Mật Mã Tây Tạng
Chương 30: Cánh cửa địa ngục: vùng đất bí mật cuối cùng
Cánh cửa Địa ngục, Hương Ba La, khi những từ ngữ quen thuộc ấy một lần nữa vang lên bên tai nhóm người ngày, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên. Đây mới là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba nghe nhắc đến Cánh cửa Địa ngục, song theo những gì đã biết, hình nhưng cánh cửa này mở ra con đường xuyên dãy Himalaya. Thật không ngờ, ở nơi xa xăm hẻo lánh như Mặc Thoát này lại được nghe truyền thuyết về Cánh cửa Địa ngục. Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Cậu biết Cánh cửa Địa ngục ở đâu không?"
Chư Phật Mật giáo
Trác Mộc Cường Ba bước hụt một bước, thân thể mất thăng bằng, ngã xuống hố sâu. Ánh sang lóe lên, gã đã trông thấy trông thấy lưỡi đao sáng lấp lánh trong hố. Trong khoảng khắc sinh tử ấy, Trác Mộc Cường Ba bỗng nhiên vươn cả hai tay ra, hai chân đạp mạnh, cả người kẹt lại giữa hai bức tường đá, thân thể lúc này gần như song song với mặt đất, đầu mũi chỉ còn kém chút xíu là chạm phải lưỡi đao. Thì ra, hai phiến đá lát nền thứ ba và thứ tư vốn chỉ là một phiến đá hình chữ nhật hài hai mét rộng một mét, đục lỗ ở giữa, xuyên gậy sắt qua là thành một cái cửa xoay đơn giản, bất kể là giẫm lên phiến đá thứ ba hay thứ tư, cả phiến đá cũng đều lập tức xoay chuyển. Loại cơ quan này, trong cơ quan học gọi là "hoạt bản", vừa đơn giản lại dễ thực hiện, đặc biệt là những nơi nền sàn được lát bằng những phiến đá quy chuẩn mà sắp đặt một vài cơ quan như vậy, bên dưới lại đào hố sâu hai mét, bố trí cọc nhọn hoặc lưỡi đao, thì tỷ lệ sát nhân thành công sẽ cực lớn.
Hai tay hai chân Trác Mộc Cường Ba chống vào hai bên bức tường, chầm chậm leo lên trên, đồng thời dịch chuyển lên phía trên đao trận, tránh khỏi hai lưỡi đao xoáy đầu tiên, sau đó mới từ từ nhích xuống dưới, rồi dùng ba lô ném sang đầu bên kia lối đi, sau khi xác định an toàn, gã mới áp người sát đất trượt qua.
Đường Mẫn đã quan sát từ đầu đến cuối toàn bộ quá trình này, vậy nên lúc cô đi qua thì nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
"Lạ thật!" Đường Mẫn nghi hoặc nói, "Những cơ quan này mặc dù có tổ hợp hoàn chỉnh, nhưng kẻ đến trước chúng ta có thuốc nổ, hoàn toàn có thể phá hủy được chúng, tại sao hắn lại quay trở ra nhỉ?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Những bộ xương ngoài kia rải rác khắp đại sảnh, nhưng không có bộ xương nào chết bên cạnh lối đi, cũng có nghĩa là bọn họ còn chưa tiếp xúc với lối đi này thì đã rút lui rồi. Có lẽ là đã chạm phải cơ quan nào khác, một loại cơ quan không thể giải quyết bằng thuốc nổ, chẳng hạn như khí độc, sương độc gì đó. Xem ra chỗ này đích thực là chưa bị phá hoại, phải báo cho những người khác mới được."
Trác Mộc Cường Ba ấn nút chiếc đồng hồ nguyên tử đeo trên tay, bắt đầu gọi những người khác trong nhóm. Trong vòng ba phút, đại khái đã nói rõ vị trí của mình, để những thành viên chưa có phát hiện gì đặc biệt nhanh chóng tới đây.
Trác Mộc Cường Ba giơ cổ tay lên nói: "Vậy nhé, chúng tôi đã qua trước rồi. Mọi người nhớ cẩn thận, lối đi hẹp này là một tổ hợp cơ quan, mặc dù cơ quan tổng đã bị phá hoại, song các cơ quan phân tổ thì vẫn vận hành. Phiến đá đầu tiên là đinh độc bắn vào chính diện, phiến đá thứ hai khởi động đao trận, phiến đá thứ ba và thứ tư là cửa lật, bên dưới sắp đặt cọc nhọn, từ phiến thứ năm đến phiến thứ mười lăm là đao xoáy, mọi người phải cẩn thận."
Giáo sư Phương Tân nhắn qua máy liên lạc: "Chúng tôi biết rồi, đến ngay đây, hai người cũng nhớ cẩn thận đấy."
Đi qua lối hẹp ấy, cảnh tượng trước mắt liền mở rộng sáng bừng. Tận cùng của lối đi tựa như một bàn đạp nhô ra khỏi vách đá dựng đứng, đưa hai người bọn Trác Mộc Cường Ba vào vị trí trung tâm của một gian đại sảnh màu vàng. Đứng trên bàn đạp lơ lửng giữa không trung, cách trên, dưới, trái, phải mỗi phía chừng hai chục mét, bốn vách là những bó đuốc như những chẻ cây, chiếu sáng rực rỡ cả gian đại sảnh. Trác Mộc Cường Ba nhận ra những bó đuốc phun lửa lớn bằng ngón tay cái, dài khoảng ba mươi centimet, chính là những ống ankyl lỏng. Mỗi ống như vậy, cho dù ở môi trường không có dưỡng khí cũng vẫn cháy được một trăm giờ đồng hồ, hơn nữa còn vừa nhỏ vừa nhẹ, một người mang theo một trăm ống cũng không vấn đề gì. Loại ống ankyl lỏng này các nhà thám hiểm hiện đại chuyên dùng để chiếu sáng và đánh dấu đường, xem ra chắc là nhóm người của Ben để lại.
Đối diện với bọn họ, là một pho tượng ngồi của Nộ Mục Kim Cương, có sáu cánh tay, treo lơ lửng giữa không trung bằng tám sợi dây sắt to cỡ cánh tay người thả từ trần nhà xuống. Pho tượng này cao khoảng ba mét, toàn thân đen thui, dường như là đúc bằng thép ròng, sáu cánh tay đều cầm pháp khí, mắt trợn lên giận dữ, răng nhe ra ngoài, tướng mạo hung tợn, thoạt nhìn trông như Kim Cương của Phật giáo, nhưng lại có chút không giống với những pho Kim Cương mà Trác Mộc Cường Ba thường ngày vẫn thấy. Nét mặt như cười mà chẳng phải cười ấy, kết hợp với ánh mắt phẫn nộ kia, toát lên mấy phần kỳ dị, mấy phần tà ác, Trác Mộc Cường Ba chỉ có thể tạm gọi đó là tượng Kim Cương chứ cũng không dám chắc. Chỗ rốn của Kim Cương có lỗ thủng, trên đỉnh đầu có mối buộc, xem ra đinh độc bắn ra lúc giẫm lên phiến đá đầu tiên là bắn ra từ cái lỗ này. Lối thông này dính sát vào tượng Kim Cương, xem ra cổ nhân đã đặc biệt thiết kế như vậy để tiện cho việc lau chùi tượng Phật và lắp ráp các cơ quan.
Đường Mẫn nhìn độ cao hai chục mét, băn khoăn hỏi: "Cao như vậy, chúng ta xuống bằng cách nào bây giờ?"
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn quanh, đích xác là không có đường nào đi xuống, nhưng các ống ankyl lỏng cắm trên bốn vách tường đã chứng tỏ đám người của Ben đã xuống bên dưới rồi. Gã cẩn thận quan sát một lần nữa, phát hiện ra trên đùi tượng Kim Cương còn một mẩu thừng nhỏ, bèn nói: "Bọn chúng buộc dây thừng vào đùi Kim Cương leo xuống, nào, lấy dây thừng an toàn ra đây, chúng ta cùng xuống từ chỗ này thôi."
Trác Mộc Cường Ba buộc chắc dây thừng, rồi bảo Đường Mẫn: "Anh xuống trước, tới nơi sẽ gọi em, không được làm bừa đâu đấy." Đường Mẫn khẽ gật đầu.
Trác Mộc Cường Ba quấn một vòng dây vào cổ tay trái, rồi lại quấn một vòng vào hông, tay phải kéo đầu kia sợi dây, tung mình nhảy lên, tính thuận theo sợi dây mà trượt xuống. Nào ngờ vừa mới nhảy lên, gã đã nghe thấy tiếng hô kinh hãi của Đường Mẫn. Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy thân thể rơi xuống, căn bản không hề có cảm giác bị lực tác động nào, kế đó nghe thấy tiếng "rầm rầm rầm" vang lên. Cũng may Trác Mộc Cường Ba lâm nguy bất loạn, không hề do dự, đã dứt khoát cởi ngay sợi dây thừng ra, hai tay dang rộng, mở chiếc áo cánh dơi ra, sau khi giữ được thăng bằng liền vung tay, bắn dây thép, "kích" một tiếng, đầu dây đã xuyên vào vách đá, Trác Mộc Cường Ba cũng lập tức đu người qua. Vừa mới áp sát bức tường, đã nghe thấy "uỳnh" một tiếng, ngoảnh đầu nhìn lại, cả pho tượng Kim Cương đã như một quả chùy sắt khổng lồ dận mạnh vào vị trí vỗ gã định leo xuống. Kế đó, một tràng những tiếng "cạch cạch cạch" vang lên, cơ quan vận hành lại kéo pho tượng nặng mấy tấn trở về vị trí ban đầu. Trác Mộc Cường Ba nhìn mà toát hết mồ hôi lạnh. Không ngờ đó cũng là cơ quan, sợi thừng đứt còn sót lại ấy hóa ra là vật để dụ người ta mắc bẫy. Đường Mẫn ở bên trên lớn tiếng gọi vọng xuống: "Không sao chứ? Anh Cường Ba?"
Trác Mộc Cường Ba đưa tay rờ mó, bốn vách tường đều trơn tuột, muốn bò từ đây xuống là không thể. Gã liền hét lên trả lời: "Không sao, giờ em nèm cho anh một sợi thừng khác, rồi em xuống theo hướng kia, Mẫn Mẫn, em có nghe thấy không?" Kế đó, gã lại khởi động máy liên lạc trên đồng hồ, nói cho giáo sư Phương Tân và mấy người khác chuyện pho tượng Phật bằng sắt. Cả mấy người kia đều dặn dò Trác Mộc Cường Ba phải hết sức cẩn thận.
Đường Mẫn buộc một đầu dây thừng vào một vật thể tương đối nặng có hình dạng như cây đèn pin rồi nèm cho Trác Mộc Cường Ba vươn tay bắt lấy, sau đó quấn sợi dây quanh người hai vòng, vẫy tay nói: "Được rồi." Đường Mẫn liền tung mình nhảy từ phía bên kia chỗ con đường nhô ra, trượt xuống bên dưới, sau đó lại kéo căng sợi dây. Trác Mộc Cường Ba khi ấy mới thu sợi thép lại, đu người xuống mặt đất. Hai người nhìn cái hố khổng lồ trước mũi chân, và những đốm đỏ lấm chấm bên trong, không hiểu pho tượng Phật sắt rốt cuộc đã giết chết bao nhiêu kẻ lỡ bước đến chốn này rồi nữa.
Trác Mộc Cường Ba thu dây thừng lại, trong lòng vẫn còn chưa hết kinh hãi: "Đi thôi, xem xem dưới đây còn có đường nào nữa không?"
Đứng bên dưới nhìn lên đỉnh, cả gian đại sảnh màu vàng kim này trông huếch trống hoác, bốn vách tường cũng không có những bức tranh cầu kỳ đẹp đẽ, chỉ có pho tượng Phật sắt hung ác kia treo lơ lửng giữa không trung. Từ góc này nhìn lên, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn mới phát hiện, thì ra tượng Phật sắt này có ba đầu sáu tay, bất kể là nhìn từ hướng nào, trông cũng như thể hung thần ác sát đang nhìn chòng chọc vào người ta, hình dáng sáu cánh tay thì mười phần quái dị, cho dù chuyển sang hướng nào chăng nữa, người xem cũng có cảm giác như sáu cánh tay cầm vũ khí kia đang hướng vào phía mình vậy.
Đường Mẫn không nén nổi buột miệng hỏi: "Đây là Phật gì vậy? Nhìn đáng sợ quá đi mất."
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Anh cũng không biết, pho tượng này không hề giống tượng phật nào mà anh từng thấy trước đây cả."
Gian đại sảnh này có bốn cửa lớn ở bốn phía trước sau trái phải. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba lấy la bàn ra kiểm tra, thấy ở bốn hướng Đông Tây Nam Bắc lại có bốn cửa ngách tương đối nhỏ. Giữa đại sảnh có một miệng hố hình tròn, đường kính khoảng ba mét, bên trên bịt kín bằng những phiến đá hình dạng như cánh hoa, nhìn khác hẳn với những phiến đá lát sàn khác ở xung quanh, ở chính giữa đều có một thứ vật chất màu đỏ, chạm vào thấy mềm mềm. Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người ra, cửa hầm này giống hệt như cánh cửa đá ở địa cung Ah Puch - cánh cửa phải dùng đến huyết trì mới mở ra được! Nhưng vật chất màu đỏ này không phải dạng sợi như lạt ma Á La đã hình dung, mà giống hệ như tổ chức mô cơ vẫn còn đang sống. Trác Mộc Cường Ba dịch chuyển dần ánh mắt khỏi cửa hầm, chỉ thấy bốn đường rãnh thông thẳng đến bốn cửa ngách, khéo léo đan xem nào những khe hở giữa các phiến đá lát sàn, khiến người ta khó mà phát hiện ra được. Trác Mộc Cường Ba gõ gõ tay lên phiến đá, tiếng động trầm đục, xem ra là rất dày và nặng, nhất thời không thể tìm được cách mở cửa hầm. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn liền đi vòng vòng xung quanh một lượt.
Đường Mẫn nói: "Gian đại sảnh này thật kỳ lạ, tại sao không hướng đúng theo bốn phía Đông Tây Nam Bắc mà lại kẹt giữa bốn phương vị này làm gì chứ."
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên sực nhớ ra cha gã từng nói rằng Tứ Phương miếu "không phải ở bốn phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc mà ở chỗ ngoặt nét của chữ Vạn luân hồi". Gã lại nghĩ đến thân phận Thánh sứ của mình, không khỏi ngấm ngầm hoài nghi: "Có lẽ nào, nơi này thật sự có liên quan rất lớn tới mình và gia tộc của mình hay sao? Nhưng xưa nay có nghe cha mình nhắc tới bao giờ đâu, đây rốt cuộc là chuyện gì vậy?" Trác Mộc Cường Ba âm thầm quyết định, sau khi hành động này kết thúc, nhất định phải trở về tìm gặp cha gã hỏi cho rõ ngọn ngành.
Nghĩ vậy, gã không trả lời ngay câu hỏi của Đường Mẫn, mà dẫn cô tới trước cánh cửa ngách ở hướng chính Bắc, chỉ thấy một dải bậc thang đá lớn trải dài xuống dưới, ánh sáng vàng vọt của các ống lửa cắm bên vách tường tựa hồ như đang chiêu dẫn vong hồn trở về chốn hoàng tuyền. Trác Mộc Cường Ba nói: "Xuống dưới xem sao đi."
Cuối cầu thang là một gian phòng nhỏ, rộng chừng năm sáu chục mét vuông, chính giữa là một bệ đá hình vuông, bốn phía có các giá cũng bằng đá. Trên nền đá và giá treo bằng đá đều không tránh nổi lưu lại những vết nâu sậm, khiến hai người vừa bước vào phòng đã cảm thấy một trận gió âm thổi tới, tựa hồ có vô số oan hồn chưa tan vẫn đang đảo lượn giữa không trung. Xung quanh bệ đá còn sắp đặt vài món đồ bày biện đã mục nát, có lẽ là các thứ pháp khí, bàn thờ, lò lửa ngày xưa vẫn dùng để tế bái cầu khẩn, có điều tất cả giờ đã không còn hình dạng ban đầu nữa rồi. Hai người đi xung quanh một vòng, không có phát hiện gì đặc biệt, nghĩ rằng mấy gian phòng sau những cánh cửa mé còn lại cũng đều như vậy cả, Trác Mộc Cường Ba quyết định vào thử cửa chính xem thế nào.
