Mật Mã Tây Tạng
Chương 28: Tây tạng - mặc thoát: vùng đất bí mật cuối cùng

Mật Mã Tây Tạng

Chương 28: Tây tạng - mặc thoát: vùng đất bí mật cuối cùng

Ở dải đất sâu trong trung tâm, nguy hiểm nhất đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, chính là đoạn sông dài gần trăm cây số từ Bạch Mã Cẩu Hùng đi xuống. Khe núi sâu thẳm u tối, nước chảy cuồn cuộn, đến giờ vẫn chưa ai có thể đi qua được. Chính vì sự khó khăn và nguy hiểm ấy, nên nơi này gọi là "vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại". Theo sự chỉ dẫn của tấm bản đồ kia, bọn Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị đến chính nơi đó thử vận may.

Bí mật lịch sử Cổ Cách

Lại thêm ba tuần nữa trôi qua, Ba Tang sau khi điều trị hồi phục và xuất viện ở Colombia đã liên lạc với Lữ Cánh Nam, chẳng mấy hôm đã thông qua bộ Ngoại giao trở về Trung Quốc. Mọi người vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Mặc dù chuyên băng rừng nguyên sinh này có thể xem như là một thất bại lớn, song dù sao các thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt cũng không ai hy sinh vì nhiệm vụ cả. Trải qua sự việc nơi rừng hoang núi thẳm lần này, quan hệ giữa Ba Tang và các thành viên khác trong nhóm của Trác Mộc Cường Ba cũng bắt đầu trở nên hòa hợp hơn. Chỉ có Trác Mộc Cường Ba là có vẻ khó xử rõ rệt. Những lời của Lữ Cánh Nam, giống như mũi dao sắc đâm thẳng vào lồng ngực gã, "Chúng tôi nghi ngờ, trong các anh có một kẻ mật báo tin tức ra ngoài." Sau khi nghe được điều này, trong lòng Trác Mộc Cường Ba đã ngấm ngầm xếp hạng mức độ tin cậy cho tất cả các thành viên trong nhóm. Bản thân gã cho rằng mình sẽ xếp Đường Mẫn đứng đầu tiên, nhưng khi xếp như thế rồi gã mới nhận ra, dù thế nào, vị trí đầu tiên vẫn nhất định thuộc về thầy giáo của gã, giáo sư Phương Tân. Mẫn Mẫn chỉ có thể xếp thứ hai. Nhạc Dương và Trương Lập đều là người trong quân đội, bản thân gã cũng hết sức tín nhiệm hai người này. Chỉ có mình anh chàng Ba Tang này là đáng nghi nhất. Một khi đã nghi ngờ người nào đó, Trác Mộc Cường Ba sẽ không thể nào rặn ra được một nụ cười giả vờ thiện chí với kẻ ấy được nữa. Khi bắt tay với Ba Tang, ánh mắt gã lộ rõ vẻ hoài nghi. Gã miễn cưỡng gượng cười nói: "Tôi biết là anh không dễ dàng hy sinh như vậy được mà."

Ba Tang cũng nói: "Không ngờ rốt cuộc các cậu cũng đi trước tôi một bước."

Theo lời kể của Ba Tang, anh ta bị cơn lũ cuốn về phía Bắc, vì đụng phải cây lớn bị thương nên mất hết tri giác, phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng trong bệnh viện hơn một tháng trời. Bệnh án và một loạt bản báo cáo về anh ta cũng được Bộ Ngoại giao chuyển hết đến tay Lữ Cánh Nam. Những Trác Mộc Cường Ba lại phát hiện ra một điều, chính là da Ba Tang đã đen sạm đi, trên người dường như còn mang theo vị mằn mặn ẩm ướt của gió biển, nhanh nhác mùi của một loại nước hoa cao cấp nào đó. Nói là nghỉ ngơi trong bệnh viện hơn 1 tháng, chi bằng bảo đi du lịch đâu đó hơn một tháng thì giống hơn. Nếu suy đoán của gã mà chính xác, vậy thì kinh phí đi du lịch của Ba Tang lấy từ đâu ra?

