thanh. Trên con dốc thoải trắng màu tuyết kéo dài từ sơn trang lên ngọn núi Phương xuất hiện một đội quân trông như một con dã thú khổng lồ đang chạy trên đồng hoang. Ngoài tiếng vó sắt nện xuống mặt ruộng hoang như sấm chính là tiếng la hét quái dị không ngừng của những kỵ sĩ trên lưng ngựa, thanh thế rất đáng sợ.
Tuy nhìn từ xa nên trông không rõ trang phục của bọn họ, nhưng chỉ cần nghe tiếng la hét quái dị thì Dương Lăng, quan binh và bọn mã tặc đã từng trông thấy quân đội giặc Thát liền biết đó chính là một đội quân Thát Đát không biết từ đâu chui ra, tràn đến cướp bóc xóm làng.
Quan binh giết cướp, cướp giết quan binh, ấy là cái lý bình thường như trời với đất; bọn họ là kẻ thù lâu năm không thể hoá giải. Thế nhưng cục diện quái dị hiếm gặp là: đám giặc Thát đến cướp giết thôn trang này sẽ giết quan hay là giết cướp? Bọn chúng há sẽ phân biệt hai nhóm người Hán này ư? E rằng đội quân giặc Thát này cũng vào khoảng nghìn người, nếu lúc này mà hai phe động thủ với nhau, đám giặc Thát đang phi như chớp giật sẽ đến ngay lập tức, bọn họ sẽ làm sao?
Dương Lăng và Dương Hổ, một kẻ có lòng tin giết cướp cùng một kẻ có lòng tin sẽ trốn thoát đều tròn xoe đôi mắt. Hợp tác cùng nhau chăng? Có thể sao? Hai người đưa mắt nhìn nhau, từ trong ánh mắt đối phương chỉ thấy có sự nghi ngờ, lòng hận thù và sự bất tín nhiệm.
Mặt đất run rẩy, dân chúng trong thôn đã khóc gào inh ỏi, giặc Thát tràn tới nhanh như một đàn châu chấu.
Những người này đều cưỡi ngựa giắt đao, áo da ống bó, đầu đội mũ trùm da hươu da chó, vung roi thúc ngựa trông rất dũng mãnh tráng kiện. Nhìn bọn họ y như những kẻ thân hào giàu có ra ngoài săn bắn, nhưng vùng Đại Đồng quanh năm gặp nạn binh đao, trăm họ lân cận cũng biết một ít về quân sự, nếu trông thấy vũ khí của những kỵ sĩ này nhất định sẽ cảm thấy hơi quái lạ.
Vỏ đao hơi cũ, trên chuôi đao không hề có dải tua đỏ trang trí, thân đao dài hơn đơn đao mũi dẹp bình thường đến hơn một thước, cùng là một loại phác đao. Các bộ phận đồng thau nối lưỡi vào chuôi đao đều sáng loáng do ma sát với vỏ đao, xem ra tất cả đều là vũ khí tùy thân được sử dụng hàng ngày.
Nỏ ngắn và bao tên treo lệch một bên yên ngựa, trông khí phách này tuyệt không phải là những kẻ đạp tuyết săn thú bình thường. Lúc gần trưa trời vừa đổ một cơn tuyết nhỏ kéo dài, quá trưa thì vừa tạnh, vẫn còn sót lại một ít bông tuyết rơi rơi, không khí se lạnh sảng khoái, thấm tận ruột gan.
Không xa ở phía trước là ngọn núi Bạch Đăng, nằm dựa vào núi Phương về hướng bắc. Năm xưa Hán Cao Tổ là Lưu Bang dẫn ba mươi hai vạn đại quân viễn chinh Hung Nô, sau một trận đại thắng đã khinh địch liều lĩnh tiến bừa, bị bốn mươi vạn đại quân Hung Nô vây khốn trên Bạch Đăng sơn suốt bảy ngày bảy đêm, sau phải dùng diệu kế mới có thể thoát thân. Ngọn núi nhỏ bé này cũng nhờ đó mà vang danh thiên hạ.
Trời rét đậm giữa tiết trọng đông, hiếm có ai nhàn rỗi lên núi nên vừa đến lân cận vùng núi đã không còn thấy dấu vết con người. Hơn hai mươi kỵ sĩ ruổi ngựa lên đồi, phóng mắt nhìn ra xa, trên cánh đồng tuyết nhấp nhô như sóng gợn nằm trơ trọi một ngọn núi nhỏ, cao không quá trăm trượng, cũng không tính là quá cao, thế núi thoai thoải. Lúc đầu nghe nói là "núi", Dương Lăng còn tưởng nó cao lớn hiểm trở thế nào, giờ trông thấy ngọn núi đồi và vùng đất khá bằng phẳng chung quanh, y mới cảm thấy yên tâm.
Ngọn núi này là một ngọn núi đồi đất vàng, căn bản không có chỗ nào hiểm trở để phòng thủ. Đương nhiên nếu trên núi bố trí trọng binh, chiếm lấy địa thế trên cao, thì với năm nghìn binh mã trở lên cũng đủ để chống lại sự công kích của mấy vạn đại quân. Từ nơi này đến Đại Đồng chỉ khoảng chục dặm, nếu thật sự gặp nguy hiểm, chỉ cần kiên trì chống đở nửa ngày là đủ để quân Minh kéo tới tiếp cứu.
Quanh núi là một mảng đồng hoang bát ngát. Nếu quân Minh bố trí sẵn phục binh, Đoá Nhan Tam Vệ đến kết minh cũng sẽ có thể phát hiện từ xa mà kịp thời xa chạy cao bay. Quả thật đây là chốn rất thích hợp để làm nơi đàm phán.