Cửa chính cao lớn hơn cửa mé bên rất nhiều, bậc thang rộng rãi, hai người bước xuống cầu thang, liền tới một gian đại sảnh khác. Chính giữa sảnh là bệ tam cấp dùng để cúng tế, bên trên là một tượng Phật đá tạo hình nữ giới, cao năm mét, chân trái quấn quanh chân phải, sau lưng dựa vào một cái bệ trông như vỏ sò. Phật có ba mắt, khóe miệng cười gằn, từ ngực tới bụng có sáu bầu vú, hai tay vòng trước ngực ôm một đứa trẻ sơ sinh, đầu đã đứt lìa, chỉ còn lại một cánh tay. Tượng Phật đang há rộng cái miệng to như chậu máu, răng nhuộm đỏ rực, phảng phất như máu vẫn cô đặc trên đó, từng giọt từng giọt nhểu xuống. Tà dị hơn nữa là, trong miệng tượng Phật có một cánh tay trẻ sơ sinh trắng muốt như tuyết thò ra, tựa hồ như vẫn còn muốn nắm lấy thứ gì đó. Đường Mẫn chỉ nhìn lướt qua đã vội ngoảnh mặt sang hướng khác, không dám nhìn tiếp. Đây cũng là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba thấy thứ gì tà ác như vậy. Phía trước tượng Phật có một chiếc đỉnh bằng kim loại, rõ ràng là để đốt hương cúng tế, bốn phía xung quanh còn có các cột gỗ, chắc là dùng để treo phướn rủ màn che, giờ màn phướn đều đã hóa thành tro bụi, chỉ còn lại những chiếc cột gỗ này mà thôi.
Đường Mẫn nói: "Đi thôi, ở đây không còn thứ gì nữa rồi, em nhìn thấy khó chịu lắm."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Đợi chút đã Mẫn Mẫn, em xem kìa, vết chân dưới đất tán loạn, còn nữa, lớp bụi đất ở hai bên tượng Phật rất dày, e là chỗ giữa kia có bí mật gì đó. Để anh lại xem thế nào đã." Trác Mộc Cường Ba lấy hết can đảm, dấn từng bước lại gần tượng Phật nữ, càng lại gần càng cảm thấy lạnh lẽo rùng mình. Cái miệng há rộng như chậu máu kia, tựa hồ như sẵn sàng cúi xuống cắn xé người ta, ba con mắt xếp trên trán thành hình cánh quạt, đều toát lên vẻ đói khát, thèm muốn giành giật lấy thức ăn.
Trác Mộc Cường Ba điều chỉnh lại hơi thở, cuối cùng nhích lại dưới chân pho tượng Phật, chỉ thấy bức tượng đá khổng lồ từ trên cao nhòm xuống, ba con mắt trợn trừng không rời, ánh mắt nửa mừng vui lại mang theo nỗi thèm khát ấy được người xưa điêu khắc hết sức có hồn. Trác Mộc Cường Ba càng nhìn lại càng thấy kinh hãi trong lòng. Gương mặt cười cười nhe hàm răng nhỏ máu ấy, thật khiến người ta phải rởn hết cả gai ốc. Trác Mộc Cường Ba thu ánh mắt lại, nhìn thẳng về phía trước, liền phát hiện ra, chân phải cong xuống của tượng Phật có khắc một thứ như giáp bảo vệ đầu gối, vừa hay hình thành nên một cái bậc, bề mặt bằng phẳng, có lẽ để cho người ta leo lên. Gã nghĩ ngợi trong thoáng chốc, rồi cận thận leo lên chỗ khớp gối tượng Phật. Đường Mẫn ở bên dưới run giọng nói: "Anh Cường Ba, anh làm gì thế?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Đừng lo, anh lên trên xem sao thôi." Từ hướng này nhìn ra, chỉ thấy đứa trẻ đứt đầu kia, dường như là một bức tượng rỗng, bên trong hẳn là phải có thứ gì đó. Trác Mộc Cường Ba men theo đùi tượng Phật một bước, vừa hay lại giẫm lên điểm đặt chân tiếp theo, tự nhủ thầm trong bụng: "Trong lòng không có ma quỷ thì sẽ không sợ gì hết," kế đó liền táo gan thọc tay vào trong cổ bức tượng trẻ sơ sinh lần mò.
Trong bụng bức tượng dường như có một tay nắm. Trác Mộc Cường Ba quan sát kỹ lưỡng xung quanh, sau khi xác thực đây không phải là cơ quan phát động công kích, mới kéo tay nắm đó một cái. Chỉ nghe "rầm" một tiếng, Trác Mộc Cường Ba vội tung người nhảy xuống khỏi tượng Phật, lộn nhào trên không một vòng, rồi bình ổn hạ xuống. Giờ mới nhìn rõ tượng Phật đã tách ra làm đôi, trong bụng là một cái đài sen có rắn quấn quanh. Đường Mẫn giơ hai tay lên bụm miệng, suýt chút nữa thì kêu rú lên.
Trác Mộc Cường Ba lại bước lên bệ thờ, quan sát đài sen: "Quả nhiên!" Chỉ thấy chính giữa đài sen lộ ra một lỗ nhỏ, bên trong chắc là từng có thứ gì đó cắm vào, nhìn dấu vết trên lỗ nhỏ ấy, thứ đó chắc là có một mẩu hình thoi nhô lên, ngoài ra còn có tay nắm, Trác Mộc Cường Ba nhét sợi dây thừng vào lỗ dò thử, thấy bên trong dài chừng ba mươi centimet. Trác Mộc Cường Ba kiểm tra xong xuôi, bước xuống bậc thang, đúng lúc bước xuống bậc thang cuối cùng, tượng Phật liền như cái bẫy chuột, chập đánh "rầm" một cái vào nhau, tiếng vang rất lớn, bụi đá rơi xuống lả tả như mưa. Đường Mẫn lại run bắn mình lên một chặp, mặt hoa thất sắc. Trác Mộc Cường Ba bước tới ôm lấy cô, cảm nhận được đôi vai cô đang rung lên nhè nhẹ như một chú thỏ nhỏ đang run sợ, liền thì thầm an ủi: "Đi thôi, chúng ta tới những gian sảnh khác xem sao."
Bên trái là một quái thú ba mắt, trên vai mọc sáu cánh tay, bụng to như trống, đầu người mình rắn, có điều con mắt thứ ba của nó lại tròn vành vạnh chứu không phải hình thoi dựng lên như tượng Phật nữ. Bên phải là một đôi đầu voi mình người đang hợp thể giao hoan, có đực có cái, nhưng ở đây, tượng giống cái đang ngồi to hơn rõ rệt, tượng giống đực ngược lại tương đối nhỏ, tựa như một đứa trẻ bổ vào lòng bức tượng giống cái, không thấy mặt mũi thế nào, chỉ lộ ra cặp ngà dài và cái vòi voi. Gian đại sảnh sau cánh cửa lớn cuối cùng là một bức tượng nữ Phật có bốn cánh tay, cũng có ba mắt, tướng mạo hung ác, cơ thể đen đúa, ngực đeo vòng xâu chuỗi đầu lâu, eo hông đeo tay người làm vật trang trí; hai cánh tay bên trái chia ra cầm búa và câu liêm, tay phải thì cầm đồ đựng bằng đầu lâu người và một trái tim đang nhỏ máu ròng ròng. Những bước tượng hung Phật này tạo hình hết sức đặc thù, nét mặt đáng sợ, không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại chẳng nhận ra được pho tượng nào.
Các bức tượng trong bốn gian sảnh đều có cơ quan, Trác Mộc Cường Ba đã lần lượt mở ra, bên trong đều trống không. Đường Mẫn hỏi: "Nếu chưa có ai tới chỗ này, vậy tại sao ngoài tượng Phật ra thì chẳng còn thứ gì nữa vậy?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Làm sao anh biết được chứ? Có lẽ đã bị người nào đó tinh thông cơ quan học lấy đi mất rồi, hoặc là đã có biến cố gì đó, nên toàn bộ đồ đạc đã được chuyển đi, hoặc cũng có thể… ở đây căn bản không có pháp khí hay tế vật gì, để những kẻ tìm kiếm báu vật bỏ qua những gian phòng này hòng bảo vệ bí mật cuối cùng giấu bên trong tượng Phật."
Cùng lúc ấy, Trương Lập và Nhạc Dương đã tới căn phòng chất đầy vại sành vại sứ. Trương Lập nhìn lối đi nhỏ hẹp nói: "Ở đây rồi."
Nhạc Dương mắt tinh, vừa liếc cái đã thấy cục bầy nhầy giống thịt nằm dưới đất, nói: "Xem kìa, cái gì thế?"
Trương Lập lắc đầu: "Không biết nữa."
Nhạc Dương chặc lưỡi: "Đây có lẽ nào là thái tuế trong truyền thuyết không nhỉ?"
Trương Lập liền hỏi: "Thái tuế là cái gì?"
Nhạc Dương đáp: "Một thứ nghe đồn là ăn vào sẽ kéo dài tuổi thọ, cường thân kiện thể. Thoạt nhìn giống thịt, nhưng thực ra là một loại nấm, ngoài ra, khi cắt một phần đi, nó sẽ tự mọc lại được, chỉ cần ngâm trong nước là sẽ giữ được không bị thối rữa. Hồi ở Thanh Hải tôi có nghe người ta kể về thứ này rồi." Nói đoạn, anh chàng liền nhấc cái vại Trác Mộc Cường Ba đã mở ra lên, lắc lắc mấy cái rồi bảo Trương Lập, "Anh xem đi, trong này cũng ngâm đây này."
Trương Lập ghé mắt vào nhìn kỹ hơn, "Không phải đấy chứ, chỉ là một cục thịt trắng to bằng con chó con mới đẻ thôi mà, trong vại cũng đang ngâm một cục như thế." Nhạc Dương nói: "Chẳng lẽ ở đây lại có nhiều thái tuế thế cơ à?"
Trương Lập trầm trồ: "Chà, ăn vào có thể trường sinh bất lão, vậy thì chúng ta phát to rồi!"
Nhạc Dương thò tay vào trong vại vớt cục thịt trăng trắng ấy lên, gí sát miệng Trương Lập nói: "Anh nếm thử xem mùi vị thế nào?"
Trương Lập vội vàng lắc đầu quầy quậy, cái thứ này nghe thì có vẻ rất hay, nhưng khi đặt ở trước mặt, chỉ nhìn thôi cũng thấy buồn nôn lắm rồi, hơn nữa lại còn có một thứ mùi hết sức quái đản, ngửi còn chẳng muốn ngửi nói gì đến ăn. Nhạc Dương cười hì hì chế giễu: "Đúng là chẳng biết gì hết, đồ tốt thế mà lại." Nhưng lúc anh chàng đưa lên miệng, bị khí vị quái dị ấy xộc vào mũi thì cũng không sao há miệng ra nổi. Trương Lập lo lắng hỏi: "Được không đấy, cái thứ này có lẽ đã ngâm cả ngàn năm rồi đó, cho dù có là đồ tốt thật thì cũng bị ngâm rữa ra rồi, chúng ta mau mau qua kiếm Cường Ba thiếu gia thì hơn."
Trác Mộc Cường Ba vừa bước xuống khỏi bệ thờ, bức tượng Phật bốn tay liền khôi phục lại hình dáng ban đầu, chỉ nghe bên ngoài đại sảnh có tiếng "cạch cạch" khe khẽ. Trác Mộc Cường Ba chợt nghĩ: "Chẳng lẽ cánh cửa trong dưới đất đã mở ra rồi? Đi, đi xem sao." Nghĩ đoạn, gã liền dắt tay Đường Mẫn nhanh nhanh chạy vù về gian đại sảnh sắc vàng. Đường Mẫn lẩm bẩm nói: "Không phải là huyết trì à, sao lại dễ mở ra như thế nhỉ?"
Quả nhiên, các phiến đá giống như cánh hoa trong đại sảnh đã xoay cả về phía gần tường đá, để lộ ra một cửa hầm trơn nhẵn hình tròn, đường hầm hình xoáy tròn xuống dưới, bên trong trơn như gương, rất giống một cái vỏ ốc biển khổng lồ. Đường Mẫn lo lắng nói: "Bên trong này trơn như thế, xuống rồi là không lên được đâu." Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi lấy dụng cụ ra, đóng đinh sắt vào mặt đá, rồi lại dùng ba cái chốt an toàn chặn mấy cánh hoa lại, thắt dây an toàn vào đinh sắt, cài móc thả xuống đường hầm. Xong xuôi đâu đó, gã nói với Đường Mẫn: "Để anh xuống trước, em ở trên này đừng để cửa đóng lại đấy."
Trác Mộc Cường Ba đội mũ phát sáng lên, một tay bám dây thừng, ngồi trong rãnh trượt xuống, giống hệt như trẻ con ngồi cầu trượt vậy, vừa trượt gã vừa không khỏi nghĩ thầm trong bụng: "Sao trơn vậy, rốt cuộc là đã dùng công nghệ gì nhỉ?" Gã rờ tay lên vách, thấy lạnh buốt xương, gõ gõ lên, thì thấy không phải tiếng trầm đục của đá, Trác Mộc Cường Ba liền điều chỉnh cho mũ sáng hẳn lên, liền thấy vách tường đen sì sì như làm từ thép ròng, thầm nhủ: "Chẳng lẽ tường bên trong lối đi này toàn bộ đều ghép từ vật liệu kim loại chắc? Bọn họ dùng cách gì mà giữ được kim loại cả ngàn năm cũng không gỉ sét nhỉ?"
Đang suy nghĩ, dưới chân gã hình như đạp rơi thứ gì đó, thân thể hơi chùng lại, đoạn liền nghe thấy tiếng "cục cục cục" bên dưới vọng lên. Trác Mộc Cường Ba không kịp nhìn cho kỹ, nhưng đã càng thêm cẩn trọng, bám chặt dây thừng chầm chậm trượt xuống, quả nhiên không ngoài suy đoán của gã, cách đó chưa đầy ba mét, ở phía trước bỗng nhiên nhô ra một lưỡi đao sắc, mũi đao hướng thẳng về phía Trác Mộc Cường Ba, nếu gã mà không bám vào dây an toàn, nói không chừng lưỡi đao ấy đã xẻ người gã ra làm hai mảnh rồi. Trác Mộc Cường Ba còn chưa kịp thở phào nhẹ nhõm, đã nghe "soạt soạt soạt" mấy tiếng nữa vang lên, trong đường hầm trơn tuột ấy lại xẹt ra mấy lưỡi đao nữa. Những lưỡi đao này rõ là vô cùng sắc bén, sợi thừng chắc đến mức có thể treo cả con voi lên, bị lưỡi đao cọ vào hai ba lượt đã không chịu nổi trọng lượng của Trác Mộc Cường Ba, "bưng" một tiếng rồi đứt lìa. Trác Mộc Cường Ba chỉ kịp hét vọng lên phía cửa đường hầm một tiếng: "Không được xuống đây," thân thể đã trượt vù xuống dưới.
Đường hầm
Trương Lập và Nhạc Dương ung dung đi qua lối đi hẹp. Nhạc Dương không khỏi dương dương đắc ý nói: "Vượt qua mấy cái cơ quan này dễ quá đi."
Trương Lập liền châm chọc: "Không có Cường Ba thiếu gia nhắc nhở, cậu qua được dễ dàng thế không hả? Phải rồi, bây giờ đi tiếp sao đây? Mấy người đám Cường Ba thiếu gia đâu rồi nhỉ?"
Đi thêm mấy bước nữa, Nhạc Dương nhìn pho tượng Phật sáu tay, kinh ngạc thốt lên: "Oa, đây là Phật gì thế, nhìn cứ như hung thần ác sát ấy."
Trương Lập nói: "Dạ xoa phải không? Hay chẳng lẽ là tượng Diêm vương?"
Hai anh chàng đi tới phía trước tượng Phật sắt, liền nhìn thấy gian đại sảnh màu vàng và Đường Mẫn ở bên dưới.
Trương Lập vẫy chào, rồi cùng Nhạc Dương mỗi người giữ một đầu dây, gá lên phần nhô ra của lối đi, cùng lúc trượt xuống. Hai người chạy tới bên cạnh Đường Mẫn, trông thấy cửa hầm hình tròn dưới đất, Trương Lập bèn hỏi: "Sao cô không xuống đó luôn?"
Đường Mẫn đáp: "Anh Cường Ba vừa mới xuống. Anh ấy nói để thăm dò xem có nguy hiểm gì không…" Cô vừa nói tới đây, chợt nghe trong đường hầm vọng tới giọng Trác Mộc Cường Ba: "Không được xuống đây!" kế đó sợi dây thừng buộc vào đinh sắt bên trên giật nảy lên. Cả ba người đang đứng trong đại sảnh đều ý thức được một điều, dây thừng đã đứt!
Đường Mẫn cuống hết cả lên, thò đầu quan sát rồi định trượt xuống đường hầm, nhưng đã bị Trương Lập kéo lại. Nhạc Dương nói: "Mấy công chuyện nặng nhọc này để đàn ông chúng tôi làm cho." Nói xong liền cầm sợi thừng lên thắt bốn cái nút liền nhau, rồi bám dây xuống luôn đường hầm. Trương Lập cũng nói: "Yên tâm, công chúa, chúng tôi nhất định trả lại cho cô một Cường Ba thiếu gia hoàn chỉnh nguyên vẹn." Dứt lời cũng trượt xuống theo luôn.