Nhìn hai người Trương Lập, Nhạc Dương tíu tít kể cho Ba Tang những chuyện xảy ra sau khi họ lạc nhau, Trác Mộc Cường Ba không muốn tiến đến quá gần, chỉ lặng lẽ đứng dưới một tán cây. Giáo sư Phương Tân nhận ra vẻ lo âu của gã, bèn hỏi: "Cậu nghi ngờ Ba Tang?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi không biết, nếu trong chúng ta thật sự có một người đáng nghi ngờ, thì cũng chỉ có thể là anh ta mà thôi. Song tôi cũng rất mâu thuẫn, tôi có nên vô duyên vô cớ đem lòng nghi ngờ người khác không nhỉ?"

Giáo sư Phương Tân mỉm cười khuyên giải: "Đường dài mới hay sức ngựa, ngày lâu mới thấy lòng người, hà tất phải dồn tâm trí nghi ngờ ai làm gì? Nếu thực làm chuyện trái với lương tâm, sớm muộn gì anh ta cũng phải lộ ra thôi. Hơn nữa, tại sao chỉ có chúng ta mới bị nghi ngờ, bọn họ, chẳng lẽ không có điểm nào đáng nghi hay sao?" Trác Mộc Cường Ba hiểu được, "bọn họ" mà giáo sư Phương Tân nhắc đến chính là chỉ ba người đến sau, bao gồm Lữ Cánh Nam, Ngải Lực Khắc và lạt ma Á La. Không thể hoàn toàn tin tưởng bất cứ người nào khác hay sao? Gã lắc đầu, chỉ vì thái độ đối với người khác của ai đấy mà làm cả một nhóm người thành ra nghi ngờ lẫn nhau thế này, rốt cuộc là đúng hay sai đây?

Trác Mộc Cường Ba cố gạt những ý nghĩ khiến người ta phải đau đầu ấy ra khỏi tâm trí, chuyển sang chủ đề khác: "Phải rồi, thầy giáo, có phát hiện gì mới về giai đoạn lịch sử ấy của vương triều Cổ Cách chưa?"

Theo những tư liệu điều tra được, lịch sử Cổ Cách đại khái cũng đã hiện lên khá rõ ràng. Giáo sư Phương Tân từng buông lời cảm thán thế này: "Cổ Cách đúng là một vương triếu sinh ra vì Phật giáo, rồi cũng vì Phật giáo mà diệt vong."

Cổ Cách vương là hậu duệ trực hệ của vị Tạng vương đã ra lệnh diệt Phật giáo Lãng Đạt Mã. Tạng vương Lãng Đạt Mã diệt Phật chỉ mới hai năm, đã bị La Long Bối Cát Đa Kiệt của Phật giáo giết chết. Sau sự kiện ấy, triều đình Thổ Phồn bắt đầu phân hóa. Duy Tùng là con côi do thứ phi của Lãng Đạt Mã sinh ra, được gia tộc Vĩ thị ủng hộ tôn làm Tán thổ. Còn chính phi cũng không cam chịu để mất quyền lớn trong tay. Tương truyền bà ta đã lén lút mua về một đứa trẻ sơ sinh, rồi cũng lập đứa con mua về này làm Tán thổ, gọi là Vân Đơn. Kể từ đó trở đi, vương triều Thổ Phồn xuất hiện hai vị Tán thổ cùng một lúc, chia thành hai phái đều tự nhận Tán thổ của mình lập nên mới là Tán thổ thực sự, tranh đấu không ngừng nghỉ. Chiến tranh vì thế bùng nổ và không ngừng lan rộng, nên giai đoạn này người đời sau gọi là Loạn ngũ như.