Tuy ngọn Bạch Đăng không cao nhưng chung quanh lại rộng rãi, chu vi chừng mấy dặm. Dương Lăng dẫn hơn hai mươi thân binh lên núi, ngước mắt nhìn xa, phía bắc chính là núi Phương trập trùng, cách chừng hai dặm là một thôn trang xem chừng cũng không nhỏ.
Dương Lăng ngồi thẳng trên lưng ngựa, quay đầu lại hơi nheo mắt nhìn về phía con đường trắng xoá đến nhức mắt, trông thấy từ đằng xa có mấy bóng đen đang đến gần. Với tốc độ đó, ắt hẳn bọn họ cũng đang cưỡi khoái mã.
Dương Lăng thả lỏng cương ngựa, cười sảng khoái:
- Quả nhiên không giấu được mắt kẻ hữu tâm.
Ngũ Hán Siêu đưa cương ngựa lên đẩy vành nón, hơi căng thẳng:
- Đại nhân! Phục binh của chúng ta đang ở Lý Gia tập, cách nơi đây hai dặm. Thuộc hạ vẫn cảm thấy bất an trong lòng, chúng ta có nên đến gần bên đó một chút nữa chăng?
Tuy Ngũ Hán Siêu tài cao gan lớn nhưng chàng cũng biết trong Di Lặc giáo có mấy tay cao thủ trùm đời. Chưa nói đến giáo chủ Lý Phúc Đạt của Di Lặc giáo, nội ba người con của lão cùng vài vị thiên sư trong giáo cũng võ nghệ không kém cạnh gì chàng ta. Nếu đơn thương độc mã thì chàng tự tin dù không địch lại cũng vẫn có thể tẩu thoát, song hiện tại có Dương Lăng ở đây, chàng không dám mạo hiểm. Nhược bằng Dương Lăng lại bị kẻ địch bắt đi mất, khi ấy chẳng cần người khác nói ra nói vào, bản thân chàng cũng sẽ chỉ còn có nước tự sát tạ tội.
Dương Lăng lại không nghĩ vậy. Không phải là y lơ là, có điều hôm nay hai mươi tay thân binh bên cạnh y không phải là quân lính "chuyển ngành" thành phiên tử Nội xưởng, mà là thị vệ đại nội y mượn của Chính Đức. Thuộc hạ chân chính thuộc về y thì ngoài Ngũ Hán Siêu ra chỉ còn gã Lưu Đại Bổng Chùy do y mới thu làm thân binh thị vệ.
Võ công những người này tuy không bằng Ngũ Hán Siêu, song cũng không thua kém bao nhiêu. Nhóm truy binh đã đuổi đến gần kề, xem ra chỉ có bảy tám người cưỡi ngựa, hơn hai mươi người này của mình chẳng lẽ còn không thu thập nổi? Xem ra mình đã vẽ to chuyện khi âm thầm bố trí bốn trăm tay phục binh ở Lý Gia tập sau khi nhận được tin tức do Hàn Lâm đưa đến hôm qua rồi.
Hai mươi tay thị vệ đại nội ngồi ung dung bình tĩnh trên lưng ngựa, hơi tò mò nhìn chằm chằm vào đội nhân mã đang đến gần. Những thị vệ này đều là những trang thiếu niên anh tuấn kiêm tài lẫn đức của các môn phái, rất ít kẻ làm việc trong cung. Chỉ cần dựa vào chiêu bài đại nội thị vệ, trên giang hồ còn kẻ nào dám đắc tội với bọn họ? Cho nên ai nấy cũng đều đặt mắt ở trên trán, mấy tên yêu nhân Di Lặc giáo còn chưa đáng để lọt vào mắt bọn họ.
Lưu Đại Bổng Chùy là kẻ duy nhất trong đám thị vệ này sử dụng côn sắt. Gã râu xồm này là kẻ võ biền, tuy côn pháp quanh đi quẩn lại chỉ có mấy chiêu song lại rất hữu dụng để giết giặc trên chiến trường. Mặc dù so tài đo nghệ thì gã không bằng Ngũ Hán Siêu, nhưng một khi xông pha chém giết trên chiến trường thì vô luận là thanh thế hay số kẻ thù giết được thì Ngũ Hán Siêu đều kém xa gã.
Gã hồi hộp liếm môi, ồm ồm khuyên giải:
- Đại soái! Thuộc hạ nghĩ hay là chúng ta cứ đến Lý Gia tập đi. Mặc kệ nó là yêu đạo hay là giặc Thát, Đại Bổng Chùy tôi đều chả sợ chút nào. Nhưng mà có đại soái ở đây, nếu thật sự động thủ thuộc hạ sẽ bị bó tay bó chân lắm! Vừa phải để ý tới đại soái, vừa phải đánh yêu đạo, phiền phức lắm.
Tuy gã này nói chuyện thô lỗ, nhưng sự quan tâm lại biểu lộ rất rõ ràng, Dương Lăng nghe xong thì bất giác bật cười. Suy nghĩ một lúc, y bảo:
- Được, vậy chúng ta đi! Đến Lý Gia tập chờ bọn họ.
Lý Gia tập nằm kế Đại Đồng. Con đường truyền tin từ kinh sư đi qua đầu thôn kéo đến quan ải phương bắc, nối mọi nẻo đường nên khá là đông đúc. Thương nhân buôn lậu không dám để bò, dê, ngựa trong thành Đại Đồng mà phần lớn bọn họ sẽ nương nấu tạm ở đây, đợi mua bán xong xuôi rồi mới đồng loạt chuyển đi, cho nên đầu thôn còn mở một quán ăn lớn.