Trác Mộc Cường Ba gào lên cảnh báo, đồng thời hay tay vươn ra, ấn vào hai núm xoay ở cạnh đế giày. Đôi giày leo núi đặc chế liền tự động bơm khí xuống đế, hình thành nên những giác hút và các sợi lông cong lớn nhỏ khác nhau, Trác Mộc Cường Ba lợi dụng chút lực hút này mà áp chặt người vào vách đường hầm trơn tuột, từ từ giảm tốc độ, cuối cùng cũng coi như dừng lại được. Một thanh đao sắc lẻm kê ngay dưới nách gã, lưỡi đao gần như đã cắt rách lớp áo bên ngoài. Trác Mộc Cường Ba cẩn thận vòng tay qua tránh lưỡi đao, rồi dùng sức phần hông, từ từ trườn xuống dưới, trông hệt như một con sâu đang uốn éo bò đi.
Lại vòng thêm ba vòng nữa, phía trước hình như đã xuất hiện mặt đất bằng phẳng, nhưng ở ngay chính diện lại xuất hiện một thanh đao dựng đứng. Từ góc độ của Trác Mộc Cường Ba, thoạt nhìn nó như một sợi tơ bạc, phía sau sợi tơ đột nhiên phình to ra như quản bút. Gã thầm nhủ, xung quanh chắc chắn phải có chốt lẫy nào để đóng cái cơ quan bật lưỡi đao này mới phải, vừa nãy trượt từ trên xuống dưới, những lưỡi đao này đều dựng đứng ở ngay phía dưới lối thông, nếu thả cho trượt tự do xuống thì người sẽ áp sát vào một bên vách do quan tính, thành ra lại không hề nguy hiểm, chỉ có điều khi trượt tới đoạn dốc cuối cùng này, chắc chắn sẽ bị lưỡi đao sắc phía trước xẻ ra làm đôi.
Khi sắp lại gần lưỡi đao, Trác Mộc Cường Ba liền phát hiện ra ở mé bên đường hầm hình tròn này có một kết cấu mộng ghép nhô ra, lẽ nào đây chính là chốt để đóng mở cơ quan?
Đang suy nghĩ, đột nhiên nghe "kịch" một tiếng, lưỡi đao kia bỗng rụt trở lại, kế đó nghe "phăng" một tiếng nữa, lưỡi đao lại bật trở ra. Trác Mộc Cường Ba còn chưa hiểu ra chuyện gì, đã nghe bên trên có người hét lớn: "Cường Ba thiếu gia, anh ở đâu? Tôi xuống đây!" Tiếng Nhạc Dương từ xa thành gần, đến thật là nhanh!
Trác Mộc Cường Ba thầm than không xong, hai chân ấn chặt vào đường hầm. Chỉ thấy hai vai trầm xuống, cả hai người cùng lúc bị một xung lực mạnh mẽ kéo trượt xuống. Lưỡi đao kia cách tầm mắt Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng gần, càng lúc càng gần. Trác Mộc Cường Ba định thay đổi phương hướng, nhưng muốn trụ vững được thân hình ở chỗ này một mình đã không phải chuyện dễ rồi, làm sao gã được như ý. Thành ra hai người cùng lúc cứ thế trượt thẳng về phía lưỡi đao sắc bén.
Cuối cùng coi như nhờ đôi giày leo núi đặc chế chất lượng cao, không ngờ cũng giữ ổn được thân hình của cả hai người. Song lưỡi đao kia đã kề vào giữa hai đùi Trác Mộc Cường Ba, cọ xát vào đũng quần. Gã lần này đúng là được một phen toát mồ hôi lạnh, không ngờ còn chưa kịp định thần, bên trên đã có tiếng vọng xuống: "Tôi cũng đến rồi đấy!"
Trác Mộc Cường Ba cả kinh thất sắc. May là trong lúc loạn cũng không mất đi sự bình tĩnh, vào khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc đó gã đã vươn tay phải ra ấn xuống kết cấu hình mộng kia, còn kế đó thế nào thì đành nghe theo mệnh trời thôi vậy. Trác Mộc Cường Ba vừa mới làm xong, trọng lượng trên vai đột nhiên tăng lên gấp mấy lần, ba người như một đoàn xe lửa, trượt ngồi xuống tận cùng của đường hầm.
"Khốn kiếp! Rõ ràng đã nghe thấy tôi bảo đừng có xuống, thế tức là chắc chắn có cơ quan rồi, vậy mà vẫn còn mạo hiểm như vậy nữa!" Trác Mộc Cường Ba có tốt tính đến mấy cũng không thể nhịn nổi, lớn tiếng trách móc các thành viên trong nhóm.
Nhạc Dương trừng mắt lên nhìn Trương Lập, giọng đầy trách móc: "Đều tại cậu cả, suýt chút nữa là làm Cường Ba thiếu gia tuyệt đường con cháu rồi." Hai người áp vào vách tường trượt xuống, thành ra không chạm phải lưỡi đao nào hết.
Trương Lập vội biện bạch: "Sao lại trách tôi, rõ ràng là cậu xuống trước cơ mà, cậu không đạp phải cái cơ quan ấy, những lưỡi đao đó liệu có bật ra làm đứt dây thừng hay không chứ?"
Trác Mộc Cường Ba ôm đầy một bụng tức, có điều cũng không muốn lằng nhằn mãi với hai anh chàng lắm điều này, liền lấy thiết bị ra liên lạc với Đường Mẫn, báo cho cô biết tạm thời họ chưa gặp nguy hiểm gì, nhưng trong thông đạo có cơ quan, tốt nhất là đừng có xuống vội, cứ ở trên đó đợi mấy người nhóm lạt ma Á La tới đã. Kế đó, gã lại liên lạc với giáo sư Phương Tân, từ vị trí của giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La, rõ ràng là đã sắp tới gian đại sảnh màu vàng kim kia rồi. Chỉ có Lữ Cánh Nam và Ba Tang là đã phát hiện ra một lối đi lạ, giờ đang thăm dò. Hơn nữa lối đi mà họ phát hiện ra đó, hình như cả nhóm người của Ben cũng chưa phát hiện ra, bên trong vẫn còn giữ được nguyên vẹn trạng thái mấy trăm năm không hề có người lai vãng.
Thông đạo bí mật mà Lữ Cánh Nam và Ba Tang đi nghe nói còn nguy hiểm kỳ bí gấp bội, nói chuyện qua thiết bị liên lạc nhất thời cũng khó có thể nói rõ ràng được, Lữ Cánh Nam chỉ dặn dò bọn Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng điều tra rõ lối đi bọn gã phát hiện, sau đó xem xem có thể liên hệ và giúp đỡ gì nhau không.
Trác Mộc Cường Ba ấn nút trên đồng hồ, chấm dứt cuộc tranh luận từ nãy vẫn chưa hề ngừng lại của Trương Lập và Nhạc Dương, đoạn nói: "Tôi còn chưa nói cái gì, hai cậu tranh cãi gì mà tranh cãi? Bây giờ chúng ta hãy kiểm tra rõ tình hình dưới này trước, rồi sau đó tìm cách leo lên trên kia."
Con đường này nối liền với ống trượt hình xoáy ốc mà mấy người vừa trượt xuống, độ võng dưới mặt đất tương đối nhỏ, cao hơn hai mét một chút, Trác Mộc Cường Ba chỉ cần vươn tay lên là đã chạm tới đỉnh vòm rồi, chiều rộng đâu chừng hai ba mét, đi bên trong cảm tưởng như đang bước trong một đường hầm thời không cổ kính vậy. Gã cảm thấy con đường này hơi giống lối đi hình ống xương ở địa cung Ah Puch, nơi ra ra vào vào của bọn chuột khổng lồ, không khỏi thầm nhủ: "Ở đây chắc không có cái thứ ấy chứ nhỉ."
Đi được chừng mười bước, phía trước liền xuất hiện lối rẽ, ba người đứng lại nhìn quanh ngó quất, chỉ thấy cả hai lối đều có phân nhánh. Trương Lập không ghìm nổi buột miệng thốt lên: "Không phải chứ, mê cung hả?" Nhạc Dương "Ô" lên một tiếng. Trong ngành cơ quan học, hai vị nhân huynh này sợ nhất chính là môn mê cung, cái gì mà mê cung vòng, mê cung vuông, mê cung pháp trận, mê cung lập thể… dù là loại mê cung gì cũng khiến cả hai đầu váng mắt hoa. Thế nhưng cổ nhân lại cứ xếp mê cung vào loại dễ xây dựng mà hiệu quả lại cao nhất trong cơ quan thuật. Các loại mê cung, chẳng hạn như Kỳ môn độn giáp, Bát trận đồ, Mê hồn trận… đều từng nổi tiếng hiển hách một thời, lập công lớn trên chiến trường và còn nhiều nơi khác. Trong cơ quan học, riêng kiến thức về mê cung lập nên hẳn một ngành chuyên biệt. Những gì bọn Trác Mộc Cường Ba đã học và nắm bắt, có thể nói đều là những kiến thức đơn giản và tinh yếu nhất về mê cung.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Không giống, làm gì có mê cung nào cứ đi bốn năm bước đã thấy rẽ nhánh rồi, hơn nữa tường ở đây đều trơn nhẵn thế này, chẳng giống như có bố trí cơ quan lớn gì cả."
Nhạc Dương lẩm bẩm: "Cũng cần gì cơ quan cỡ lớn chứ, chỉ như cái vừa nãy…" Trương Lập vội nhéo mạnh lên lưng anh chàng một cái, ý bảo Nhạc Dương đừng có nhắc chuyện vừa nãy làm gì nữa.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Chúng ta đi thêm mấy bước nữa xem thế nào, dù sao cũng còn hơn đứng mãi ở đây."
Không có máy tính của giáo sư Phương Tân, đi trong đường hầm phân nhánh chằng chịt thế này đúng là tương đối khó khăn. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đánh dấu điểm đang đứng lại, sau đó bắt đầu đi về phía trước. Trong mê cung mà không có bản đồ, thì nên tuân theo nguyên tắc dựa phía trái. Đây là một nguyên tắc rất cơ bản, chính là đi thế nào cũng được, nhưng bao giờ cũng phải bám sát vào bức tường bên trái, như vậy thì từ đầu chí cuối vẫn luôn tiến lên phía trước. Nếu như mê cung có dạng thức một vòng tuần hoàn, thì họ đã đánh dấu ở điểm khởi đầu, khi nào quay lại đây sẽ phát hiện ra được ngay.
Lúc này, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đã tới gian phòng chất đầy vại sành sứ và xương người chết, cũng nhìn thấy cả lối đi chật hẹp kia. Giáo sư Phương Tân nói: "Đến nơi rồi," đoạn liền cởi ba lô xuống chuẩn bị đi qua. Lạt ma Á La liền ngăn lại: "Đợi đã, để tôi xem mấy cái vại này một chút."
Giống như Nhạc Dương lúc nãy, lạt ma Á La nhấc chiếc vại lên, nhìn cục thịt và chất lỏng bên trong, ánh mắt hấp háy bất định. Giáo sư Phương Tân thấy thế liền hỏi: "Bên trong có gì thế?"
Lạt ma Á La như người bừng tỉnh cơn mộng, giật mình đáp: "À, gì hả? Ồ, không biết nữa, đúng là kỳ quái thật, nhiều vại như vậy, bên trong này rốt cuộc là ngầm thứ gì đây nhỉ? Chụp ảnh lại đã, rồi chúng ta nhanh qua xem bọn Cường Ba thiếu gia thế nào." Miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng ông lại thầm kinh hãi: "Trời đất, lẽ nào đây lại chính là Thánh đàn năm đó?"
Từ sau khi máy tính của giáo sư Phương Tân ghi lại được rất nhiều thông tin trong địa cung Ah Puch, lãnh đạo của tổ huấn luyện đặc biệt tỏ ra rất hứng thú với phương thức ghi hình này. Sau khi được nhóm nghiên cứu cải tiến, máy quay của giáo sư Phương Tân đã đổi thành loại ống kính có độ phân giải cao, gắn trực tiếp vào mắt kính của ông, chỉ cần kéo sợi dây truyền số liệu trong ba lô ra gắn vào là có thể dùng được luôn, lại có chức năng quay chụp dưới nước, còn máy tính xách tay được giữ trong ba lô, giải phóng cho đôi tay tự do hoạt động.
Mới được khoảng ba phút mà mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đã đi qua vô số đường rẽ nhánh, nếu phải gượng ép đi theo trí nhớ, lúc này họ khẳng định là đã lạc đường. Đột nhiên, chiếc đồng hồ trên cổ tay Nhạc Dương sáng đỏ lên, báo có tín hiệu liên lạc. Thì ra giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đã tới nơi, sau khi nghe Đường Mẫn kể lại mọi chuyện liền liên lạc với ba người bên dưới. Nhạc Dương trả lời rằng trước mắt coi như vẫn an toàn, cả bọn đang ở trong mê cung, bên dưới này ngoài đường hầm ra thì chẳng phát hiện được gì khác nữa, nếu tìm thấy gì sẽ liên lạc với bên trên sau. Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La dặn dò ba người cẩn thận, bọn họ cũng phải ở trên này quan sát mấy tượng Phật kia một chút.
Đường Mẫn dẫn đường cho hai ông già tham quan hết cả mấy gian sảnh sau bốn cánh cửa chính và bốn cánh cửa ngách, cũng xem cả những cơ quan bên trong, rồi giáo sư Phương Tân sắp xếp lại các tư liệu trong máy tính, cùng Đường Mẫn thảo luận những gì hai người trông thấy trong đống hoang tàn đổ nát. Lạt ma Á La thì nhìn chằm chằm vào pho tượng Phật đen treo lơ lửng giữa không trung, tâm trạng nặng nề mà phức tạp, nhủ thầm trong bụng: "Đại Hộ Pháp thần Ma Kha Ca La, Trì Thiên Hộ Pháp thần Kha Lợi Đế Mẫu, Địa Linh tôn Na Ca, Đại thánh Tỳ Na Dạ Ca, Địa Mẫu thần Ca Lợi… thần Phật cõi trời đều tụ tập cả về đây, không thể sai được, thứ chúng ta vừa trông thấy… đó là rượu tế! Chỗ này đúng là Thánh đàn rồi! Đức Ma Hê Thủ La tôn kính vạn năng, xin hãy thứ tha cho kẻ tội đồ thành kính này, chúng con đến muộn mất rồi, nhưng chúng con không bỏ cuộc, không bao giờ ngừng nỗ lực để Tự Tại Mạn Đà La trùng hiện quang minh."
Giáo sư Phương Tân nhìn màn hình máy tính rồi nói với Đường Mẫn: "Thứ giáo lý cổ xưa hoặc có lẽ đã biến mất này, bọn họ toàn sùng bái tà Phật và ác ma. Chẳng hạn pho tượng Phật sắt trên đầu chúng ta đây, nếu tôi không lầm, đó chắc là Đại Hắc Thiên (Mahakala). Đại Hắc Thiên là một trong những vị thần bảo hộ được nhiều người biết đến nhất ở Tây Tạng. Tương truyền Đại Hắc Thiên đã bị Quan m thu phục, có lúc còn được coi là hóa thân Phẫn Oán của Bồ Tát. Còn bức tượng hai con voi ôm lấy nhau đó chắc là Đại Thánh Hoan Hỉ Thiên, ngài thường xuất hiện dưới hình tượng chiến thần, còn gọi là Đại Thánh Thiên, Thánh Thiên. Hình tượng hai vợ chồng đầu voi mình người ôm nhau hợp thể này chính là bản tôn (hình tượng thật) của ngài. Nam Thiên là con trai trưởng của Đại Tự Thiên, là Đại Hoang thần tàn hại thế giới; Nữ Thiên là Quan m hóa ra, ôm chặt lấy nhau như vậy là để Nam Thiên hoan tâm, dồn nén cơn hung bạo xuống, vậy nên mới gọi là Hoan Hỉ Thiên. Còn bức tượng Phật nữ mà cháu cho là đáng sợ nhất ấy có lẽ chính là Quỷ Tử Mẫu trong truyền thuyết. Quỷ Tử Mẫu trong truyền thuyết. Quỷ Tử Mẫu còn gọi là Hoan Hỉ Mẫu, tiếng Phạn là Kha Lợi Đế Mẫu. Quỷ Tử Mẫu vồn là một vị ác thần trong Bà La Môn giáo, chuyên ăn lũ trẻ con ở chốn nhân gian, gọi là Mẫu Dạ Xoa. Sau khi được Phật pháp giáo hóa, liền trở thành thần hộ pháp chuyên trách bảo vệ trẻ con. Hai bức tượng còn lại thì tôi không nhận ra, nhưng quá nữa cũng là loại tượng Phật này. Những vị thần Phật này sau khi quy hồi Phật giáo thì đều là Đại Hộ Pháp, Đại Kim Cương, là các thần Phật chính nghĩa chuyên trách tiêu diệt tà ma ác đạo, nhưng những bức tượng được khắc tạc ở đây, rất rõ ràng đều thể hiện hình tượng trước khi quy y Phật giáo của họ, đều là đại hung thần, đại sát tinh, thần Phật bình thường đều không thể làm gì nổi họ. Những thần Phật mà giáo phái này thờ phụng chính là những vị tà Phật này đó. Tôi nghĩ, lạt ma Á La chắc biết về việc này nhiều hơn chúng tôi đúng không, Á La đại sư?"