Chiến tranh kéo dài trong nhiều năm liền khiến trăm họ lầm than, khổ sở không sao tả xiết, cuối cùng đã vùng lên dưới sự lãnh đạo của các quý tộc và một số quân sĩ. Cả hai vị tán thổ, một người bỏ trốn, một người bị giết. Phụ thân của Cổ Cách vương đời thứ nhất, chính là cháu nội của vị Tán thổ Duy Tùng kia, gọi là Cát Đức Ni Mã Cổn, chạy đến vùng A Lý, thông hôn với tù trưởng địa phương, sinh được ba người con là Bối Cát Nhật Ba Cổn, Trát Tây Cổn và Đức Tổ Cổn, lần lượt chiếm cứ Mang Vực (Ladakh 1 ngày nay), Bố Nhượng (khu vực huyện Phổ Lan) và Tang Cát Nhĩ (phía Nam Ladakh. Ba người con này được xưng là "Thượng Bộ tam Cổn", "Thượng Bộ" ý chỉ vùng A Lý, vì là thổ vương của một vùng nhỏ, nên gọi là Cổn, Cổn có nghĩa là Đấng cứu thế.

Trong các pho Tạng sử chính thức mà họ tra cứu, gần như đều nói Cổ Cách vương đầu tiên là Trát Tây Cổn, nhưng trong tư liệu của Lữ Cánh Nam cung cấp lại có phần dã sử và ghi chép trong dân gian trực tiếp gọi Cát Đức Ni Mã Cổn là Cổ Cách vương đời thứ nhất, vì ông ta đã kế thừa gia nghiệp của vị tù trưởng kia, Cổ Cách cũng nằm trong lãnh địa trị vì ấy. Chỉ có điều nếu như vậy, vị quốc vương nghênh tiếp sứ giả kia phải tính từ Cát Đức Ni Mã Cổn hay tính từ Đức Tổ Cổn, trước mắt bọn họ vẫn chưa thể đưa ra được một kết luận, khoảng thời gian chênh lệch đó ước cũng phải khoảng chừng ba bốn chục năm 2.

Giáo sư Phương Tân nói: "Trước mắt chúng tôi tạm thời nghiêng về giả thiết cho rằng vị Quốc vương nghênh đón sứ giả kia là Cổ Cách vương đời thứ hai Tùng Ngang, bởi vị Quốc vương này có thể nói là đã tận tâm tận lực đối với sự nghiệp hoằng dương Tạng truyền Phật giáo. Tương truyền trong khoảng thời gian từ năm 975 đến 981 sau Công nguyên, ông ta đã phái hai mươi mốt thanh niên bao gồm cả Đại dịch sư Thiết Tang Bố sang Thiên Trúc học Phật (cũng có tài liệu nói là hai mươi bảy người). Hành trình của họ gian khổ khó khăn không bút nào tả xiết, cuối cùng chỉ có hai người sống sót trở về, nghe nói chính là Đại dịch sư và Tiểu dịch sư sau này. Hơn nữa, không lâu sau khi phái đi các thanh niên cầu Phật, vị Quốc vương này thoái vị nhường ngôi, quy y Phật pháp, về sau xây chùa Thác Lâm, đến những năm cuối đời còn gom góp tiền của đích thân đi mời A Để Hiệp đại sư, nhưng dọc đường đã bị quân đội nước khác bắt cóc, cuối cùng thì chết giữa đường. Thằng nhóc Nhạc Dương kia suy đoán, vị Cổ Cách vương này nhiệt tâm với Phật giáo như vậy, quá nửa là do nhìn thấy thần tích mà vị sứ giả kia mang tới, song có điều là, trước khi nhìn thấy Cổ Cách kim thư, tất cả cũng chỉ là suy đoán mà thôi." Nói tới đây, giáo sư Phương Tân không nén nổi mà gượng cười lắc lắc đầu, "Lịch sử của Cổ Cách, quả thực là… cậu có biết không, chỉ riêng chuyện cuối cùng vị Cổ Cách vương ấy Tây du cầu Phật bị bắt cóc, chúng tôi đã tra ra bảy phiên bản khác nhau, địa điểm, thời gian, quân đội nước ngoài, quá trình sự kiện xảy ra, số tiền chuộc đều khác nhau, thực sự là không thể nào phán đoán xem phiên bản nào mới là sự thực đã xảy ra trong lịch sử cả."