Nói là quán ăn nhưng chẳng qua chỉ là mấy gian chòi gỗ trét bùn, cung cấp nước nôi và vài món ăn đơn giản, để những người buôn bán vãng lai có chỗ nghỉ chân, lót dạ. Chung quanh quán được bao bọc bởi một hàng rào cây, không hề có cánh cửa gỗ nào cả, trông hết sức đơn sơ. Hiện đang là mùa đông, buôn bán tiêu điều, quán ăn chỉ mới mở một cánh cửa, bên trong vẫn chưa có khách.
Thấy đám đông hơn hai mươi người của Dương Lăng kéo đến, ông chủ quán không khỏi vui sướng ngất ngây, liền vội chạy ra nghênh đón, mặt cười toe toét nồng nhiệt đón tiếp:
- Chào các vị khách quan! Các vị dùng món gì vậy?
Lão lia mắt thật nhanh, nhận biết những người này không giống thương gia bình thường. Nhưng lão chỉ là ông chủ của một quán ăn nho nhỏ, là một tiểu nhân vật thấp hèn nhất, kiếm được hai văn đồng trinh đã là tốt rồi, sẽ không có ai lại hạ mình đi gây chuyện với những kẻ nghèo khổ như lão.
Lưu Đại Bổng Chùy buộc ngựa vào cột, lại nhanh nhẹn tiếp lấy cương ngựa của Dương Lăng buộc vào, rồi lớn tiếng dặn dò:
- Ông chủ! Trong quán có món gì ăn được thì cứ bưng lên là được rồi! Đồ ăn nóng càng tốt, đúng rồi, kiếm chút rượu trắng luôn.
Ông chủ vội đáp:
- Dạ! Trong quán có bánh bao không nhân, bánh nướng, còn có lợn béo vừa mới mổ đón tết nữa. Tuyệt nữa là có món thịt heo xắt vụn, các vị khách quan lại uống thêm bát canh dê, bảo đảm uống xong sẽ thấy ấm người.
Xắt vụn là cách gọi của người dân sứ Sơn Tây. Cách làm là ngâm heo hoặc dê cả vào nước, rồi lát mỏng, rắc gia vị như tiêu, gừng, tỏi, muối... vào, sau đó hầm thành một nồi. Dùng món thịt nguội này với rượu trắng, kết hợp cùng nước canh dê óng ánh, quả thực mùi vị rất không tệ.
Đám đại nội thị vệ vây quanh bảo vệ Dương Lăng đi vào chòi. Lau sậy được chất quanh chòi thành đống, bên trong kín gió nên khá ấm áp. Sáu viên thị vệ không cần căn dặn đã dằn đao chậm rãi đi loanh quanh trước cửa. Chiến mã được buộc kiểu thòng lọng ở một bên, giật một cái liền tuột ngay, có thể lên ngựa tác chiến bất cứ lúc nào.
Chủ quán bê một vại nước cốt ngâm trong một cái chậu to từ trên quầy đến; trời lạnh khiến mặt trên lớp thịt lợn xắt vụn đóng một lớp váng mỡ trắng tinh. Ôngg chủ vội vã chạy ra sau quán gọi lớn:
- Con mẹ nó Tam Nhi, mau đun lửa hâm đồ ăn đi! Tao nói thằng nhãi mày mau nhanh chân một chút đi, mặt trời đã chiếu tới đít rồi! Mau chạy đi lấy lúa mạch và trấu cám đem cho ngựa của mấy vị khách quan đây ăn đi!
Dương Lăng xát mạnh hai tay, cười nói:
- Chủ quán à, không cần phải lo cho ngựa đâu! Chúng tôi đến từ thành Đại Đồng, không xa mấy, chốc nữa còn phải chạy về. Ăn đại chút gì đó là được rồi.
Căn chòi lớn này xoay về hướng mặt trời, khi cuộn rèm lên ánh nắng sẽ chiếu thẳng vào, khiến nó ấm hơn khi che rèm lại. Dương Lăng ngồi ở bàn gần cửa, ánh nắng rọi lên thân y, bóng râm của chòi che khuất khuôn mặt nên y lại có thể nhìn thấy rõ bên ngoài.
Mặt đất sau mùa gặt phủ một lớp tuyết trắng mỏng manh, thấp thoáng lộ ra những gốc rơm rạ, sáu bảy thớt ngựa ở đằng xa dừng lại trên con đường dưới chân núi Bạch Đăng một chốc, chừng như đang do dự không biết có nên đuổi theo hay không. Dương Lăng thấy vậy không khỏi thầm cười nhạt. Đêm qua Hàn Lâm đã lặng lẽ phái người chuyển tin tức thám thính được sang chỗ y.
Do binh hoang mã loạn, thương nhân từ các nơi khác đến thành Đại Đồng không nhiều. Nhờ Hàn Lâm khổ tâm tổ chức ở Đại Đồng, mạng lưới tình báo của Nội xưởng dễ dàng nắm vững hành tung của bọn họ và truyền tin về.
Hàn Lâm biết nếu muốn giết Hoàng đế, quyết không thể chỉ vài ba nhân vật giang hồ võ công siêu đẳng mà đã có thể làm được; chỉ riêng việc theo dõi, cảnh giới, và dò la tin tức đã cần đến không ít người rồi. Vì vậy ông lại sàng lọc trong những tin tức được trình lên, chọn ra toàn bộ những nhóm dưới hai ba người, đặc biệt là những nhóm có phụ nữ và trẻ em, sau cùng chỉ còn lại mấy tốp nhân vật cực kỳ khả nghi.