Lạt ma Á La giật mình: "Gì hả?"
Đường Mẫn nói: "Ông kể cho chúng cháu nghe về lai lịch những tượng Phật này đi, đại sư."
Lạt ma Á La nói: "Những tượng Phật này hả? Chậc, những tượng Phật này hả? Những bức tượng này đều xuất hiện dưới dạng tướng mạo bản tôn, chắc là thuộc về một chi bên lề của Mật tông Tây Tạng. Nói đến Mật tông Tây Tạng, chỉ e sẽ dài đấy, nhất thời ta cũng không biết nên nói từ đâu nữa."
Đường Mẫn nghĩ ngợi một thoáng rồi đáp: "Vậy đại sư đừng nói chuyện này vội, nói chuyện huyết trì đi, tại sao không đổ máu vào mà cửa cũng mở ra được vậy? Có phải mấy ngày trước đã có người sử dụng huyết trì, nên nó vẫn giữ được trạng thái đó không?"
Lạt ma Á La lắc đầu: "À, huyết trì cũng có nhiều loại khác nhau, trường hợp này không thể gọi là huyết trì, nó là bạch trì."
Đường Mẫn nhắc lại: "Bạch trì?"
Lạt ma Á La nói: "Ừm, bạch trì không cần máu, chỉ cần dùng nước sạch bình thường là có thể tác động mở cửa được rồi. Sau đó đúng như cháu nói đấy, chỉ cần lượng nước đầy đủ thì có thể dùng mấy ngày liền."
Đường Mẫn chỉ vào một cánh cửa mé, nói: "Nhưng mà, những cái chúng ta thấy bên trong các căn phòng kia, không phải là giống hệt như huyết trì hay sao ạ?"
Lạt ma Á La mỉm cười đáp: "Đó chỉ là hình thức mô phỏng thôi. Dựa vào ý đồ của cánh cửa đá này mà suy đoán, bên dưới có lẽ là hệ thống nước thải ngầm, cơ quan mà mấy người Cường Ba thiếu gia nhắc tới, ta nghĩ có lẽ là đao cắt."
"Đây hình như là một hệ thống thoát nước ngầm." Trác Mộc Cường Ba cũng đưa ra một kết luận tương tự. Gã nói: "Đường hầm ở đây rộng rãi chằng chịt như mạng nhện, bốn vách lại trơn nhẵn thế này, dùng để xử lý nước thải rất hợp, chắc chắn không phải mê cung đâu."
Nhạc Dương nói: "Tôi cũng thấy không giống mê cung lắm. Chỗ này một là không có cơ quan, hai là không có trang trí gì cả."
Trác Mộc Cường Ba càng thêm chắc chắn hơn về suy luận của mình, gật đầu nói: "Ừm, khi mưa lớn nước dâng lên, có lẽ hòn đảo này sẽ bị nhấn chìm, đợi khi nước rút đi, sẽ nhờ vào hệ thống thoát bớt nước. Trí tuệ của cổ nhân đúng là vô cùng vô tận."
Trương Lập nói: "Vậy những lối thông này thông đi đâu chứ?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Ra bên ngoài đảo, hoặc là… đáy hồ."
Nhạc Dương đề nghị: "Chúng ta lại trở về chỗ ban đầu xem, được không? Ủa, chỗ đánh dấu đâu rồi? Sao chẳng thấy đâu nữa nhỉ?"
Trác Mộc Cường Ba xem thử, quả nhiên chỗ này nối liền với một đường hầm hướng thẳng lên trên, nhưng thông đạo hình như lại hơi khác với đường bọn họ đi xuống. Trác Mộc Cường Ba nói: "Không phải lối chúng ta đi xuống, đây là lối thông từ chỗ khác xuống, các cậu xem, đây là một đường dốc thẳng, không có rẽ ngoặt. Ừm? Bên trên có ánh sáng kìa, chác là cửa mở đấy, chúng ta lên trên xem sao nhỉ!"
Trương Lập băn khoăn: "Trơn thế này thì làm sao mà lên?"
Trác Mộc Cường Ba giẫm giẫm chân nói: "Leo lên chứ còn sao." Lúc này lòng tin của gã đối với giày hấp lực đã khôi phục phần nào. Vừa nãy trọng lực ba người còn chịu nổi, huống hồ giờ chỉ có một người.
Nhạc Dương gật đầu: "Ồ, bình thường ít khi dùng tới, không ngờ đã quên béng mất cái công năng này rồi. Leo lên trên xem một chút cũng được."
Trương Lập cảnh giác nói: "Cẩn thận lại có lưỡi đao bật ra như vừa nãy đấy."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi tính toán rồi, loại lưỡi đao đó dài không quá ba mươi centimet, vừa nãy là trượt xuống, giờ nếu chúng ta đi thẳng lên, không giẫm vào khe ở giữa thì lưỡi đao đó không gây nguy hại gì đâu."
Ba người cẩn trọng dè dặt leo lên đường hầm trơn tuồn tuột, phía trước có ánh lửa thấp thoáng, chỉ chốc lát đã ở trong một động đá. Chỗ này và đại sảnh ban nãy hoàn toàn khác biệt, dường như chỉ là một hang đá được đục đẽo thô sơ, không có bất cứ trang trí gì, bốn bức tường và trần vẫn còn lởm chởm, chính giữa có một pho tượng đá, miệng hang ba người leo lên ở ngay sau lưng tượng. Trương Lập và Nhạc Dương vòng qua phía trước tượng Phật, rồi hét toáng lên: "Ối chà, yêu nữ lông dài!"
Trác Mộc Cường Ba đi tới phía trước tượng đá, cũng phải thầm ngạc nhiên. Bức tượng đá này không hiểu là chưa hoàn thành hay là cố ý tạc như vậy, chỉ thấy toàn thân trần truồng, mang đặc điểm của nữ giới, song lại có lông dài phủ khắp người, mặt mũi bị lông che kín, đến trước ngực tượng cũng có lông dài, bảo là một con tinh tinh lớn thì không phải, ngược lại có lẽ giống với một cái rễ cây hình người hơn. Trác Mộc Cường Ba lờ mờ nhớ lại câu chuyện về Mao yêu nữ vương mà cha gã từng kể cho nghe hồi nhỏ, nhưng trước giờ gã cũng chưa bao giờ trông thấy bức tượng nào tương tự như thế này, không rõ đây có phải là Mao yêu nữ vương hay không nữa. Trên bàn tế trước mặt bức tượng Phật là một tượng xác người, dưới chân có ba ác quỷ, bên cạnh có một ác quỷ nữa, đều giơ tay, chân, thân thể của xác chết lên há miệng định cắn, còn tay phải tượng đá giơ trái tim người lên quá miệng như muốn ăn, tay trái cầm một thứ giống như hòn đá cuội đặt vào lồng ngực người nằm trên bàn.
Ba người đi một vòng quanh hang đá, không tìm thấy cơ quan gì, cũng không thấy lối đi nào khác, cảm thấy hết sức kỳ quái. Tại sao lại là một cái động đá hoàn toàn bít kín, chỉ thông với lối thoát nước ngầm chứ? Song tìm kiếm khắp cả hang, cuối cùng cũng không thu hoạch được gì, ba người đành chuẩn bị theo đường cũ trở lại. Đến cửa đường hầm, Trác Mộc Cường Ba bỗng dừng phắt lại, nói: "Bên trong có người."
Đa Cát Điệt Bất
Trương Lập vừa mới nhìn qua tượng hung Phật, tim đã đập thình thịch không thôi, Trác Mộc Cường Ba lại còn đột nhiên buông ra một câu bên trong có người, lập tức làm anh chàng giật thót cả mình, vội hỏi: "Cái gì? Ở đâu có người cơ?"
Trác Mộc Cường Ba ra hiệu cho mọi người không lên tiếng, nghiêng tai lắng nghe, chỉ thấy bên trong hang đá kín mít trống huếch hoác này quả nhiên có những âm thanh kỳ dị vang lên, tự như tiếng gì gõ đập, đều đặn mà có tiết tấu, chậm nhanh mạnh nhẹ liên tục thay đổi, hơi xa xăm và yếu ớt, không chú ý lắng nghe thì hoàn toàn không thể phát hiện ra được, có vẻ như phát ra từ một góc hang đá, nhưng lại không thể phân biệt được chính xác ở đâu, cứ như cả bốn vách hang đều đang phát ra tiếng động. Trác Mộc Cường Ba lạnh giọng thì thầm: "m thanh vừa nãy tôi nghe thấy không phải thế này, hình như là có người đang kêu cứu, mà còn bằng tiếng Tạng cổ nữa."
Trương Lập và Nhạc Dương làm bộ khoa trương ôm lấy nhau, đồng thanh thốt lên: "Cường Ba thiếu gia, anh đừng có mà dọa chúng tôi đấy, chẳng lẽ ở đây có mà?"
Trác Mộc Cường Ba vung tay lên, nói: "Tìm lại xem, nói không chừng ở đâu đó có cơ quan đã bị chúng ta sơ ý bỏ qua. Cái hang này không thể nào không có lối ra vào được."
"Đao cắt là gì ạ?" Đường Mẫn vẫn chưa hiểu.
Lạt ma Á La giải thích: "Hòn đảo này nằm ở giữa hồ, nếu nước hồ dâng lên nhấn chìm, toàn bộ kiến trúc ngầm dưới lòng đất sẽ bị ngâm trong nước, vì vậy ở tầng dưới này mới có một loại Bạch trì hễ gặp nước là mở ra. Nhưng nếu nước xối ra cuốn theo những vật thể lớn, chẳng hạn như màn che, phướn trong đại điện, bàn thờ và một số tạp vật khác, làm tắc lối thoát nước thì sao? Lúc đó, lối thông hình loa kèn và đao cắt bên trong liền phát huy tác dụng, cắt những vật thể lớn thành miếng nhỏ, khơi thông hệ thống thoát nước thải ngầm. Các lưỡi đao thình lình bật ra như có lò xo, sau một khoảng thời gian lại đột nhiên rụt về, rồi bật ra, liên tục băm cắt."
Đường Mẫn ngạc nhiên thốt lên: "Thật là khéo léo, không thể nào tin nổi."
Lạt ma Á La điềm đạm nói: "Đây chính là trí tuệ tích lũy từ thực tiễn lao động và đời sống của cổ nhân đó."
Ba người lại nói chuyện phím một lúc, lạt ma Á La kể một số chuyện liên quan tới các thần Phật của Mật giáo, rồi nói: "À, không hiểu mấy người Cường Ba thiếu gia giờ ra sao rồi, thử liên lạc với họ xem."
Giáo sư Phương Tân lại liên lạc với nhóm của Trác Mộc Cường Ba. Ba người bọn họ lúc này đang bới tung hang đá kín kia lên để tìm cơ quan hay đường ngầm chỉ vì Trác Mộc Cường Ba cho rằng bên trong có người. Trác Mộc Cường Ba tả lại bức tượng yêu nữ lông dài mà bọn gã thấy ở đây cho giáo sư Phương Tân nghe. Lạt ma Á La lại thêm một phen chấn động trong lòng, thầm nhủ: "Đà Chi Ni Độ Hóa Thần Mẫu, trời ơi, ở đây rốt cuộc còn bao nhiêu bí mật nữa? Không ngờ chúng ta lại hoàn toàn không hay biết gì về sự tồn tại của Thánh đàn nơi đây, đúng là không thể tưởng tượng nổi, đúng là không thể tưởng tượng nổi!"
Nghĩ đoạn, ông liền nói: "Xuống đó đi, ở đây còn rất nhiều thứ chúng ta chưa hề hay biết."
Đường Mẫn lộ vẻ do dự: "Nhưng mà, đao cắt trong lối thông này không phải rất nguy hiểm hay sao?"
Lạt ma Á La mỉm cười: "Cứ đi theo ta, không có vấn đề gì đâu."
Giáo sư Phương Tân cũng muốn xuống thăm dò từ đầu, liền vui vẻ đồng ý. Vậy là ba người liền cùng nhau trượt xuống hệ thống nước thải bên dưới.
Trác Mộc Cường Ba và hai người Trương Lập, Nhạc Dương lại tìm kiếm khắp hang đá thêm một lượt nữa, song vẫn không phát hiện ra cơ quan hay đường ngầm nào, mồ hôi đầm đìa ướt đẫm người. m thanh yếu ớt kia thật giống như đang có người kêu lên: "Cứu mạng!" hơn nữa còn là tiếng Tạng cổ. Nhạc Dương lại còn nghe ra được, đó là tiếng của một người đàn ông, sắc mặt lập tức tái dại đi. Hang đá vốn trống hoác trống hơ, âm thanh vang lên quá bất ngờ. Ánh mắt ba người dần tập trung cả vào bức tượng Phật cao năm mét ở giữa. Có phải bức tượng này vừa hét lên? Hay là người đàn ông nằm trên bàn kia? Hay là bốn con quỷ? Trương Lập, Nhạc Dương càng thêm nghi hoặc, không hiểu có phải đã đụng phải yêu tinh ngàn năm gì đó rồi hay không? Không thì tại sao lại nói tiếng Tạng cổ cơ chứ?"
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên vỗ đùi đánh đét một tiếng: "Ôi cha, chúng ta ngu thật!" Trương Lập, Nhạc Dương lại giật thót mình, nhảy ngược về phía sau một bước.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Tượng đá! Là tượng đá chứ còn gì nữa! Chúng ta tìm cơ quan khắp nơi, mà sao lại bỏ qua cái ở lù lù trước mắt thế này!" Gã bước lên cái bệ tròn hình áng mây, đến bên dưới chỗ ngồi của nữ Phật lông dài, chỉ vào khe hở nhỏ nói: "Bức tượng đá này chắc chắn là có thể di động, đây này, vừa rõ ràng lại vừa đơn giản, vậy mà chúng ta đều không nghĩ tới."
Ba người liền hợp sức lại đẩy tượng Phật ra, không ngờ nó nhẹ hơn hẳn so với họ tưởng, xem ra bên trong chưa chắc đã đặc ruột. Quả nhiên, bên dưới bệ ngồi của bức tượng lộ ra một vách ngăn vuông vắn mỗi bề khoảng một mét, mở vách ngăn ra, bên dưới hóa ra là một hồ nước, đầy nước trong vắt, ở giữa có một thứ trông như cái bệ đá nhô cao lên khỏi mặt nước, nhưng bên trên không có người. Trương Lập thò đầu quan sát, dưới nước cũng thấy có bóng người nào đâu, anh chàng đang nghi thần nghi quỷ, đột nhiên từ trong làn nước nhô lên một cái đầu tóc tai bù xù, mặt mày bợt bạt, Trương Lập lập tức giật nảy người ngã ngửa ra đằng sau. Cái đầu đó vung vẩy mạnh, bọt nước bắn tung tóe, một gương mặt vuông vắn, mắt to mày rậm, mũi vuông môi dày xuất hiện trước mặt mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, phun ra một búng nước, nhanh nhẹn leo lên bờ, nói: "Coi như được cứu rồi."
Vừa nghe anh ta cất tiếng, cả ba liền tức khắc hiểu ra ngay, đây là người ở thôn Công Bố, tiếng cứu mạng ban nãy phát âm giống như tiếng Tạng cổ, nhưng câu sau lại là thứ ngữ âm kỳ quái nằm ở giữa tiếng Tạng cổ và tiếng Tạng hiện đại thời kỳ đầu. Người này nhỏ bé lạ thường, chiều cao chưa được mét rưỡi, tứ chi nhỏ, da ngăm đen, còn cái đầu lại to tướng ra, đứng trước mặt Trác Mộc Cường Ba, trông cứ như một đứa nhỏ châu Phi suy dinh dưỡng vậy, chắc tại ngâm nước quá lâu, nên thân thể ánh lên một thứ sắc trắng không tự nhiên của thịt nữa. Người này mặc áo Phổ Lỗ, đi ủng ống cao, hông buộc dây lưng Phổ Lỗ, giắt một con dao đi rừng, cổ tay đeo chuỗi hạt Bồ đề, trước ngực có một chuỗi Phật châu bằng mã não, chính giữa là một viên mã não hình thoi có hoa văn đen trắng. Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn đã nhận ra ngay là Thất Nhãn Thạch.