Nhìn vẻ mặt chua chát của giáo sư Phương Tân, Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, đây là một vấn đề rất lớn khác mà bọn họ gặp phải khi tra cứu lịch sử của vương triều Cổ Cách. Vương triều này tuy rằng kéo dài đến cả mấy trăm năm, song lại nằm ở miền biên viễn xa xôi. Ngoại trừ các văn bản lịch sử của bản thân nó ra, toàn bộ các tư liệu khác đều chỉ là những thông tin vụn vặt. Đến cả bộ sử thuộc về giai đoạn đầu như Tây Tạng vương thống ký cũng chỉ ghi chép có chín đời Cổ Cách vương, từ sau đó trở đi là không rõ, bọn họ cũng chưa thể đưa ra kết luận cuối cùng về thời gian trong lịch sử. Mà vương triều Cổ Cách này lại còn bị chiến tranh hủy diệt. Bản thân sự biến mất của nó có thể nói đến nay vẫn còn là một câu đó. Mãi đến thế kỷ mười chín, trước khi các nhà thám hiểm nước ngoài bắt đầu tiến vào vùng đất hoang vu không người sinh sống này, mọi người gần như đã hoàn toàn quên lãng rằng từng có một vương triều như vậy trong lịch sử.

Giáo sư Phương Tân thở dài nói: "Lịch sử Cổ Cách và nền văn minh Maya không ngờ lại giống nhau đến kinh người. Cả hai vương triều này đều đột nhiên gặp phải đại họa khi đang trong thời kỳ phát triển rực rỡ huy hoàng nhất. Chính vì biến cố bất ngờ mà tất cả đều được bảo tồn, đều được lưu giữ lại. Mấy thế kỷ sau đó, nhân loại dường như không biết đến sự tồn tại của chúng, kiến trúc và đường phố của chúng không bị hoạt động của con người phá hoại, văn tự và tôn giáo không bị sửa sang, phong cách nghệ thuật và bích họa không bị bóp méo, thậm chí hiện trường lúc gặp phải tai họa hủy diệt của chúng cũng được bảo tồn nữa kia."

Trong đầu Trác Mộc Cường Ba lúc này, tự nhiên lại nghe thấy tiếng Babatou ngâm nga bài sử ca: "Một khi để máu tanh xâm phạm đến bậc thang của thánh miếu, vô số tai họa sẽ như cơn mưa đá đáng sợ liên hồi kéo đến giáng xuống tất cả mọi nơi, tòa thành sẽ biến thành nơi hoang phế chết chóc, một hoang mạc không người."

Trong biệt thự của Merkin, giữa chiếc bàn vứt bừa bãi ngồn ngộn giấy bút, hai đầu bàn chồng chất sách vở thành hai bức tường. Merkin vùi đầu vào giữa hai bức tường ấy, gần như bò toài ra trên tấm bản đồ, giơ kính lúp lên soi từng đường chỉ mảnh trên đó. Đôi mắt của y nhìn tựa hồ như thuộc về một loài dã thú đói khát nào đó chứ không phải của con người nữa. Soares thì ngồi ôm một cuốn từ điển khổng lồ, dài tới ba mươi centimet, dài rộng sáu mươi centimet, chúi mũi lật lật giở giở.