Đám người Dương Hổ tự xưng là thương nhân hàng da, nhưng quản sự và gia bộc mang theo có đến bảy tám người. Năm mới bọn họ lại chạy vội chạy vàng đến thành Đại Đồng, chỉ ăn rồi ngủ, không chịu vội mua hàng rời đi, thật hết sức đáng ngờ. Thành thử ông đã phái thêm người bí mật giám sát bọn họ, đồng thời mau chóng truyền tin cho Dương Lăng.
Hiện Đại Đồng giống như binh doanh vậy, Dương Lăng cũng dự liệu nếu quả thật có thích khách thì nhân số cũng sẽ không quá nhiều. Trương Vĩnh nghe tin xong thì lập tức muốn mang người đi bắt bọn họ lại, mặc kể có phải là kẻ xấu hay không, cứ vứt vào đại lao rồi tính sau.
Đám người Đại vương, Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu đã ngầm ưng thuận việc Hoàng đế gặp mặt Hoa Đáng, hơn nữa cũng đã ngầm hẹn không đến bái kiến Hoàng thượng, cho nên bề ngoài bọn họ cũng vờ như không hề biết chuyện Hoàng đế đang ở Đại Đồng.
Dương Lăng lo rằng nếu Nội xưởng giương cờ gióng trống bắt người trong thành, một khi tin tức lọt vào tai đám người Hồ Toản thì bọn họ sẽ lại đổi ý, lo lắng chạy ào tới khóc lóc can ngăn Hoàng thượng. Cho nên y quyết định lấy thân làm mồi, dụ rắn ra khỏi hang.
Đằng xa, đám sáu bảy kỵ sĩ cứ đi lòng vòng mà không tiến vào thôn nọ dường như đã bàn bạc xong, bỗng giục ngựa phi thẳng tới. Bọn thị vệ ngồi trong chòi cùng đứng dậy đánh soạt, tay đã án trên chuôi đao.
Dương Lăng bình tĩnh bảo:
- Ngồi xuống! Bọn chúng có thể xông thẳng vào trong chòi hay sao? Chuẩn bị kỹ hoả tiễn và pháo hiệu, một khi có sự liền lập tức gọi người. Quan binh bắt giặc không tội gì mà đơn đả độc đấu!
Đám thị vệ lại chậm rãi ngồi xuống, song tay vẫn dằn trên chuôi đao, mắt nhìn chằm chằm ra bên ngoài.
Đám người nọ tới gần, tổng cộng bảy người ngựa. Ngoại trừ một lão già trạc ngũ tuần, còn lại đều là tráng niên tuổi chừng ba mươi, trông khoẻ như cọp, đầu quấn khăn trùm, hông giắt Nhạn Linh đao. Ánh mắt của Dương Lăng thoáng lướt trên khuôn mặt của bảy người rồi dừng lại trên mặt một gã mặt sẹo.
Người này chính là Dương Hổ. Tuy gã đã cải trang, khuôn mặt đã được thay đổi qua loa nhưng thân hình vẫn vậy. Cái khí chất ngông cuồng ngạo nghễ vẫn khiến y nổi bật giữa đám đông như hạc giữa bầy gà, nghiễm nhiên là thủ lĩnh của cả bọn.
Ánh mắt của hai người chạm vào nhau trong tích tắc, mắt Dương Lăng hơi loé lên một tia kinh ngạc. Y đã mang máng nhận ra Dương Hổ, "Không ngờ kẻ đuổi tới lại là Dương Hổ mà không phải là người của Di Lặc giáo." Việc này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của y.
"Sao Di Lặc giáo không thấy có động tĩnh gì mà lại là Dương Hổ đuổi tới đây?
Nếu cho rằng Hồng Nương Tử gạt mình thì thực khó hiểu. Dù sao thì mình cũng đã biết tin, bất luận thật hay giả ắt sẽ đều tăng cường cảnh giác. Nếu những gì Hồng Nương Tử nói là thật, thì sao Dương Hổ còn ngu xuẩn để mặc cho Di Lặc giáo lợi dụng? Chẳng lẽ gã và Hồng Nương Tử vẫn chưa gặp nhau, vẫn chưa biết chuyện này?"
Vẻ kinh ngạc thoáng qua trên khuôn mặt Dương Lăng bị Dương Hổ lầm tưởng là do sợ hãi. Trên mặt gã loé lên vẻ khinh thường rồi quay đầu đi như không có việc gì. Gã vừa ngông nghênh bước vào chòi vừa gọi chủ quán:
- Ông chủ, xắt mười cân thịt bò, hâm một vò rượu nóng, mau dọn lên cho bọn ta!
Gọi món rồi gã sảng khoái ngồi phịch xuống bàn bên, gỡ thanh bội đao giắt hông vắt ngang lên bàn, hung hãn trừng mắt với Dương Lăng.
Chủ quán vội châm trà đưa lên bàn cho gã, thừa dịp liếc mắt nhìn đám người chung quanh. Ai nấy mặt mày hầm hầm, cộng thêm bầu không khí căng thẳng và lạnh lẽo khiến lão rét cả người, bèn lật đật lui ra sau quầy.
Dương Hổ cũng không thèm để ý đến lão, hai mắt gã vẫn nhìn Dương Lăng chằm chằm. Gã thực căm hận Dương Lăng đến tận xương tủy, hai trăm tâm phúc của gã bỏ mạng trước Cao Lão trang, mối thù này gã trút hết cả lên đầu Dương Lăng. Nay ái thê cũng vì bất đồng ý kiến mà giận dỗi bỏ đi, món nợ này gã cũng trút lên đầu Dương Lăng nốt, vì vậy gã càng coi Dương Lăng là cái gai phải nhổ.