Người kia vung vẩy lắc nước trên đầu văng ra, tự giới thiệu bằng giọng kiêu ngạo và tự hào: "Tôi là Đa Cát, cảm ơn các vị đã cứu mạng."
"Đa Cát? Anh là Đa Cát Điệt Bất?" Trác Mộc Cường Ba hỏi như vậy, làm Nhạc Dương và Trương Lập đều giật mình ngạc nhi
Chư Phật Mật giáo
Trác Mộc Cường Ba bước hụt một bước, thân thể mất thăng bằng, ngã xuống hố sâu. Ánh sang lóe lên, gã đã trông thấy trông thấy lưỡi đao sáng lấp lánh trong hố. Trong khoảng khắc sinh tử ấy, Trác Mộc Cường Ba bỗng nhiên vươn cả hai tay ra, hai chân đạp mạnh, cả người kẹt lại giữa hai bức tường đá, thân thể lúc này gần như song song với mặt đất, đầu mũi chỉ còn kém chút xíu là chạm phải lưỡi đao. Thì ra, hai phiến đá lát nền thứ ba và thứ tư vốn chỉ là một phiến đá hình chữ nhật hài hai mét rộng một mét, đục lỗ ở giữa, xuyên gậy sắt qua là thành một cái cửa xoay đơn giản, bất kể là giẫm lên phiến đá thứ ba hay thứ tư, cả phiến đá cũng đều lập tức xoay chuyển. Loại cơ quan này, trong cơ quan học gọi là "hoạt bản", vừa đơn giản lại dễ thực hiện, đặc biệt là những nơi nền sàn được lát bằng những phiến đá quy chuẩn mà sắp đặt một vài cơ quan như vậy, bên dưới lại đào hố sâu hai mét, bố trí cọc nhọn hoặc lưỡi đao, thì tỷ lệ sát nhân thành công sẽ cực lớn.
Hai tay hai chân Trác Mộc Cường Ba chống vào hai bên bức tường, chầm chậm leo lên trên, đồng thời dịch chuyển lên phía trên đao trận, tránh khỏi hai lưỡi đao xoáy đầu tiên, sau đó mới từ từ nhích xuống dưới, rồi dùng ba lô ném sang đầu bên kia lối đi, sau khi xác định an toàn, gã mới áp người sát đất trượt qua.
Đường Mẫn đã quan sát từ đầu đến cuối toàn bộ quá trình này, vậy nên lúc cô đi qua thì nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
"Lạ thật!" Đường Mẫn nghi hoặc nói, "Những cơ quan này mặc dù có tổ hợp hoàn chỉnh, nhưng kẻ đến trước chúng ta có thuốc nổ, hoàn toàn có thể phá hủy được chúng, tại sao hắn lại quay trở ra nhỉ?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Những bộ xương ngoài kia rải rác khắp đại sảnh, nhưng không có bộ xương nào chết bên cạnh lối đi, cũng có nghĩa là bọn họ còn chưa tiếp xúc với lối đi này thì đã rút lui rồi. Có lẽ là đã chạm phải cơ quan nào khác, một loại cơ quan không thể giải quyết bằng thuốc nổ, chẳng hạn như khí độc, sương độc gì đó. Xem ra chỗ này đích thực là chưa bị phá hoại, phải báo cho những người khác mới được."
Trác Mộc Cường Ba ấn nút chiếc đồng hồ nguyên tử đeo trên tay, bắt đầu gọi những người khác trong nhóm. Trong vòng ba phút, đại khái đã nói rõ vị trí của mình, để những thành viên chưa có phát hiện gì đặc biệt nhanh chóng tới đây.
Trác Mộc Cường Ba giơ cổ tay lên nói: "Vậy nhé, chúng tôi đã qua trước rồi. Mọi người nhớ cẩn thận, lối đi hẹp này là một tổ hợp cơ quan, mặc dù cơ quan tổng đã bị phá hoại, song các cơ quan phân tổ thì vẫn vận hành. Phiến đá đầu tiên là đinh độc bắn vào chính diện, phiến đá thứ hai khởi động đao trận, phiến đá thứ ba và thứ tư là cửa lật, bên dưới sắp đặt cọc nhọn, từ phiến thứ năm đến phiến thứ mười lăm là đao xoáy, mọi người phải cẩn thận."
Giáo sư Phương Tân nhắn qua máy liên lạc: "Chúng tôi biết rồi, đến ngay đây, hai người cũng nhớ cẩn thận đấy."
Đi qua lối hẹp ấy, cảnh tượng trước mắt liền mở rộng sáng bừng. Tận cùng của lối đi tựa như một bàn đạp nhô ra khỏi vách đá dựng đứng, đưa hai người bọn Trác Mộc Cường Ba vào vị trí trung tâm của một gian đại sảnh màu vàng. Đứng trên bàn đạp lơ lửng giữa không trung, cách trên, dưới, trái, phải mỗi phía chừng hai chục mét, bốn vách là những bó đuốc như những chẻ cây, chiếu sáng rực rỡ cả gian đại sảnh. Trác Mộc Cường Ba nhận ra những bó đuốc phun lửa lớn bằng ngón tay cái, dài khoảng ba mươi centimet, chính là những ống ankyl lỏng. Mỗi ống như vậy, cho dù ở môi trường không có dưỡng khí cũng vẫn cháy được một trăm giờ đồng hồ, hơn nữa còn vừa nhỏ vừa nhẹ, một người mang theo một trăm ống cũng không vấn đề gì. Loại ống ankyl lỏng này các nhà thám hiểm hiện đại chuyên dùng để chiếu sáng và đánh dấu đường, xem ra chắc là nhóm người của Ben để lại.
Đối diện với bọn họ, là một pho tượng ngồi của Nộ Mục Kim Cương, có sáu cánh tay, treo lơ lửng giữa không trung bằng tám sợi dây sắt to cỡ cánh tay người thả từ trần nhà xuống. Pho tượng này cao khoảng ba mét, toàn thân đen thui, dường như là đúc bằng thép ròng, sáu cánh tay đều cầm pháp khí, mắt trợn lên giận dữ, răng nhe ra ngoài, tướng mạo hung tợn, thoạt nhìn trông như Kim Cương của Phật giáo, nhưng lại có chút không giống với những pho Kim Cương mà Trác Mộc Cường Ba thường ngày vẫn thấy. Nét mặt như cười mà chẳng phải cười ấy, kết hợp với ánh mắt phẫn nộ kia, toát lên mấy phần kỳ dị, mấy phần tà ác, Trác Mộc Cường Ba chỉ có thể tạm gọi đó là tượng Kim Cương chứ cũng không dám chắc. Chỗ rốn của Kim Cương có lỗ thủng, trên đỉnh đầu có mối buộc, xem ra đinh độc bắn ra lúc giẫm lên phiến đá đầu tiên là bắn ra từ cái lỗ này. Lối thông này dính sát vào tượng Kim Cương, xem ra cổ nhân đã đặc biệt thiết kế như vậy để tiện cho việc lau chùi tượng Phật và lắp ráp các cơ quan.
Đường Mẫn nhìn độ cao hai chục mét, băn khoăn hỏi: "Cao như vậy, chúng ta xuống bằng cách nào bây giờ?"
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn quanh, đích xác là không có đường nào đi xuống, nhưng các ống ankyl lỏng cắm trên bốn vách tường đã chứng tỏ đám người của Ben đã xuống bên dưới rồi. Gã cẩn thận quan sát một lần nữa, phát hiện ra trên đùi tượng Kim Cương còn một mẩu thừng nhỏ, bèn nói: "Bọn chúng buộc dây thừng vào đùi Kim Cương leo xuống, nào, lấy dây thừng an toàn ra đây, chúng ta cùng xuống từ chỗ này thôi."
Trác Mộc Cường Ba buộc chắc dây thừng, rồi bảo Đường Mẫn: "Anh xuống trước, tới nơi sẽ gọi em, không được làm bừa đâu đấy." Đường Mẫn khẽ gật đầu.
Trác Mộc Cường Ba quấn một vòng dây vào cổ tay trái, rồi lại quấn một vòng vào hông, tay phải kéo đầu kia sợi dây, tung mình nhảy lên, tính thuận theo sợi dây mà trượt xuống. Nào ngờ vừa mới nhảy lên, gã đã nghe thấy tiếng hô kinh hãi của Đường Mẫn. Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy thân thể rơi xuống, căn bản không hề có cảm giác bị lực tác động nào, kế đó nghe thấy tiếng "rầm rầm rầm" vang lên. Cũng may Trác Mộc Cường Ba lâm nguy bất loạn, không hề do dự, đã dứt khoát cởi ngay sợi dây thừng ra, hai tay dang rộng, mở chiếc áo cánh dơi ra, sau khi giữ được thăng bằng liền vung tay, bắn dây thép, "kích" một tiếng, đầu dây đã xuyên vào vách đá, Trác Mộc Cường Ba cũng lập tức đu người qua. Vừa mới áp sát bức tường, đã nghe thấy "uỳnh" một tiếng, ngoảnh đầu nhìn lại, cả pho tượng Kim Cương đã như một quả chùy sắt khổng lồ dận mạnh vào vị trí vỗ gã định leo xuống. Kế đó, một tràng những tiếng "cạch cạch cạch" vang lên, cơ quan vận hành lại kéo pho tượng nặng mấy tấn trở về vị trí ban đầu. Trác Mộc Cường Ba nhìn mà toát hết mồ hôi lạnh. Không ngờ đó cũng là cơ quan, sợi thừng đứt còn sót lại ấy hóa ra là vật để dụ người ta mắc bẫy. Đường Mẫn ở bên trên lớn tiếng gọi vọng xuống: "Không sao chứ? Anh Cường Ba?"
Trác Mộc Cường Ba đưa tay rờ mó, bốn vách tường đều trơn tuột, muốn bò từ đây xuống là không thể. Gã liền hét lên trả lời: "Không sao, giờ em nèm cho anh một sợi thừng khác, rồi em xuống theo hướng kia, Mẫn Mẫn, em có nghe thấy không?" Kế đó, gã lại khởi động máy liên lạc trên đồng hồ, nói cho giáo sư Phương Tân và mấy người khác chuyện pho tượng Phật bằng sắt. Cả mấy người kia đều dặn dò Trác Mộc Cường Ba phải hết sức cẩn thận.
Đường Mẫn buộc một đầu dây thừng vào một vật thể tương đối nặng có hình dạng như cây đèn pin rồi nèm cho Trác Mộc Cường Ba vươn tay bắt lấy, sau đó quấn sợi dây quanh người hai vòng, vẫy tay nói: "Được rồi." Đường Mẫn liền tung mình nhảy từ phía bên kia chỗ con đường nhô ra, trượt xuống bên dưới, sau đó lại kéo căng sợi dây. Trác Mộc Cường Ba khi ấy mới thu sợi thép lại, đu người xuống mặt đất. Hai người nhìn cái hố khổng lồ trước mũi chân, và những đốm đỏ lấm chấm bên trong, không hiểu pho tượng Phật sắt rốt cuộc đã giết chết bao nhiêu kẻ lỡ bước đến chốn này rồi nữa.
Trác Mộc Cường Ba thu dây thừng lại, trong lòng vẫn còn chưa hết kinh hãi: "Đi thôi, xem xem dưới đây còn có đường nào nữa không?"
Đứng bên dưới nhìn lên đỉnh, cả gian đại sảnh màu vàng kim này trông huếch trống hoác, bốn vách tường cũng không có những bức tranh cầu kỳ đẹp đẽ, chỉ có pho tượng Phật sắt hung ác kia treo lơ lửng giữa không trung. Từ góc này nhìn lên, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn mới phát hiện, thì ra tượng Phật sắt này có ba đầu sáu tay, bất kể là nhìn từ hướng nào, trông cũng như thể hung thần ác sát đang nhìn chòng chọc vào người ta, hình dáng sáu cánh tay thì mười phần quái dị, cho dù chuyển sang hướng nào chăng nữa, người xem cũng có cảm giác như sáu cánh tay cầm vũ khí kia đang hướng vào phía mình vậy.
Đường Mẫn không nén nổi buột miệng hỏi: "Đây là Phật gì vậy? Nhìn đáng sợ quá đi mất."
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Anh cũng không biết, pho tượng này không hề giống tượng phật nào mà anh từng thấy trước đây cả."
Gian đại sảnh này có bốn cửa lớn ở bốn phía trước sau trái phải. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba lấy la bàn ra kiểm tra, thấy ở bốn hướng Đông Tây Nam Bắc lại có bốn cửa ngách tương đối nhỏ. Giữa đại sảnh có một miệng hố hình tròn, đường kính khoảng ba mét, bên trên bịt kín bằng những phiến đá hình dạng như cánh hoa, nhìn khác hẳn với những phiến đá lát sàn khác ở xung quanh, ở chính giữa đều có một thứ vật chất màu đỏ, chạm vào thấy mềm mềm. Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người ra, cửa hầm này giống hệt như cánh cửa đá ở địa cung Ah Puch - cánh cửa phải dùng đến huyết trì mới mở ra được! Nhưng vật chất màu đỏ này không phải dạng sợi như lạt ma Á La đã hình dung, mà giống hệ như tổ chức mô cơ vẫn còn đang sống. Trác Mộc Cường Ba dịch chuyển dần ánh mắt khỏi cửa hầm, chỉ thấy bốn đường rãnh thông thẳng đến bốn cửa ngách, khéo léo đan xem nào những khe hở giữa các phiến đá lát sàn, khiến người ta khó mà phát hiện ra được. Trác Mộc Cường Ba gõ gõ tay lên phiến đá, tiếng động trầm đục, xem ra là rất dày và nặng, nhất thời không thể tìm được cách mở cửa hầm. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn liền đi vòng vòng xung quanh một lượt.
Đường Mẫn nói: "Gian đại sảnh này thật kỳ lạ, tại sao không hướng đúng theo bốn phía Đông Tây Nam Bắc mà lại kẹt giữa bốn phương vị này làm gì chứ."
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên sực nhớ ra cha gã từng nói rằng Tứ Phương miếu "không phải ở bốn phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc mà ở chỗ ngoặt nét của chữ Vạn luân hồi". Gã lại nghĩ đến thân phận Thánh sứ của mình, không khỏi ngấm ngầm hoài nghi: "Có lẽ nào, nơi này thật sự có liên quan rất lớn tới mình và gia tộc của mình hay sao? Nhưng xưa nay có nghe cha mình nhắc tới bao giờ đâu, đây rốt cuộc là chuyện gì vậy?" Trác Mộc Cường Ba âm thầm quyết định, sau khi hành động này kết thúc, nhất định phải trở về tìm gặp cha gã hỏi cho rõ ngọn ngành.
Nghĩ vậy, gã không trả lời ngay câu hỏi của Đường Mẫn, mà dẫn cô tới trước cánh cửa ngách ở hướng chính Bắc, chỉ thấy một dải bậc thang đá lớn trải dài xuống dưới, ánh sáng vàng vọt của các ống lửa cắm bên vách tường tựa hồ như đang chiêu dẫn vong hồn trở về chốn hoàng tuyền. Trác Mộc Cường Ba nói: "Xuống dưới xem sao đi."
Cuối cầu thang là một gian phòng nhỏ, rộng chừng năm sáu chục mét vuông, chính giữa là một bệ đá hình vuông, bốn phía có các giá cũng bằng đá. Trên nền đá và giá treo bằng đá đều không tránh nổi lưu lại những vết nâu sậm, khiến hai người vừa bước vào phòng đã cảm thấy một trận gió âm thổi tới, tựa hồ có vô số oan hồn chưa tan vẫn đang đảo lượn giữa không trung. Xung quanh bệ đá còn sắp đặt vài món đồ bày biện đã mục nát, có lẽ là các thứ pháp khí, bàn thờ, lò lửa ngày xưa vẫn dùng để tế bái cầu khẩn, có điều tất cả giờ đã không còn hình dạng ban đầu nữa rồi. Hai người đi xung quanh một vòng, không có phát hiện gì đặc biệt, nghĩ rằng mấy gian phòng sau những cánh cửa mé còn lại cũng đều như vậy cả, Trác Mộc Cường Ba quyết định vào thử cửa chính xem thế nào.