Những nét đen mảnh trên bản đồ cuối cùng dẫn đến ba nơi khác nhau, dường như ý của người vẽ tấm bản đồ này là muốn người ta đến ba nơi ấy kiếm ba thứ gì đó. Đầu tiên là một viên bảo thạch sáng lấp lánh, phần chú thích bằng tiếng Tạng dịch ra nghĩa là: "Màu đỏ, mở ra món lễ vật tán dương sự sống"; món thứ hai là một cuốn sách dày cộp, bên cạnh có chú thích: "Lý lẽ huyền ảo đều ở trong đây"; còn một món nữa đã bị xóa nhòa đi mất, có lẽ để chứng tỏ không cần thiết, nhưng lờ mờ có thể nhận ra những nét chữ mơ hồ dịch nghĩ là: "Bảo khí, cuối cùng". Ngoài ra, trên bản đồ còn có vô số mũi tên, trỏ đi trỏ lại giữa ba nơi này, dựa vào những vết xóa có thể nhận ra, người vẽ vốn hy vọng ai có được bản đồ sẽ đến nơi ở giữa trước tiên, nhưng sau tính toán thế nào lại xóa mờ thứ ở giữa và đầu mũi tên đi, ý nói không cần phải đến nơi ấy nữa. Mới đầu bọn y còn nghi ngờ không hiểu có ai đã đụng tay đụng chân vào tấm bản đồ này hay chưa, nhưng sau khi kiểm tra bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật, phát hiện ra vết xóa và các dấu hằn được tạo ra cùng một thời gian với những đường nét khác, hơn nữa thủ pháp và phong cách là của cùng một người, vì vậy chỉ có thể phán đoán là chính người vẽ bản đồ đã thay đổi ý kiến mà thôi.

Bọn y nhận ra được đường chỉ thứ hai dẫn đến một nơi gọi là "đóa hoa". Địa danh ở khu vực phía trên dịch nghĩa là "sáu ngọn núi", bên dưới "sáu ngọn núi" là "đại đài địa" và một địa danh được dịch thành "tổ tiên", bên phải là "bảo tọa mặt trời", kế đó là hai nơi có tên phát âm thành "liangbu", "tabu", ba nơi này ở sát cạnh nhau.

"Tìm thấy rồi, là ở đây, vùng đất hoa sen nở rộ, chính là Mặc Thoát chứ còn đâu nữa, hại tôi tốn bao nhiêu thời gian tìm kiếm…" Merkin hưng phấn kêu lên.

Soares bỏ chiếc kính xuống, ngả người dựa vào sofa, hé miệng thở hắt ra "phì" một tiếng. Mấy tháng vừa rồi, bọn y gần như đã hoàn thành được cả một đại công trình. Các địa danh được chú thích trên bản đồ toàn bộ đều là địa danh cổ từ hơn ngàn năm trước, có rất nhiều tên từ thời Thổ Phồn vương triều hoặc thậm chí là trước đó, thể chữ chuỗi hạt này lại khác hẳn với Tạng văn ngày nay, bọn y phải dò từng con sông, từng ngọn núi một. Hơn thế, Merkin không tin tưởng vào người khác, tất cả công việc tìm kiếm tư liệu đều phải do bọn y tự thực hiện. Tuy nhiên cũng rất may là, tấm bản đồ này dường như được chuẩn bị cho người không thể tìm được đường, người vẽ ra nó đã chú thích rất tường tận từng địa danh, tên núi, tên sông, chỉ còn mỗi ba nơi cuối cùng kia là đều vẽ ra một ký hiệu Ung Trọng trông như vòng xoáy, dịch ra tiếng hiện đại thì không phải Bạc Ba La, mà là… cái rốn!

Sau khi khôi phục thể lực chừng một tháng, Lữ Cánh Nam đem những điều tâm đắc mọi người viết ra để tổng kết một cách tường tận, đồng thời bắt đầu tiến hành huấn luyện có tính định hướng. Lại một tháng nữa trôi qua, Lữ Cánh Nam đứng trên bục giảng, tay cầm một vật bằng gỗ gần giống như cục rubik, nói với các học viên: "Kể từ hôm nay, mọi người sẽ học môn cuối cùng, và cũng là môn nguy hiểm nhất - cơ quan học!"

Các học viên đều lộ ra vẻ hoan hỉ mừng rỡ. Trác Mộc Cường Ba rõ là có nhu cầu bức thiết muốn biết các tri thức liên quan tới cơ quan học, nhưng người hưng phấn nhất thì phải là Trương Lập. Anh chàng này từ lâu đã ngưỡng mộ môn học này, đồng thời cũng đã tìm hiểu sơ bộ về máy móc trang bị và cách chế tạo một số cạm bẫy đơn giản rồi.