Di Lặc giáo giao du với tầng lớp thượng tầng, biết rằng Hoàng đế cải trang không phải là chuyện đùa, nếu trọng thần bên cạnh hắn bị ám sát thì khi ấy muốn đụng đến hắn ắt sẽ khó như lên trời. Nhưng Dương Hổ - một tên mã tặc - thì lại suy luận rằng diệt trừ được vây cánh của Hoàng đế thì mới dễ xuống tay với hắn ta.
Chỉ mang theo vài người, gã ở Đại Đồng như kẻ mù dắt ngựa loà, không có kể sách gì cả, biện pháp duy nhất chính là phái người thay phiên dán mắt vào Dương Lăng, giúp y canh nhà giữ sân, âm thầm theo y tới lui giữa vương phủ và dịch quán. Sáng hôm nay nhận được tin Dương Lăng cải trang giả dạng thường dân ra ngoài thành, Dương Hổ mừng khôn kể xiết, liền lập tức dẫn người đuổi theo.
Sát khí bao trùm cả căn chòi, thớ thịt của mọi người đều trở nên căng cứng, ánh mắt âm u lạnh lẽo nhìn chằm chằm vào đối phương, đại chiến chực chờ bùng nổ. Dương Lăng nhón lấy chén trà, cẩn thận uống một hớp rồi lại nhẹ nhàng đặt xuống, chỉ sợ tiếng động lớn quá sẽ lập tức dẫn đến một hồi đại chiến.
Lão chủ quán khéo nhìn sắc mặt trông thấy tình hình không ổn, thế là không khỏi thầm kêu khổ. Lặng lẽ đẩy bàn tính ra, lão bắt đầu khe khẽ lui về phía sau, lặng lẽ đưa tay ra sau lưng rờ tấm rèm cửa.
Dương Hổ lặng lẽ quan sát một hồi, phát hiện trong và ngoài chòi chỉ có hơn hai mươi người. Sau khi ước lượng qua võ công của đám phiên tử Nội xưởng trong đêm công kích Dương phủ ngoài Cao Lão trang, gã liền có quyết định.
Hiện tại ngoại trừ gã còn có một cao thủ về Ưng Trảo công là Hoắc Ngũ Thúc, nếu muốn tập kích giết chết Dương Lăng giữa sự bảo hộ của hơn hai mươi tên thị vệ này thì phần thắng ít ra cũng có đến bảy thành. Gã đưa mắt nhìn Hoắc Ngũ Thúc ngồi đối diện, mắt hơi cụp xuống ra hiệu đã quyết định động thủ!
Lão chủ quán vừa mới vén rèm cửa, Dương Hổ đã chợt đứng bật dậy, các đại nội thị vệ ngồi chung quanh nhịn không được cũng đứng cả lên. Tiếng đao bạt khỏi vỏ xoàn xoạt nghe rợn người, đao quang loé khắp căn chòi.
Thủ hạ của Dương Hổ cũng đứng bật dậy, lật ngã một băng ghế dài xuống đất đánh “bộp". Chỉ có Hoắc Ngũ Gia vẫn ngồi trên ghế dài vững như bàn thạch, song trên mu bàn tay cầm chén trà nóng hổi của lão đã không chút cử động mà nổi vồng gân xanh.
Dương Lăng và Ngũ Hán Siêu ngồi đối diện cũng không động đậy; Ngũ Hán Siêu một tay dằn lấy phối kiếm (*), một tay lặng lẽ lần vào trong chiếc túi giắt thõng dưới lưng, cầm lấy năm cây phi tiêu Kim Tiền được mài bén cạnh. Lưu Đại Bổng Chùy ngồi bên phải lại đã nhảy bật dậy, nắm chặt cây côn sắt đen thùi trong tay.
(*) một loại kiếm cổ có nguồn gốc từ Indonesia.
Xem thêm http://baike.baidu.com/view/3075016.htm
Dương Hổ liếc mắt nhìn quanh, rồi chợt ngửa mặt lên trời cười lớn. Tiếng cười liên miên của gã chưa dứt, Dương Lăng cũng chợt mỉm cười nói:
- Trước mặt hẳn là Dương Hổ Dương huynh phải không? Từ dạo chia tay nhau tại kinh sư, bấy lâu huynh vẫn khoẻ chứ?
Dương Hổ cười gằn đáp:
- Đa tạ đã quan tâm! Dương mỗ gặp nạn lớn không chết, vẫn mong được báo đáp ân đức của Dương đại nhân đây. Tiếc rằng thềm cửa nhà họ Dương quá cao, Dương mỗ chẳng dám bước vào. Giờ thì tốt rồi, đại nhân vậy mà rời xa kinh sư, thật đúng là cầu được ước thấy, ông trời có mắt đây.
Dương Lăng khẽ lắc đầu bảo:
- Vốn dĩ... chúng ta có thể làm huynh đệ tốt. Ngươi đuổi đến Đại Đồng, có phải là đã quyết tâm muốn tạo phản? Có chịu nghe ta khuyên nhủ một câu không? Lúc này buông đao, bản đốc có thể tha cho ngươi tội chết!
Dương Hổ cười hắc hắc, đang định giễu lại, chợt có tiếng vó ngựa gõ dồn, mọi người trong chòi đều vụt đưa mắt nhìn xa ra bên ngoài. Từ đằng xa có một người cưỡi khoái mã phóng như bay tiến đến. Kỵ sĩ khom lưng trên lưng ngựa, cùng ngựa tạo nên một đường thẳng tắp, nhìn từ xa trông không rõ tướng mạo, chỉ nhận ra được người đó vận một chiếc áo bào màu tro, là trang phục đàn ông, hông giắt một cây đao thép không vỏ, thi thoảng tia nắng quét ngang hắt ra những tia sáng chói mắt.