Cửa chính cao lớn hơn cửa mé bên rất nhiều, bậc thang rộng rãi, hai người bước xuống cầu thang, liền tới một gian đại sảnh khác. Chính giữa sảnh là bệ tam cấp dùng để cúng tế, bên trên là một tượng Phật đá tạo hình nữ giới, cao năm mét, chân trái quấn quanh chân phải, sau lưng dựa vào một cái bệ trông như vỏ sò. Phật có ba mắt, khóe miệng cười gằn, từ ngực tới bụng có sáu bầu vú, hai tay vòng trước ngực ôm một đứa trẻ sơ sinh, đầu đã đứt lìa, chỉ còn lại một cánh tay. Tượng Phật đang há rộng cái miệng to như chậu máu, răng nhuộm đỏ rực, phảng phất như máu vẫn cô đặc trên đó, từng giọt từng giọt nhểu xuống. Tà dị hơn nữa là, trong miệng tượng Phật có một cánh tay trẻ sơ sinh trắng muốt như tuyết thò ra, tựa hồ như vẫn còn muốn nắm lấy thứ gì đó. Đường Mẫn chỉ nhìn lướt qua đã vội ngoảnh mặt sang hướng khác, không dám nhìn tiếp. Đây cũng là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba thấy thứ gì tà ác như vậy. Phía trước tượng Phật có một chiếc đỉnh bằng kim loại, rõ ràng là để đốt hương cúng tế, bốn phía xung quanh còn có các cột gỗ, chắc là dùng để treo phướn rủ màn che, giờ màn phướn đều đã hóa thành tro bụi, chỉ còn lại những chiếc cột gỗ này mà thôi.
Đường Mẫn nói: "Đi thôi, ở đây không còn thứ gì nữa rồi, em nhìn thấy khó chịu lắm."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Đợi chút đã Mẫn Mẫn, em xem kìa, vết chân dưới đất tán loạn, còn nữa, lớp bụi đất ở hai bên tượng Phật rất dày, e là chỗ giữa kia có bí mật gì đó. Để anh lại xem thế nào đã." Trác Mộc Cường Ba lấy hết can đảm, dấn từng bước lại gần tượng Phật nữ, càng lại gần càng cảm thấy lạnh lẽo rùng mình. Cái miệng há rộng như chậu máu kia, tựa hồ như sẵn sàng cúi xuống cắn xé người ta, ba con mắt xếp trên trán thành hình cánh quạt, đều toát lên vẻ đói khát, thèm muốn giành giật lấy thức ăn.
Trác Mộc Cường Ba điều chỉnh lại hơi thở, cuối cùng nhích lại dưới chân pho tượng Phật, chỉ thấy bức tượng đá khổng lồ từ trên cao nhòm xuống, ba con mắt trợn trừng không rời, ánh mắt nửa mừng vui lại mang theo nỗi thèm khát ấy được người xưa điêu khắc hết sức có hồn. Trác Mộc Cường Ba càng nhìn lại càng thấy kinh hãi trong lòng. Gương mặt cười cười nhe hàm răng nhỏ máu ấy, thật khiến người ta phải rởn hết cả gai ốc. Trác Mộc Cường Ba thu ánh mắt lại, nhìn thẳng về phía trước, liền phát hiện ra, chân phải cong xuống của tượng Phật có khắc một thứ như giáp bảo vệ đầu gối, vừa hay hình thành nên một cái bậc, bề mặt bằng phẳng, có lẽ để cho người ta leo lên. Gã nghĩ ngợi trong thoáng chốc, rồi cận thận leo lên chỗ khớp gối tượng Phật. Đường Mẫn ở bên dưới run giọng nói: "Anh Cường Ba, anh làm gì thế?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Đừng lo, anh lên trên xem sao thôi." Từ hướng này nhìn ra, chỉ thấy đứa trẻ đứt đầu kia, dường như là một bức tượng rỗng, bên trong hẳn là phải có thứ gì đó. Trác Mộc Cường Ba men theo đùi tượng Phật một bước, vừa hay lại giẫm lên điểm đặt chân tiếp theo, tự nhủ thầm trong bụng: "Trong lòng không có ma quỷ thì sẽ không sợ gì hết," kế đó liền táo gan thọc tay vào trong cổ bức tượng trẻ sơ sinh lần mò.
Trong bụng bức tượng dường như có một tay nắm. Trác Mộc Cường Ba quan sát kỹ lưỡng xung quanh, sau khi xác thực đây không phải là cơ quan phát động công kích, mới kéo tay nắm đó một cái. Chỉ nghe "rầm" một tiếng, Trác Mộc Cường Ba vội tung người nhảy xuống khỏi tượng Phật, lộn nhào trên không một vòng, rồi bình ổn hạ xuống. Giờ mới nhìn rõ tượng Phật đã tách ra làm đôi, trong bụng là một cái đài sen có rắn quấn quanh. Đường Mẫn giơ hai tay lên bụm miệng, suýt chút nữa thì kêu rú lên.
Trác Mộc Cường Ba lại bước lên bệ thờ, quan sát đài sen: "Quả nhiên!" Chỉ thấy chính giữa đài sen lộ ra một lỗ nhỏ, bên trong chắc là từng có thứ gì đó cắm vào, nhìn dấu vết trên lỗ nhỏ ấy, thứ đó chắc là có một mẩu hình thoi nhô lên, ngoài ra còn có tay nắm, Trác Mộc Cường Ba nhét sợi dây thừng vào lỗ dò thử, thấy bên trong dài chừng ba mươi centimet. Trác Mộc Cường Ba kiểm tra xong xuôi, bước xuống bậc thang, đúng lúc bước xuống bậc thang cuối cùng, tượng Phật liền như cái bẫy chuột, chập đánh "rầm" một cái vào nhau, tiếng vang rất lớn, bụi đá rơi xuống lả tả như mưa. Đường Mẫn lại run bắn mình lên một chặp, mặt hoa thất sắc. Trác Mộc Cường Ba bước tới ôm lấy cô, cảm nhận được đôi vai cô đang rung lên nhè nhẹ như một chú thỏ nhỏ đang run sợ, liền thì thầm an ủi: "Đi thôi, chúng ta tới những gian sảnh khác xem sao."
Bên trái là một quái thú ba mắt, trên vai mọc sáu cánh tay, bụng to như trống, đầu người mình rắn, có điều con mắt thứ ba của nó lại tròn vành vạnh chứu không phải hình thoi dựng lên như tượng Phật nữ. Bên phải là một đôi đầu voi mình người đang hợp thể giao hoan, có đực có cái, nhưng ở đây, tượng giống cái đang ngồi to hơn rõ rệt, tượng giống đực ngược lại tương đối nhỏ, tựa như một đứa trẻ bổ vào lòng bức tượng giống cái, không thấy mặt mũi thế nào, chỉ lộ ra cặp ngà dài và cái vòi voi. Gian đại sảnh sau cánh cửa lớn cuối cùng là một bức tượng nữ Phật có bốn cánh tay, cũng có ba mắt, tướng mạo hung ác, cơ thể đen đúa, ngực đeo vòng xâu chuỗi đầu lâu, eo hông đeo tay người làm vật trang trí; hai cánh tay bên trái chia ra cầm búa và câu liêm, tay phải thì cầm đồ đựng bằng đầu lâu người và một trái tim đang nhỏ máu ròng ròng. Những bước tượng hung Phật này tạo hình hết sức đặc thù, nét mặt đáng sợ, không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại chẳng nhận ra được pho tượng nào.
Các bức tượng trong bốn gian sảnh đều có cơ quan, Trác Mộc Cường Ba đã lần lượt mở ra, bên trong đều trống không. Đường Mẫn hỏi: "Nếu chưa có ai tới chỗ này, vậy tại sao ngoài tượng Phật ra thì chẳng còn thứ gì nữa vậy?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Làm sao anh biết được chứ? Có lẽ đã bị người nào đó tinh thông cơ quan học lấy đi mất rồi, hoặc là đã có biến cố gì đó, nên toàn bộ đồ đạc đã được chuyển đi, hoặc cũng có thể… ở đây căn bản không có pháp khí hay tế vật gì, để những kẻ tìm kiếm báu vật bỏ qua những gian phòng này hòng bảo vệ bí mật cuối cùng giấu bên trong tượng Phật."
Cùng lúc ấy, Trương Lập và Nhạc Dương đã tới căn phòng chất đầy vại sành vại sứ. Trương Lập nhìn lối đi nhỏ hẹp nói: "Ở đây rồi."
Nhạc Dương mắt tinh, vừa liếc cái đã thấy cục bầy nhầy giống thịt nằm dưới đất, nói: "Xem kìa, cái gì thế?"
Trương Lập lắc đầu: "Không biết nữa."
Nhạc Dương chặc lưỡi: "Đây có lẽ nào là thái tuế trong truyền thuyết không nhỉ?"
Trương Lập liền hỏi: "Thái tuế là cái gì?"
Nhạc Dương đáp: "Một thứ nghe đồn là ăn vào sẽ kéo dài tuổi thọ, cường thân kiện thể. Thoạt nhìn giống thịt, nhưng thực ra là một loại nấm, ngoài ra, khi cắt một phần đi, nó sẽ tự mọc lại được, chỉ cần ngâm trong nước là sẽ giữ được không bị thối rữa. Hồi ở Thanh Hải tôi có nghe người ta kể về thứ này rồi." Nói đoạn, anh chàng liền nhấc cái vại Trác Mộc Cường Ba đã mở ra lên, lắc lắc mấy cái rồi bảo Trương Lập, "Anh xem đi, trong này cũng ngâm đây này."
Trương Lập ghé mắt vào nhìn kỹ hơn, "Không phải đấy chứ, chỉ là một cục thịt trắng to bằng con chó con mới đẻ thôi mà, trong vại cũng đang ngâm một cục như thế." Nhạc Dương nói: "Chẳng lẽ ở đây lại có nhiều thái tuế thế cơ à?"
Trương Lập trầm trồ: "Chà, ăn vào có thể trường sinh bất lão, vậy thì chúng ta phát to rồi!"
Nhạc Dương thò tay vào trong vại vớt cục thịt trăng trắng ấy lên, gí sát miệng Trương Lập nói: "Anh nếm thử xem mùi vị thế nào?"
Trương Lập vội vàng lắc đầu quầy quậy, cái thứ này nghe thì có vẻ rất hay, nhưng khi đặt ở trước mặt, chỉ nhìn thôi cũng thấy buồn nôn lắm rồi, hơn nữa lại còn có một thứ mùi hết sức quái đản, ngửi còn chẳng muốn ngửi nói gì đến ăn. Nhạc Dương cười hì hì chế giễu: "Đúng là chẳng biết gì hết, đồ tốt thế mà lại." Nhưng lúc anh chàng đưa lên miệng, bị khí vị quái dị ấy xộc vào mũi thì cũng không sao há miệng ra nổi. Trương Lập lo lắng hỏi: "Được không đấy, cái thứ này có lẽ đã ngâm cả ngàn năm rồi đó, cho dù có là đồ tốt thật thì cũng bị ngâm rữa ra rồi, chúng ta mau mau qua kiếm Cường Ba thiếu gia thì hơn."
Trác Mộc Cường Ba vừa bước xuống khỏi bệ thờ, bức tượng Phật bốn tay liền khôi phục lại hình dáng ban đầu, chỉ nghe bên ngoài đại sảnh có tiếng "cạch cạch" khe khẽ. Trác Mộc Cường Ba chợt nghĩ: "Chẳng lẽ cánh cửa trong dưới đất đã mở ra rồi? Đi, đi xem sao." Nghĩ đoạn, gã liền dắt tay Đường Mẫn nhanh nhanh chạy vù về gian đại sảnh sắc vàng. Đường Mẫn lẩm bẩm nói: "Không phải là huyết trì à, sao lại dễ mở ra như thế nhỉ?"
Quả nhiên, các phiến đá giống như cánh hoa trong đại sảnh đã xoay cả về phía gần tường đá, để lộ ra một cửa hầm trơn nhẵn hình tròn, đường hầm hình xoáy tròn xuống dưới, bên trong trơn như gương, rất giống một cái vỏ ốc biển khổng lồ. Đường Mẫn lo lắng nói: "Bên trong này trơn như thế, xuống rồi là không lên được đâu." Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi lấy dụng cụ ra, đóng đinh sắt vào mặt đá, rồi lại dùng ba cái chốt an toàn chặn mấy cánh hoa lại, thắt dây an toàn vào đinh sắt, cài móc thả xuống đường hầm. Xong xuôi đâu đó, gã nói với Đường Mẫn: "Để anh xuống trước, em ở trên này đừng để cửa đóng lại đấy."
Trác Mộc Cường Ba đội mũ phát sáng lên, một tay bám dây thừng, ngồi trong rãnh trượt xuống, giống hệt như trẻ con ngồi cầu trượt vậy, vừa trượt gã vừa không khỏi nghĩ thầm trong bụng: "Sao trơn vậy, rốt cuộc là đã dùng công nghệ gì nhỉ?" Gã rờ tay lên vách, thấy lạnh buốt xương, gõ gõ lên, thì thấy không phải tiếng trầm đục của đá, Trác Mộc Cường Ba liền điều chỉnh cho mũ sáng hẳn lên, liền thấy vách tường đen sì sì như làm từ thép ròng, thầm nhủ: "Chẳng lẽ tường bên trong lối đi này toàn bộ đều ghép từ vật liệu kim loại chắc? Bọn họ dùng cách gì mà giữ được kim loại cả ngàn năm cũng không gỉ sét nhỉ?"
Đang suy nghĩ, dưới chân gã hình như đạp rơi thứ gì đó, thân thể hơi chùng lại, đoạn liền nghe thấy tiếng "cục cục cục" bên dưới vọng lên. Trác Mộc Cường Ba không kịp nhìn cho kỹ, nhưng đã càng thêm cẩn trọng, bám chặt dây thừng chầm chậm trượt xuống, quả nhiên không ngoài suy đoán của gã, cách đó chưa đầy ba mét, ở phía trước bỗng nhiên nhô ra một lưỡi đao sắc, mũi đao hướng thẳng về phía Trác Mộc Cường Ba, nếu gã mà không bám vào dây an toàn, nói không chừng lưỡi đao ấy đã xẻ người gã ra làm hai mảnh rồi. Trác Mộc Cường Ba còn chưa kịp thở phào nhẹ nhõm, đã nghe "soạt soạt soạt" mấy tiếng nữa vang lên, trong đường hầm trơn tuột ấy lại xẹt ra mấy lưỡi đao nữa. Những lưỡi đao này rõ là vô cùng sắc bén, sợi thừng chắc đến mức có thể treo cả con voi lên, bị lưỡi đao cọ vào hai ba lượt đã không chịu nổi trọng lượng của Trác Mộc Cường Ba, "bưng" một tiếng rồi đứt lìa. Trác Mộc Cường Ba chỉ kịp hét vọng lên phía cửa đường hầm một tiếng: "Không được xuống đây," thân thể đã trượt vù xuống dưới.
Đường hầm
Trương Lập và Nhạc Dương ung dung đi qua lối đi hẹp. Nhạc Dương không khỏi dương dương đắc ý nói: "Vượt qua mấy cái cơ quan này dễ quá đi."
Trương Lập liền châm chọc: "Không có Cường Ba thiếu gia nhắc nhở, cậu qua được dễ dàng thế không hả? Phải rồi, bây giờ đi tiếp sao đây? Mấy người đám Cường Ba thiếu gia đâu rồi nhỉ?"
Đi thêm mấy bước nữa, Nhạc Dương nhìn pho tượng Phật sáu tay, kinh ngạc thốt lên: "Oa, đây là Phật gì thế, nhìn cứ như hung thần ác sát ấy."
Trương Lập nói: "Dạ xoa phải không? Hay chẳng lẽ là tượng Diêm vương?"
Hai anh chàng đi tới phía trước tượng Phật sắt, liền nhìn thấy gian đại sảnh màu vàng và Đường Mẫn ở bên dưới.
Trương Lập vẫy chào, rồi cùng Nhạc Dương mỗi người giữ một đầu dây, gá lên phần nhô ra của lối đi, cùng lúc trượt xuống. Hai người chạy tới bên cạnh Đường Mẫn, trông thấy cửa hầm hình tròn dưới đất, Trương Lập bèn hỏi: "Sao cô không xuống đó luôn?"
Đường Mẫn đáp: "Anh Cường Ba vừa mới xuống. Anh ấy nói để thăm dò xem có nguy hiểm gì không…" Cô vừa nói tới đây, chợt nghe trong đường hầm vọng tới giọng Trác Mộc Cường Ba: "Không được xuống đây!" kế đó sợi dây thừng buộc vào đinh sắt bên trên giật nảy lên. Cả ba người đang đứng trong đại sảnh đều ý thức được một điều, dây thừng đã đứt!
Đường Mẫn cuống hết cả lên, thò đầu quan sát rồi định trượt xuống đường hầm, nhưng đã bị Trương Lập kéo lại. Nhạc Dương nói: "Mấy công chuyện nặng nhọc này để đàn ông chúng tôi làm cho." Nói xong liền cầm sợi thừng lên thắt bốn cái nút liền nhau, rồi bám dây xuống luôn đường hầm. Trương Lập cũng nói: "Yên tâm, công chúa, chúng tôi nhất định trả lại cho cô một Cường Ba thiếu gia hoàn chỉnh nguyên vẹn." Dứt lời cũng trượt xuống theo luôn.