"Thử cho tôi biết xem, mọi người hiểu thế nào về "cơ quan"?" Lữ Cánh Nam bình thản nói.

"Cạm bẫy", "vũ khí giết người", "vũ khí có thể tự động giết người", bên dưới lập tức vang lên nhiều đáp án khác nhau.

Lữ Cánh Nam lại nói: "Thứ gọi là cơ quan, hoàn toàn không chỉ có nghĩa hẹp là cạm bẫy giết người, vũ khí tự động tấn công như mọi người vẫn tưởng, mà chỉ là tất cả các thứ có kết cấu bằng lẫy chốt, lớn thì như mộng, như chốt, rường xà cột kèo trong các công trình kiến trúc, nhỏ thì là một ổ khóa sắt, còng sắt, tất cả đều có quan hệ với cơ quan học cả. Trong số mọi người ở đây, ngoài lạt ma Á La và chú Mao Lạp ra, những người còn lại e rằng đều rất lạ lẫm với môn học này. Nếu muốn tinh thông cơ quan học, chỉ sợ nghiên cứu cả đời cũng khó hoàn thành được hết các hạng mục, vì vậy, thứ chúng ta cần học, chỉ là tư duy phát hiện mấu chốt của cơ quan, đồng thời phán đoán được cấu tạo của nó mà thôi, cũng chính là tránh cạm bẫy giết người, phát hiện cửa ngầm bí mật mà người ta vẫn thường nói tới. Chỉ riêng khoản này, cũng đủ cho mọi người học hết hơn nửa năm rồi đấy." Đến đây, cô giơ tay lên nói: "Đây chính là một cơ quan, mỗi người một chiếc, tự lên lấy xuống đi."

Mỗi người bước lên nhặt một khối lập phương bằng gỗ, rồi lại trở về chỗ ngồi của mình. Trác Mộc Cường Ba cầm khối gỗ trên tay, phát hiện ra hình lập phương này do những khối gỗ nhỏ bề ngang, chiều dày đều một centimet, chiều dài mười centimet ghép lại mà thành, đan xen chằng chịt, bên ngoài trơn nhẵn tựa như là một khối chỉnh thể, rất khó tách rời. Xoay xoay vặn vặn một lúc lâu mà cũng không phát hiện ra lẫy chốt gì bên trong, gã nhủ thầm trong bụng: "Cái này thì là cơ quan gì chứ? Có phải định bịp người ta không đây?"

Lữ Cánh Nam nói: "Thứ mọi người đang cầm trong tay lúc này, chính là cơ quan nguyên thủy nhất, và cũng đơn giản nhất, gọi là khóa gỗ, ở cửa hàng đồ chơi cho người lớn hay đồ chơi trí tuệ đều có bán, hai nhân dân tệ một cái."

Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: "Quả nhiên là gạt người."

Lữ Cánh Nam lại mỉm cười nói tiếp: "Mọi người đừng coi thường thứ này không có gì đặc biệt, thực ra bên trong nó là kết tinh trí tuệ của cổ nhân đó. Nhìn bề ngoài thì các khối gỗ nhỏ đều giống hệt nhau cả, kỳ thực chỉ có mặt ngoài mọi người mới nhìn thấy giống nhau thôi, còn bên trong thì hết sức chằng chịt phức tạp, có hình móc, có hình vòng, có khối gồ lên ở giữa, có khối hõm vào. Tổng cộng có sáu mươi tư khối gỗ nhỏ, có thể tách rời hẳn ra, bây giờ mọi người bắt đầu chia tách chúng ra đi, xem thử khả năng thiên phú về cơ quan học của từng người đến đâu."