Chỉ trong chốc lát ngựa đã đến trước cửa chòi, kỵ sĩ ghìm cương, kiện mã hí một tràng dài, người nọ đứng thẳng dậy, vó ngựa đá tung cụm tuyết trước mặt. Chân ngựa còn chưa tiếp đất, kỵ sĩ đã nhẹ nhàng nhảy xuống, sải bước tiến vào trong chòi.
Hai bên đang ở thế giương cung bạt kiếm, không biết kẻ đến là địch hay ta, đều trừng mắt nhìn kẻ đó không nói tiếng nào. Người này mặt ngọc mày kiếm, mũi cao miệng nhỏ, thoạt trông khí khái tràn trề, tuy ăn vận như một chàng trai trẻ tuấn tú, nhưng Dương Lăng và Dương Hổ liếc mắt đều lập tức nhận ra cô nàng qua lớp dịch dung vô cùng đơn giản đó. Dương Hổ mừng rỡ gọi:
- Nương tử, nàng đến thật đúng lúc! Hãy liên thủ với vi phu giết chết Dương Lăng báo thù cho các huynh đệ!
Năm ngón tay của Hoắc Ngũ Gia bấu chặt lấy chén trà nóng hổi, vốn định ném về phía Dương Lăng, lúc này trông thấy nàng, lão cũng kinh ngạc lỏng tay, mừng rỡ đứng dậy gọi:
- Oanh Nhi? Cháu gái ngoan của thúc, thực khiến Ngũ thúc lo muốn chết. Mau qua đây, Dương Lăng chỉ mang theo hơn hai mươi tên thị vệ, chú cháu chúng ta liên thủ liền sẽ có thể giết y dễ như trở bàn tay!
Thôi Oanh Nhi đanh mặt đáp: ối
- Ngũ thúc, mục tiêu chính của chúng ta là Di Lặc giáo. Muốn báo mthù đó thì thật là chuyện chó đi bắt nhím, biết cắn chỗ nào*. Nếu vì trăm họ, chúng ta nào có bản lĩnh cai trị giang sơn. Nếu thật sự sát hại Hoàng đế và Dương Lăng, chính là giúp cho Di Lặc giáo toại nguyện, lại khiến cho giặc Thát ngoài quan ải thừa thế xông vào. Chúng ta gánh không nổi tiếng xấu mấy đời này đâu. (*: ý nói tìm kiếm Di Lặc giáo báo thù là chuyện vô vọng)
Cặp mắt như thu thủy của nàng liếc sang Dương Lăng, rồi chắp tay vái những tay thảo khấu, nói:
- Các vị huynh đệ, trong các vị có người là nhân mã trại cũ của Thôi gia ta, có người là huynh đệ khe Phi Hổ của tướng công ta. Thôi Oanh Nhi và các vị huynh đệ cùng tiến cùng lui, đồng sinh cộng tử, đã có bao giờ là kẻ sợ chuyện? Cho dù là vị khâm sai đại nhân này...
Nàng liếc ngang đôi mắt đẹp về phía Dương Lăng, ngạo nghễ nói tiếp:
- Ta cũng tự tay bắt y về, bình yên mà thoát khỏi vòng vây trùng trùng của mười vạn đại quân. Oanh Nhi không phải là kẻ sợ chuyện. Nhưng người giang hồ chúng ta coi trọng đạo lý oan có đầu, nợ có chủ. Dương phủ là con dê béo, chúng ta là kẻ bắt cóc, có đắc thủ hay không đều phải dựa vào bản lĩnh mỗi người. Chưa từng nghe chuyện bắt cóc thất thủ rồi lại coi con dê béo là kẻ thù; đó chỉ là bởi chúng ta học nghệ chưa tinh thông mà thôi!
Nhưng nếu như chúng ta đã bị kẻ khác lừa đi bắt người, đã trúng phải kế lùa hổ trị hổ của người ta, các vị nói thù này có nên trả không? Nay rõ rành rành Di Lặc giáo muốn đối phó với Dương Lăng, sơn trại chúng ta bị quan binh nhổ mất mà chúng ta lại cứ cố chạy đến làm tốt thí cho người ta, để người ta ăn ốc còn mình phải đổ vỏ, làm chuyện ngu xuẩn như thế xem có được không?
Đoạn nàng bất mãn trừng mắt với Dương Hổ, bảo:
- Thấy các người lục tục kéo ra khỏi thành thì ta ra theo thôi, không có ý gì khác cả. Ta không đồng ý với việc giết Dương Lăng vin vào lá cờ "Thế thiên hành đạo" của sơn trại chúng ta! Lý lẽ cần nói ta đã nói hết rồi, huynh đệ nào đồng ý với ta, mời đứng sang bên này!
Những người thuộc trại cũ của Thôi gia đưa mắt nhìn nhau. Bọn họ đều là lứa cao thủ sơn tặc trẻ tuổi, trong mắt bọn họ, sức hiệu triệu của Thôi đại tiểu thư hơn xa Hoắc Ngũ Thúc đã qua thời đỉnh cao. Nghe xong những lời lẫm liệt của Thôi Oanh Nhi, bọn họ từ từ bỏ đao xuống, chần chừ bước sang bên cạnh Thôi Oanh Nhi.
Dương Hổ giận muốn rách phổi, trợn mắt mắng to:
- Thôi Oanh Nhi, cô điên rồi à? Cô là vợ ta hay là vợ tên Dương Lăng hả? Không ngờ cô lại nối giáo cho giặc! Cô không giúp ta thì thôi, còn muốn lôi kéo các huynh đệ đi, đấy là bổn phận làm vợ đó sao? Được lắm, được lắm!