Trác Mộc Cường Ba gào lên cảnh báo, đồng thời hay tay vươn ra, ấn vào hai núm xoay ở cạnh đế giày. Đôi giày leo núi đặc chế liền tự động bơm khí xuống đế, hình thành nên những giác hút và các sợi lông cong lớn nhỏ khác nhau, Trác Mộc Cường Ba lợi dụng chút lực hút này mà áp chặt người vào vách đường hầm trơn tuột, từ từ giảm tốc độ, cuối cùng cũng coi như dừng lại được. Một thanh đao sắc lẻm kê ngay dưới nách gã, lưỡi đao gần như đã cắt rách lớp áo bên ngoài. Trác Mộc Cường Ba cẩn thận vòng tay qua tránh lưỡi đao, rồi dùng sức phần hông, từ từ trườn xuống dưới, trông hệt như một con sâu đang uốn éo bò đi.
Lại vòng thêm ba vòng nữa, phía trước hình như đã xuất hiện mặt đất bằng phẳng, nhưng ở ngay chính diện lại xuất hiện một thanh đao dựng đứng. Từ góc độ của Trác Mộc Cường Ba, thoạt nhìn nó như một sợi tơ bạc, phía sau sợi tơ đột nhiên phình to ra như quản bút. Gã thầm nhủ, xung quanh chắc chắn phải có chốt lẫy nào để đóng cái cơ quan bật lưỡi đao này mới phải, vừa nãy trượt từ trên xuống dưới, những lưỡi đao này đều dựng đứng ở ngay phía dưới lối thông, nếu thả cho trượt tự do xuống thì người sẽ áp sát vào một bên vách do quan tính, thành ra lại không hề nguy hiểm, chỉ có điều khi trượt tới đoạn dốc cuối cùng này, chắc chắn sẽ bị lưỡi đao sắc phía trước xẻ ra làm đôi.
Khi sắp lại gần lưỡi đao, Trác Mộc Cường Ba liền phát hiện ra ở mé bên đường hầm hình tròn này có một kết cấu mộng ghép nhô ra, lẽ nào đây chính là chốt để đóng mở cơ quan?
Đang suy nghĩ, đột nhiên nghe "kịch" một tiếng, lưỡi đao kia bỗng rụt trở lại, kế đó nghe "phăng" một tiếng nữa, lưỡi đao lại bật trở ra. Trác Mộc Cường Ba còn chưa hiểu ra chuyện gì, đã nghe bên trên có người hét lớn: "Cường Ba thiếu gia, anh ở đâu? Tôi xuống đây!" Tiếng Nhạc Dương từ xa thành gần, đến thật là nhanh!
Trác Mộc Cường Ba thầm than không xong, hai chân ấn chặt vào đường hầm. Chỉ thấy hai vai trầm xuống, cả hai người cùng lúc bị một xung lực mạnh mẽ kéo trượt xuống. Lưỡi đao kia cách tầm mắt Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng gần, càng lúc càng gần. Trác Mộc Cường Ba định thay đổi phương hướng, nhưng muốn trụ vững được thân hình ở chỗ này một mình đã không phải chuyện dễ rồi, làm sao gã được như ý. Thành ra hai người cùng lúc cứ thế trượt thẳng về phía lưỡi đao sắc bén.
Cuối cùng coi như nhờ đôi giày leo núi đặc chế chất lượng cao, không ngờ cũng giữ ổn được thân hình của cả hai người. Song lưỡi đao kia đã kề vào giữa hai đùi Trác Mộc Cường Ba, cọ xát vào đũng quần. Gã lần này đúng là được một phen toát mồ hôi lạnh, không ngờ còn chưa kịp định thần, bên trên đã có tiếng vọng xuống: "Tôi cũng đến rồi đấy!"
Trác Mộc Cường Ba cả kinh thất sắc. May là trong lúc loạn cũng không mất đi sự bình tĩnh, vào khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc đó gã đã vươn tay phải ra ấn xuống kết cấu hình mộng kia, còn kế đó thế nào thì đành nghe theo mệnh trời thôi vậy. Trác Mộc Cường Ba vừa mới làm xong, trọng lượng trên vai đột nhiên tăng lên gấp mấy lần, ba người như một đoàn xe lửa, trượt ngồi xuống tận cùng của đường hầm.
"Khốn kiếp! Rõ ràng đã nghe thấy tôi bảo đừng có xuống, thế tức là chắc chắn có cơ quan rồi, vậy mà vẫn còn mạo hiểm như vậy nữa!" Trác Mộc Cường Ba có tốt tính đến mấy cũng không thể nhịn nổi, lớn tiếng trách móc các thành viên trong nhóm.
Nhạc Dương trừng mắt lên nhìn Trương Lập, giọng đầy trách móc: "Đều tại cậu cả, suýt chút nữa là làm Cường Ba thiếu gia tuyệt đường con cháu rồi." Hai người áp vào vách tường trượt xuống, thành ra không chạm phải lưỡi đao nào hết.
Trương Lập vội biện bạch: "Sao lại trách tôi, rõ ràng là cậu xuống trước cơ mà, cậu không đạp phải cái cơ quan ấy, những lưỡi đao đó liệu có bật ra làm đứt dây thừng hay không chứ?"
Trác Mộc Cường Ba ôm đầy một bụng tức, có điều cũng không muốn lằng nhằn mãi với hai anh chàng lắm điều này, liền lấy thiết bị ra liên lạc với Đường Mẫn, báo cho cô biết tạm thời họ chưa gặp nguy hiểm gì, nhưng trong thông đạo có cơ quan, tốt nhất là đừng có xuống vội, cứ ở trên đó đợi mấy người nhóm lạt ma Á La tới đã. Kế đó, gã lại liên lạc với giáo sư Phương Tân, từ vị trí của giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La, rõ ràng là đã sắp tới gian đại sảnh màu vàng kim kia rồi. Chỉ có Lữ Cánh Nam và Ba Tang là đã phát hiện ra một lối đi lạ, giờ đang thăm dò. Hơn nữa lối đi mà họ phát hiện ra đó, hình như cả nhóm người của Ben cũng chưa phát hiện ra, bên trong vẫn còn giữ được nguyên vẹn trạng thái mấy trăm năm không hề có người lai vãng.
Thông đạo bí mật mà Lữ Cánh Nam và Ba Tang đi nghe nói còn nguy hiểm kỳ bí gấp bội, nói chuyện qua thiết bị liên lạc nhất thời cũng khó có thể nói rõ ràng được, Lữ Cánh Nam chỉ dặn dò bọn Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng điều tra rõ lối đi bọn gã phát hiện, sau đó xem xem có thể liên hệ và giúp đỡ gì nhau không.
Trác Mộc Cường Ba ấn nút trên đồng hồ, chấm dứt cuộc tranh luận từ nãy vẫn chưa hề ngừng lại của Trương Lập và Nhạc Dương, đoạn nói: "Tôi còn chưa nói cái gì, hai cậu tranh cãi gì mà tranh cãi? Bây giờ chúng ta hãy kiểm tra rõ tình hình dưới này trước, rồi sau đó tìm cách leo lên trên kia."
Con đường này nối liền với ống trượt hình xoáy ốc mà mấy người vừa trượt xuống, độ võng dưới mặt đất tương đối nhỏ, cao hơn hai mét một chút, Trác Mộc Cường Ba chỉ cần vươn tay lên là đã chạm tới đỉnh vòm rồi, chiều rộng đâu chừng hai ba mét, đi bên trong cảm tưởng như đang bước trong một đường hầm thời không cổ kính vậy. Gã cảm thấy con đường này hơi giống lối đi hình ống xương ở địa cung Ah Puch, nơi ra ra vào vào của bọn chuột khổng lồ, không khỏi thầm nhủ: "Ở đây chắc không có cái thứ ấy chứ nhỉ."
Đi được chừng mười bước, phía trước liền xuất hiện lối rẽ, ba người đứng lại nhìn quanh ngó quất, chỉ thấy cả hai lối đều có phân nhánh. Trương Lập không ghìm nổi buột miệng thốt lên: "Không phải chứ, mê cung hả?" Nhạc Dương "Ô" lên một tiếng. Trong ngành cơ quan học, hai vị nhân huynh này sợ nhất chính là môn mê cung, cái gì mà mê cung vòng, mê cung vuông, mê cung pháp trận, mê cung lập thể… dù là loại mê cung gì cũng khiến cả hai đầu váng mắt hoa. Thế nhưng cổ nhân lại cứ xếp mê cung vào loại dễ xây dựng mà hiệu quả lại cao nhất trong cơ quan thuật. Các loại mê cung, chẳng hạn như Kỳ môn độn giáp, Bát trận đồ, Mê hồn trận… đều từng nổi tiếng hiển hách một thời, lập công lớn trên chiến trường và còn nhiều nơi khác. Trong cơ quan học, riêng kiến thức về mê cung lập nên hẳn một ngành chuyên biệt. Những gì bọn Trác Mộc Cường Ba đã học và nắm bắt, có thể nói đều là những kiến thức đơn giản và tinh yếu nhất về mê cung.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Không giống, làm gì có mê cung nào cứ đi bốn năm bước đã thấy rẽ nhánh rồi, hơn nữa tường ở đây đều trơn nhẵn thế này, chẳng giống như có bố trí cơ quan lớn gì cả."
Nhạc Dương lẩm bẩm: "Cũng cần gì cơ quan cỡ lớn chứ, chỉ như cái vừa nãy…" Trương Lập vội nhéo mạnh lên lưng anh chàng một cái, ý bảo Nhạc Dương đừng có nhắc chuyện vừa nãy làm gì nữa.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Chúng ta đi thêm mấy bước nữa xem thế nào, dù sao cũng còn hơn đứng mãi ở đây."
Không có máy tính của giáo sư Phương Tân, đi trong đường hầm phân nhánh chằng chịt thế này đúng là tương đối khó khăn. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đánh dấu điểm đang đứng lại, sau đó bắt đầu đi về phía trước. Trong mê cung mà không có bản đồ, thì nên tuân theo nguyên tắc dựa phía trái. Đây là một nguyên tắc rất cơ bản, chính là đi thế nào cũng được, nhưng bao giờ cũng phải bám sát vào bức tường bên trái, như vậy thì từ đầu chí cuối vẫn luôn tiến lên phía trước. Nếu như mê cung có dạng thức một vòng tuần hoàn, thì họ đã đánh dấu ở điểm khởi đầu, khi nào quay lại đây sẽ phát hiện ra được ngay.
Lúc này, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đã tới gian phòng chất đầy vại sành sứ và xương người chết, cũng nhìn thấy cả lối đi chật hẹp kia. Giáo sư Phương Tân nói: "Đến nơi rồi," đoạn liền cởi ba lô xuống chuẩn bị đi qua. Lạt ma Á La liền ngăn lại: "Đợi đã, để tôi xem mấy cái vại này một chút."
Giống như Nhạc Dương lúc nãy, lạt ma Á La nhấc chiếc vại lên, nhìn cục thịt và chất lỏng bên trong, ánh mắt hấp háy bất định. Giáo sư Phương Tân thấy thế liền hỏi: "Bên trong có gì thế?"
Lạt ma Á La như người bừng tỉnh cơn mộng, giật mình đáp: "À, gì hả? Ồ, không biết nữa, đúng là kỳ quái thật, nhiều vại như vậy, bên trong này rốt cuộc là ngầm thứ gì đây nhỉ? Chụp ảnh lại đã, rồi chúng ta nhanh qua xem bọn Cường Ba thiếu gia thế nào." Miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng ông lại thầm kinh hãi: "Trời đất, lẽ nào đây lại chính là Thánh đàn năm đó?"
Từ sau khi máy tính của giáo sư Phương Tân ghi lại được rất nhiều thông tin trong địa cung Ah Puch, lãnh đạo của tổ huấn luyện đặc biệt tỏ ra rất hứng thú với phương thức ghi hình này. Sau khi được nhóm nghiên cứu cải tiến, máy quay của giáo sư Phương Tân đã đổi thành loại ống kính có độ phân giải cao, gắn trực tiếp vào mắt kính của ông, chỉ cần kéo sợi dây truyền số liệu trong ba lô ra gắn vào là có thể dùng được luôn, lại có chức năng quay chụp dưới nước, còn máy tính xách tay được giữ trong ba lô, giải phóng cho đôi tay tự do hoạt động.
Mới được khoảng ba phút mà mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đã đi qua vô số đường rẽ nhánh, nếu phải gượng ép đi theo trí nhớ, lúc này họ khẳng định là đã lạc đường. Đột nhiên, chiếc đồng hồ trên cổ tay Nhạc Dương sáng đỏ lên, báo có tín hiệu liên lạc. Thì ra giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đã tới nơi, sau khi nghe Đường Mẫn kể lại mọi chuyện liền liên lạc với ba người bên dưới. Nhạc Dương trả lời rằng trước mắt coi như vẫn an toàn, cả bọn đang ở trong mê cung, bên dưới này ngoài đường hầm ra thì chẳng phát hiện được gì khác nữa, nếu tìm thấy gì sẽ liên lạc với bên trên sau. Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La dặn dò ba người cẩn thận, bọn họ cũng phải ở trên này quan sát mấy tượng Phật kia một chút.
Đường Mẫn dẫn đường cho hai ông già tham quan hết cả mấy gian sảnh sau bốn cánh cửa chính và bốn cánh cửa ngách, cũng xem cả những cơ quan bên trong, rồi giáo sư Phương Tân sắp xếp lại các tư liệu trong máy tính, cùng Đường Mẫn thảo luận những gì hai người trông thấy trong đống hoang tàn đổ nát. Lạt ma Á La thì nhìn chằm chằm vào pho tượng Phật đen treo lơ lửng giữa không trung, tâm trạng nặng nề mà phức tạp, nhủ thầm trong bụng: "Đại Hộ Pháp thần Ma Kha Ca La, Trì Thiên Hộ Pháp thần Kha Lợi Đế Mẫu, Địa Linh tôn Na Ca, Đại thánh Tỳ Na Dạ Ca, Địa Mẫu thần Ca Lợi… thần Phật cõi trời đều tụ tập cả về đây, không thể sai được, thứ chúng ta vừa trông thấy… đó là rượu tế! Chỗ này đúng là Thánh đàn rồi! Đức Ma Hê Thủ La tôn kính vạn năng, xin hãy thứ tha cho kẻ tội đồ thành kính này, chúng con đến muộn mất rồi, nhưng chúng con không bỏ cuộc, không bao giờ ngừng nỗ lực để Tự Tại Mạn Đà La trùng hiện quang minh."
Giáo sư Phương Tân nhìn màn hình máy tính rồi nói với Đường Mẫn: "Thứ giáo lý cổ xưa hoặc có lẽ đã biến mất này, bọn họ toàn sùng bái tà Phật và ác ma. Chẳng hạn pho tượng Phật sắt trên đầu chúng ta đây, nếu tôi không lầm, đó chắc là Đại Hắc Thiên (Mahakala). Đại Hắc Thiên là một trong những vị thần bảo hộ được nhiều người biết đến nhất ở Tây Tạng. Tương truyền Đại Hắc Thiên đã bị Quan m thu phục, có lúc còn được coi là hóa thân Phẫn Oán của Bồ Tát. Còn bức tượng hai con voi ôm lấy nhau đó chắc là Đại Thánh Hoan Hỉ Thiên, ngài thường xuất hiện dưới hình tượng chiến thần, còn gọi là Đại Thánh Thiên, Thánh Thiên. Hình tượng hai vợ chồng đầu voi mình người ôm nhau hợp thể này chính là bản tôn (hình tượng thật) của ngài. Nam Thiên là con trai trưởng của Đại Tự Thiên, là Đại Hoang thần tàn hại thế giới; Nữ Thiên là Quan m hóa ra, ôm chặt lấy nhau như vậy là để Nam Thiên hoan tâm, dồn nén cơn hung bạo xuống, vậy nên mới gọi là Hoan Hỉ Thiên. Còn bức tượng Phật nữ mà cháu cho là đáng sợ nhất ấy có lẽ chính là Quỷ Tử Mẫu trong truyền thuyết. Quỷ Tử Mẫu trong truyền thuyết. Quỷ Tử Mẫu còn gọi là Hoan Hỉ Mẫu, tiếng Phạn là Kha Lợi Đế Mẫu. Quỷ Tử Mẫu vồn là một vị ác thần trong Bà La Môn giáo, chuyên ăn lũ trẻ con ở chốn nhân gian, gọi là Mẫu Dạ Xoa. Sau khi được Phật pháp giáo hóa, liền trở thành thần hộ pháp chuyên trách bảo vệ trẻ con. Hai bức tượng còn lại thì tôi không nhận ra, nhưng quá nữa cũng là loại tượng Phật này. Những vị thần Phật này sau khi quy hồi Phật giáo thì đều là Đại Hộ Pháp, Đại Kim Cương, là các thần Phật chính nghĩa chuyên trách tiêu diệt tà ma ác đạo, nhưng những bức tượng được khắc tạc ở đây, rất rõ ràng đều thể hiện hình tượng trước khi quy y Phật giáo của họ, đều là đại hung thần, đại sát tinh, thần Phật bình thường đều không thể làm gì nổi họ. Những thần Phật mà giáo phái này thờ phụng chính là những vị tà Phật này đó. Tôi nghĩ, lạt ma Á La chắc biết về việc này nhiều hơn chúng tôi đúng không, Á La đại sư?"