Gã giận quá hóa cười:
- Xưa nay ta luôn nhịn cô, nhường cô, nhưng không sợ cô. Cô thật sự nghĩ mình là Dương Khóa Hổ ư? Trở về sơn trại ta sẽ mời tất cả các trại chủ các núi tới trước mặt nhạc trượng đại nhân hỏi cho rõ ràng. Lão dạy dỗ con gái mình thật giỏi!
Hoắc Ngũ Thúc cũng không nén được lửa giận. Tuy rằng lão yêu thương Thôi Oanh Nhi, thế nhưng con gái lấy chồng coi như nước đã đổ đi, không liên can gì đến Thôi gia nữa, đâu lại có chuyện vợ trái lời chồng, đó chẳng phải là đại nghịch bất đạo sao? Hơn nữa lúc đi lão gia tử đã có lời yêu cầu lão áp chế Thôi Oanh Nhi, không để nàng can thiệp vào đại sự của Dương Hổ.
Hoắc Ngũ Thúc nghiêm khắc quát:
- Bọn khốn chúng mày! Lúc lão gia tử phái chúng mày đi đã nói thế nào? Hết thảy đều phải nghe theo sự an bài của cô gia, giờ lại theo Oanh Nhi làm loạn sao? Dương Lăng đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây, ngoại trừ hôm nay, còn có cơ hội nào tốt như vậy nữa chứ? Nghe lời ta, cùng cầm lấy vũ khí, làm thịt cái tên họ Dương nó, bằng không chắc các ngươi cũng biết sơn quy của Thôi lão đại rồi đó.
Mấy gã cao thủ thuộc sơn trại nhà họ Thôi lưỡng lự nhìn nhau, cảm thấy khó xử, nhất thời không biết nên nghe ai. Khuôn mặt xinh xắn của Thôi Oanh Nhi thoáng trắng bệch, nói:
- Ngũ thúc, Dương Hổ bị lợi danh làm mê muội tâm can, thúc còn chống lưng cho gã sao?
Hoắc Ngũ Thúc hừ một tiếng, nghiêm khắc:
- Oanh Nhi, đừng trách Ngũ Thúc nói với con điều này: con đang làm chuyện quá hồ đồ khiến người ngoài nghe thấy chê cười rồi đó. Chúng ta là kẻ lăn lộn trên sơn trại, vậy mà con lại đến giúp quan binh, sau này cha con và chồng của con biết đứng trong giới lục lâm như thế nào?
Lưu Đại Bổng Chùy nhìn thấy màn đấu đá nội bộ này mà cả mừng, nhăn nhở cười nói:
- Thực có khí phách! Đấy gọi là thấu hiểu đại nghĩa. Cái... cái cô gái Hồng Phất nữ này(*), ừm, hẳn là một cô nương không còn thú vị gì lắm rồi, nếu không một nữ nhân hiểu lý lẽ như vậy, một tên thủ lĩnh mã tặc như hắn sẽ không nói bỏ là bỏ ngay đâu. Thôi thì theo đại soái của chúng ta ăn uống thoả thuê đi!
(*: Nhắc tích Hồng Phất Nữ là nữ tì của Dương Tố, nàng nhận ra Lý Tịnh, tuy đang hàn vi, là bậc anh hùng thao lược nên đang đêm bỏ phủ Dương Tố, trốn theo Lý Tịnh)
Thôi Oanh Nhi nghe hắn nói xằng thì giận đến nóng mặt, cổ tay thoáng run lên, một chiếc thiết tật lê (đinh sắt) bay vút về phía cái miệng đang thao thao bất tuyệt của Lưu Đại Bổng Chùy. Ngũ Hán Siêu đã đề phòng sẵn, một đồng tiền liền bay tới nghênh đón, "keng" một tiếng, hai miếng sắt chạm vào nhau bắn sang một bên.
Lưu Đại Bổng Chùy giật mình hoảng hồn, mắng lớn:
- Mẹ nó! Sơn tặc đúng là sơn tặc, trở mặt còn nhanh hơn cả lật sách!
Ngũ Hán Siêu cười nhạt nói:
- Hắn là kẻ thô lỗ, Dương phu nhân hà tất phải so đo? Dương đại đương gia định bắt nạt lúc chúng ta ít người sao? Thật ngại quá, nói thật với huynh đài, chỉ dựa vào mấy người chúng ta đây, các vị chưa hẳn đã đánh lại. Vả lại, đúng như vị Ngũ thúc đây đã nói, đại nhân chúng ta đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây, há chỉ có bấy nhiêu người?
Đám người Dương Hổ, Hoắc Ngũ thúc và Hồng Nương Tử thoạt tiên là sững ra, rồi lập tức sực hiểu, sắc mặt không khỏi biến xấu. Một viên cao thủ đại nội đứng trước cửa mỉm cười, thấy Ngũ Hán Siêu nháy mắt với mình, liền lập tức lật cổ tay, một viên pháo hiệu bay thẳng lên trời, tiếng nổ vang đi rất xa. Trong khoảnh khắc, mấy trăm viên phiên tử cầm đao mang cung từ các ngõ hẻm hai bên thôn ùa ra, vây chặt lấy căn chòi.
Một số tay phiên tử rút từ trong thắt lưng ra chiếc dây xích dài đen thui, tung lên mái chòi rồi tất cả cùng kéo mạnh, "rầm" một tiếng, cả căn chòi bị kéo đổ thành mấy mảnh. Cũng may trên mái chòi toàn bộ là tuyết, không hề bị đóng bụi, mọi người trong chòi đều vung binh khí đập cho mấy tấm ván gỗ mỏng tang nát vụn, trên người chỉ dính một lớp tuyết sốp.