Lạt ma Á La giật mình: "Gì hả?"
Đường Mẫn nói: "Ông kể cho chúng cháu nghe về lai lịch những tượng Phật này đi, đại sư."
Lạt ma Á La nói: "Những tượng Phật này hả? Chậc, những tượng Phật này hả? Những bức tượng này đều xuất hiện dưới dạng tướng mạo bản tôn, chắc là thuộc về một chi bên lề của Mật tông Tây Tạng. Nói đến Mật tông Tây Tạng, chỉ e sẽ dài đấy, nhất thời ta cũng không biết nên nói từ đâu nữa."
Đường Mẫn nghĩ ngợi một thoáng rồi đáp: "Vậy đại sư đừng nói chuyện này vội, nói chuyện huyết trì đi, tại sao không đổ máu vào mà cửa cũng mở ra được vậy? Có phải mấy ngày trước đã có người sử dụng huyết trì, nên nó vẫn giữ được trạng thái đó không?"
Lạt ma Á La lắc đầu: "À, huyết trì cũng có nhiều loại khác nhau, trường hợp này không thể gọi là huyết trì, nó là bạch trì."
Đường Mẫn nhắc lại: "Bạch trì?"
Lạt ma Á La nói: "Ừm, bạch trì không cần máu, chỉ cần dùng nước sạch bình thường là có thể tác động mở cửa được rồi. Sau đó đúng như cháu nói đấy, chỉ cần lượng nước đầy đủ thì có thể dùng mấy ngày liền."
Đường Mẫn chỉ vào một cánh cửa mé, nói: "Nhưng mà, những cái chúng ta thấy bên trong các căn phòng kia, không phải là giống hệt như huyết trì hay sao ạ?"
Lạt ma Á La mỉm cười đáp: "Đó chỉ là hình thức mô phỏng thôi. Dựa vào ý đồ của cánh cửa đá này mà suy đoán, bên dưới có lẽ là hệ thống nước thải ngầm, cơ quan mà mấy người Cường Ba thiếu gia nhắc tới, ta nghĩ có lẽ là đao cắt."
"Đây hình như là một hệ thống thoát nước ngầm." Trác Mộc Cường Ba cũng đưa ra một kết luận tương tự. Gã nói: "Đường hầm ở đây rộng rãi chằng chịt như mạng nhện, bốn vách lại trơn nhẵn thế này, dùng để xử lý nước thải rất hợp, chắc chắn không phải mê cung đâu."
Nhạc Dương nói: "Tôi cũng thấy không giống mê cung lắm. Chỗ này một là không có cơ quan, hai là không có trang trí gì cả."
Trác Mộc Cường Ba càng thêm chắc chắn hơn về suy luận của mình, gật đầu nói: "Ừm, khi mưa lớn nước dâng lên, có lẽ hòn đảo này sẽ bị nhấn chìm, đợi khi nước rút đi, sẽ nhờ vào hệ thống thoát bớt nước. Trí tuệ của cổ nhân đúng là vô cùng vô tận."
Trương Lập nói: "Vậy những lối thông này thông đi đâu chứ?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Ra bên ngoài đảo, hoặc là… đáy hồ."
Nhạc Dương đề nghị: "Chúng ta lại trở về chỗ ban đầu xem, được không? Ủa, chỗ đánh dấu đâu rồi? Sao chẳng thấy đâu nữa nhỉ?"
Trác Mộc Cường Ba xem thử, quả nhiên chỗ này nối liền với một đường hầm hướng thẳng lên trên, nhưng thông đạo hình như lại hơi khác với đường bọn họ đi xuống. Trác Mộc Cường Ba nói: "Không phải lối chúng ta đi xuống, đây là lối thông từ chỗ khác xuống, các cậu xem, đây là một đường dốc thẳng, không có rẽ ngoặt. Ừm? Bên trên có ánh sáng kìa, chác là cửa mở đấy, chúng ta lên trên xem sao nhỉ!"
Trương Lập băn khoăn: "Trơn thế này thì làm sao mà lên?"
Trác Mộc Cường Ba giẫm giẫm chân nói: "Leo lên chứ còn sao." Lúc này lòng tin của gã đối với giày hấp lực đã khôi phục phần nào. Vừa nãy trọng lực ba người còn chịu nổi, huống hồ giờ chỉ có một người.
Nhạc Dương gật đầu: "Ồ, bình thường ít khi dùng tới, không ngờ đã quên béng mất cái công năng này rồi. Leo lên trên xem một chút cũng được."
Trương Lập cảnh giác nói: "Cẩn thận lại có lưỡi đao bật ra như vừa nãy đấy."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi tính toán rồi, loại lưỡi đao đó dài không quá ba mươi centimet, vừa nãy là trượt xuống, giờ nếu chúng ta đi thẳng lên, không giẫm vào khe ở giữa thì lưỡi đao đó không gây nguy hại gì đâu."
Ba người cẩn trọng dè dặt leo lên đường hầm trơn tuồn tuột, phía trước có ánh lửa thấp thoáng, chỉ chốc lát đã ở trong một động đá. Chỗ này và đại sảnh ban nãy hoàn toàn khác biệt, dường như chỉ là một hang đá được đục đẽo thô sơ, không có bất cứ trang trí gì, bốn bức tường và trần vẫn còn lởm chởm, chính giữa có một pho tượng đá, miệng hang ba người leo lên ở ngay sau lưng tượng. Trương Lập và Nhạc Dương vòng qua phía trước tượng Phật, rồi hét toáng lên: "Ối chà, yêu nữ lông dài!"
Trác Mộc Cường Ba đi tới phía trước tượng đá, cũng phải thầm ngạc nhiên. Bức tượng đá này không hiểu là chưa hoàn thành hay là cố ý tạc như vậy, chỉ thấy toàn thân trần truồng, mang đặc điểm của nữ giới, song lại có lông dài phủ khắp người, mặt mũi bị lông che kín, đến trước ngực tượng cũng có lông dài, bảo là một con tinh tinh lớn thì không phải, ngược lại có lẽ giống với một cái rễ cây hình người hơn. Trác Mộc Cường Ba lờ mờ nhớ lại câu chuyện về Mao yêu nữ vương mà cha gã từng kể cho nghe hồi nhỏ, nhưng trước giờ gã cũng chưa bao giờ trông thấy bức tượng nào tương tự như thế này, không rõ đây có phải là Mao yêu nữ vương hay không nữa. Trên bàn tế trước mặt bức tượng Phật là một tượng xác người, dưới chân có ba ác quỷ, bên cạnh có một ác quỷ nữa, đều giơ tay, chân, thân thể của xác chết lên há miệng định cắn, còn tay phải tượng đá giơ trái tim người lên quá miệng như muốn ăn, tay trái cầm một thứ giống như hòn đá cuội đặt vào lồng ngực người nằm trên bàn.
Ba người đi một vòng quanh hang đá, không tìm thấy cơ quan gì, cũng không thấy lối đi nào khác, cảm thấy hết sức kỳ quái. Tại sao lại là một cái động đá hoàn toàn bít kín, chỉ thông với lối thoát nước ngầm chứ? Song tìm kiếm khắp cả hang, cuối cùng cũng không thu hoạch được gì, ba người đành chuẩn bị theo đường cũ trở lại. Đến cửa đường hầm, Trác Mộc Cường Ba bỗng dừng phắt lại, nói: "Bên trong có người."
Đa Cát Điệt Bất
Trương Lập vừa mới nhìn qua tượng hung Phật, tim đã đập thình thịch không thôi, Trác Mộc Cường Ba lại còn đột nhiên buông ra một câu bên trong có người, lập tức làm anh chàng giật thót cả mình, vội hỏi: "Cái gì? Ở đâu có người cơ?"
Trác Mộc Cường Ba ra hiệu cho mọi người không lên tiếng, nghiêng tai lắng nghe, chỉ thấy bên trong hang đá kín mít trống huếch hoác này quả nhiên có những âm thanh kỳ dị vang lên, tự như tiếng gì gõ đập, đều đặn mà có tiết tấu, chậm nhanh mạnh nhẹ liên tục thay đổi, hơi xa xăm và yếu ớt, không chú ý lắng nghe thì hoàn toàn không thể phát hiện ra được, có vẻ như phát ra từ một góc hang đá, nhưng lại không thể phân biệt được chính xác ở đâu, cứ như cả bốn vách hang đều đang phát ra tiếng động. Trác Mộc Cường Ba lạnh giọng thì thầm: "m thanh vừa nãy tôi nghe thấy không phải thế này, hình như là có người đang kêu cứu, mà còn bằng tiếng Tạng cổ nữa."
Trương Lập và Nhạc Dương làm bộ khoa trương ôm lấy nhau, đồng thanh thốt lên: "Cường Ba thiếu gia, anh đừng có mà dọa chúng tôi đấy, chẳng lẽ ở đây có mà?"
Trác Mộc Cường Ba vung tay lên, nói: "Tìm lại xem, nói không chừng ở đâu đó có cơ quan đã bị chúng ta sơ ý bỏ qua. Cái hang này không thể nào không có lối ra vào được."
"Đao cắt là gì ạ?" Đường Mẫn vẫn chưa hiểu.
Lạt ma Á La giải thích: "Hòn đảo này nằm ở giữa hồ, nếu nước hồ dâng lên nhấn chìm, toàn bộ kiến trúc ngầm dưới lòng đất sẽ bị ngâm trong nước, vì vậy ở tầng dưới này mới có một loại Bạch trì hễ gặp nước là mở ra. Nhưng nếu nước xối ra cuốn theo những vật thể lớn, chẳng hạn như màn che, phướn trong đại điện, bàn thờ và một số tạp vật khác, làm tắc lối thoát nước thì sao? Lúc đó, lối thông hình loa kèn và đao cắt bên trong liền phát huy tác dụng, cắt những vật thể lớn thành miếng nhỏ, khơi thông hệ thống thoát nước thải ngầm. Các lưỡi đao thình lình bật ra như có lò xo, sau một khoảng thời gian lại đột nhiên rụt về, rồi bật ra, liên tục băm cắt."
Đường Mẫn ngạc nhiên thốt lên: "Thật là khéo léo, không thể nào tin nổi."
Lạt ma Á La điềm đạm nói: "Đây chính là trí tuệ tích lũy từ thực tiễn lao động và đời sống của cổ nhân đó."
Ba người lại nói chuyện phím một lúc, lạt ma Á La kể một số chuyện liên quan tới các thần Phật của Mật giáo, rồi nói: "À, không hiểu mấy người Cường Ba thiếu gia giờ ra sao rồi, thử liên lạc với họ xem."
Giáo sư Phương Tân lại liên lạc với nhóm của Trác Mộc Cường Ba. Ba người bọn họ lúc này đang bới tung hang đá kín kia lên để tìm cơ quan hay đường ngầm chỉ vì Trác Mộc Cường Ba cho rằng bên trong có người. Trác Mộc Cường Ba tả lại bức tượng yêu nữ lông dài mà bọn gã thấy ở đây cho giáo sư Phương Tân nghe. Lạt ma Á La lại thêm một phen chấn động trong lòng, thầm nhủ: "Đà Chi Ni Độ Hóa Thần Mẫu, trời ơi, ở đây rốt cuộc còn bao nhiêu bí mật nữa? Không ngờ chúng ta lại hoàn toàn không hay biết gì về sự tồn tại của Thánh đàn nơi đây, đúng là không thể tưởng tượng nổi, đúng là không thể tưởng tượng nổi!"
Nghĩ đoạn, ông liền nói: "Xuống đó đi, ở đây còn rất nhiều thứ chúng ta chưa hề hay biết."
Đường Mẫn lộ vẻ do dự: "Nhưng mà, đao cắt trong lối thông này không phải rất nguy hiểm hay sao?"
Lạt ma Á La mỉm cười: "Cứ đi theo ta, không có vấn đề gì đâu."
Giáo sư Phương Tân cũng muốn xuống thăm dò từ đầu, liền vui vẻ đồng ý. Vậy là ba người liền cùng nhau trượt xuống hệ thống nước thải bên dưới.
Trác Mộc Cường Ba và hai người Trương Lập, Nhạc Dương lại tìm kiếm khắp hang đá thêm một lượt nữa, song vẫn không phát hiện ra cơ quan hay đường ngầm nào, mồ hôi đầm đìa ướt đẫm người. m thanh yếu ớt kia thật giống như đang có người kêu lên: "Cứu mạng!" hơn nữa còn là tiếng Tạng cổ. Nhạc Dương lại còn nghe ra được, đó là tiếng của một người đàn ông, sắc mặt lập tức tái dại đi. Hang đá vốn trống hoác trống hơ, âm thanh vang lên quá bất ngờ. Ánh mắt ba người dần tập trung cả vào bức tượng Phật cao năm mét ở giữa. Có phải bức tượng này vừa hét lên? Hay là người đàn ông nằm trên bàn kia? Hay là bốn con quỷ? Trương Lập, Nhạc Dương càng thêm nghi hoặc, không hiểu có phải đã đụng phải yêu tinh ngàn năm gì đó rồi hay không? Không thì tại sao lại nói tiếng Tạng cổ cơ chứ?"
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên vỗ đùi đánh đét một tiếng: "Ôi cha, chúng ta ngu thật!" Trương Lập, Nhạc Dương lại giật thót mình, nhảy ngược về phía sau một bước.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Tượng đá! Là tượng đá chứ còn gì nữa! Chúng ta tìm cơ quan khắp nơi, mà sao lại bỏ qua cái ở lù lù trước mắt thế này!" Gã bước lên cái bệ tròn hình áng mây, đến bên dưới chỗ ngồi của nữ Phật lông dài, chỉ vào khe hở nhỏ nói: "Bức tượng đá này chắc chắn là có thể di động, đây này, vừa rõ ràng lại vừa đơn giản, vậy mà chúng ta đều không nghĩ tới."
Ba người liền hợp sức lại đẩy tượng Phật ra, không ngờ nó nhẹ hơn hẳn so với họ tưởng, xem ra bên trong chưa chắc đã đặc ruột. Quả nhiên, bên dưới bệ ngồi của bức tượng lộ ra một vách ngăn vuông vắn mỗi bề khoảng một mét, mở vách ngăn ra, bên dưới hóa ra là một hồ nước, đầy nước trong vắt, ở giữa có một thứ trông như cái bệ đá nhô cao lên khỏi mặt nước, nhưng bên trên không có người. Trương Lập thò đầu quan sát, dưới nước cũng thấy có bóng người nào đâu, anh chàng đang nghi thần nghi quỷ, đột nhiên từ trong làn nước nhô lên một cái đầu tóc tai bù xù, mặt mày bợt bạt, Trương Lập lập tức giật nảy người ngã ngửa ra đằng sau. Cái đầu đó vung vẩy mạnh, bọt nước bắn tung tóe, một gương mặt vuông vắn, mắt to mày rậm, mũi vuông môi dày xuất hiện trước mặt mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, phun ra một búng nước, nhanh nhẹn leo lên bờ, nói: "Coi như được cứu rồi."
Vừa nghe anh ta cất tiếng, cả ba liền tức khắc hiểu ra ngay, đây là người ở thôn Công Bố, tiếng cứu mạng ban nãy phát âm giống như tiếng Tạng cổ, nhưng câu sau lại là thứ ngữ âm kỳ quái nằm ở giữa tiếng Tạng cổ và tiếng Tạng hiện đại thời kỳ đầu. Người này nhỏ bé lạ thường, chiều cao chưa được mét rưỡi, tứ chi nhỏ, da ngăm đen, còn cái đầu lại to tướng ra, đứng trước mặt Trác Mộc Cường Ba, trông cứ như một đứa nhỏ châu Phi suy dinh dưỡng vậy, chắc tại ngâm nước quá lâu, nên thân thể ánh lên một thứ sắc trắng không tự nhiên của thịt nữa. Người này mặc áo Phổ Lỗ, đi ủng ống cao, hông buộc dây lưng Phổ Lỗ, giắt một con dao đi rừng, cổ tay đeo chuỗi hạt Bồ đề, trước ngực có một chuỗi Phật châu bằng mã não, chính giữa là một viên mã não hình thoi có hoa văn đen trắng. Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn đã nhận ra ngay là Thất Nhãn Thạch.
Người kia vung vẩy lắc nước trên đầu văng ra, tự giới thiệu bằng giọng kiêu ngạo và tự hào: "Tôi là Đa Cát, cảm ơn các vị đã cứu mạng."
"Đa Cát? Anh là Đa Cát Điệt Bất?" Trác Mộc Cường Ba hỏi như vậy, làm Nhạc Dương và Trương Lập đều giật mình ngạc nhi
Tác giả :
Hà Mã