Nhờ có cây côn sắt to dài tám thước của Lưu Đại Bổng Chùy, chỗ Dương Lăng đứng cũng không gặp gì nguy hiểm. Trong nháy mắt cả căn chòi hoàn toàn biến mất, mọi người đều hiện rõ giữa mảnh đất trống, những mũi tên bén ngót dày đặc chung quanh đã ngắm vào bọn họ.
Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy che chắn trước người Dương Lăng, chầm chậm lui ra ngoài, nhóm đại nội thị vệ cũng cùng vừa lui ra vừa giữ cự ly để có thể phối hợp kịp thời. Dương Lăng lùi vào giữa đám thủ hạ, cất cao giọng hô:
- Hồng Nương Tử! Chính do lời của cô vừa rồi, bản quan sẽ cho các người thêm một cơ hội. Đâm vua giết chúa, hành thích đại thần, đều là tội đại nghịch phải chết! Nhưng chỉ cần các người vứt đao đầu hàng, bản quan sẽ bảo đảm các ngươi không bị tội chết!
Hồng Nương Tử hít một hơi, liếc y bằng ánh mắt quật cường, đoạn giơ thanh bội đao trong tay lên, cao giọng đáp:
- Dương đại nhân! Ta khuyên tướng công quay đầu chỉ vì không muốn bị người ta lợi dụng mà thôi. Hảo hán lục lâm Bá Châu chúng ta không biết quỳ gối đầu hàng quan binh. Thôi Oanh Nhi cùng tướng công và các vị huynh đệ sơn trại đây đồng sinh cộng tử, vạn tiễn xuyên tim cũng sẽ không chút nhăn mặt nhíu mày. Ý tốt của đại nhân ta chỉ xin tâm lĩnh!
Dương Hổ cười lớn:
- Hay lắm, thế mới là nương tử của Dương Hổ ta chứ! Các huynh đệ, cầm lấy vũ khí, lấy ván gỗ làm khiên, chúng ta xông ra đoạt lấy ngựa rồi rút lên núi Phương!
Đám sơn tặc vội vã lật bàn và lấy mảnh ván vỡ làm những tấm khiên đơn giản, quây lại bảo vệ chung quanh. Tiếng cung kéo rít lên rợn người, cung tên trong tay đám phiên tử đã kéo căng như mảnh trăng rằm.
Ngũ Hán Siêu đưa mắt nhìn Dương Lăng, xin lệnh:
- Đại nhân?
Dương Lăng binh tĩnh nhìn Thôi Oanh Nhi, "bắn người con gái này thành con nhím?" Con tim thoáng xao động, y quát:
- Dương Hổ! Thôi Oanh Nhi! Hẳn các người có thể thấy hôm nay các người sẽ không thoát được. Cho dù các người võ nghệ cao cường như thế nào đi nữa, liệu có thể giết hết bốn trăm thiết vệ của ta không? Còn không mau buông vũ khí đầu hàng?
Đám người Dương Hổ và Thôi Oanh Nhi đều là những kẻ cướp cao ngạo bất kham, hung hãn không sợ chết, nghe y nói vậy thì chỉ cười nhạt tránh sau tấm khiên không đáp lời. Dương Lăng cắn răng, định quát lệnh bắn tên thì chợt có âm thanh rì rầm lúc trầm lúc bổng như có bầy dã thú đang kéo tới khiến Dương Lăng không khỏi ngạc nhiên.
Y đưa mắt nhìn về hướng phát ra âm thanh. Trên con dốc thoải trắng màu tuyết kéo dài từ sơn trang lên ngọn núi Phương xuất hiện một đội quân trông như một con dã thú khổng lồ đang chạy trên đồng hoang. Ngoài tiếng vó sắt nện xuống mặt ruộng hoang như sấm chính là tiếng la hét quái dị không ngừng của những kỵ sĩ trên lưng ngựa, thanh thế rất đáng sợ.
Tuy nhìn từ xa nên trông không rõ trang phục của bọn họ, nhưng chỉ cần nghe tiếng la hét quái dị thì Dương Lăng, quan binh và bọn mã tặc đã từng trông thấy quân đội giặc Thát liền biết đó chính là một đội quân Thát Đát không biết từ đâu chui ra, tràn đến cướp bóc xóm làng.
Quan binh giết cướp, cướp giết quan binh, ấy là cái lý bình thường như trời với đất; bọn họ là kẻ thù lâu năm không thể hoá giải. Thế nhưng cục diện quái dị hiếm gặp là: đám giặc Thát đến cướp giết thôn trang này sẽ giết quan hay là giết cướp? Bọn chúng há sẽ phân biệt hai nhóm người Hán này ư? E rằng đội quân giặc Thát này cũng vào khoảng nghìn người, nếu lúc này mà hai phe động thủ với nhau, đám giặc Thát đang phi như chớp giật sẽ đến ngay lập tức, bọn họ sẽ làm sao?
Dương Lăng và Dương Hổ, một kẻ có lòng tin giết cướp cùng một kẻ có lòng tin sẽ trốn thoát đều tròn xoe đôi mắt. Hợp tác cùng nhau chăng? Có thể sao? Hai người đưa mắt nhìn nhau, từ trong ánh mắt đối phương chỉ thấy có sự nghi ngờ, lòng hận thù và sự bất tín nhiệm.
Mặt đất run rẩy, dân chúng trong thôn đã khóc gào inh ỏi, giặc Thát tràn tới nhanh như một đàn châu chấu.
Tác giả :
Nguyệt Quan