Tất cả học viên đều bắt đầu tách khóa gỗ. Trác Mộc Cường Ba lần mò một lúc, ngoảnh đầu nhìn về phía giáo sư Phương Tân, thấy ông đang ấn một khối gỗ nhỏ ở giữa khối lập phương ra một đoạn, lập tức được gợi ý, vội dùng sức ấn vào giữa hình lập phương, nhưng đã ấn cả sáu mặt rồi cũng không thấy khối lập phương ấy lơi lỏng ra một chút nào. Mười phút trôi qua, Trác Mộc Cường Ba mặt đẫm mồ hôi, Nhạc Dương và Trương Lập thì chúi đầu vào một chỗ rì rầm bàn tán, Ba Tang ngấm ngầm nhíu chặt đôi mày, đến cả Đường Mẫn cũng rầu rĩ không làm được gì, chỉ có hai ông già là vẫn ung dung thoải mái, lạt ma Á La thậm chí còn rút hẳn một khối gỗ nhỏ ra ngoài, kế đó thì như Bào Đinh mổ trâu 3, càng làm càng nhanh.

Lữ Cánh Nam nhìn mọi người mà thầm thấy tức cười, bèn lên tiếng nhắc nhở: "Không cần phải trao đổi kinh nghiệm đâu, mỗi cái khóa gỗ đó đều có kết cấu bên trong khác nhau. Mấu chốt của việc mở khóa gỗ, chính là thuận theo kết cấu bên trong của nó, từng bước từng bước một tách ra. Điểm khó ở đây là mọi người không nhìn thấy kết cấu bên trong của khóa như thế nào, chỉ có thể tự lần mò thôi."

Nghe Lữ Cánh Nam nhắc nhở, Trương Lập dường như đã tìm ra được bí quyết gì đó, anh kéo khối gỗ này ra một chút, rồi lại ấn khối kia xuống một chút, nhấc khối bên trái lên, kéo khối bên phải xuống, lúc không di động được nữa, thì đẩy ngược trở về theo quỹ đạo ban đầu, thử nghiệm một phương cách di động khác. Còn Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng tìm ra được một khối gỗ có thể di động, hóa ra là ở góc phía trên bên phải của một mặt hình lập phương, nhưng sau khi ấn nó ra, thì các khối gỗ khác lại không động cựa gì được nữa, gã đành phải thử đi thử lại từng khối một. Riêng lạt ma Á La thì đã tháo hết cái khóa gỗ của mình ra, sáu mươi tư khối gỗ nhỏ khác nhau xếp ngay ngắn trên mặt bàn.

Kế đó, Trương Lập, giáo sư Phương Tân, Ba Tang, Đường Mẫn, Nhạc Dương cũng đều tháo được khóa gỗ, chỉ còn mỗi Trác Mộc Cường Ba, trên trán gân xanh nổi chằng chịt, hai mắt đỏ ngầu, cơ bắp gồ lên, nghiến răng nghiến lợi ấn ấn xoay xoay. Chỉ nghe "cạch" một tiếng khe khẽ, miếng gỗ tưởng chừng như sắp rút ra được tới nơi, đến cuối cùng lại kẹt ở bên trong khối lập phương. Trác Mộc Cường Ba kéo hai ba lượt vẫn không ra, liền dùng sức, làm gãy luôn.

Tất cả mọi người đều đổ dồn ánh mắt về phía gã. Nhạc Dương và Trương Lập lập tức phát ra một tiếng kêu đầy tiếc nuối. Trác Mộc Cường Ba đập cái khóa gỗ xuống bàn, thở hồng hộc. Đường Mẫn vội lên tiếng: "Anh nôn nóng quá." "Phải đấy, Cường Ba thiếu gia, cái thứ này muốn nhanh cũng không nhanh được đâu." Nhạc Dương cũng lên tiếng chia sẻ kinh nghiệm.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam: "Năng khiếu của tôi không đủ, cho tôi thử lại lần nữa."

Lữ Cánh Nam mỉm cười giơ một ngón tay lên nói: "Đừng nóng, sớm đã chuẩn bị rồi." Nói đoạn, không ngờ lại lấy ra một khối lập phương bằng thép ròng, nhìn bề ngoài giống hệt như khóa gỗ…

Ba giờ sáng, Nhạc Dương trằn trọc mãi vẫn chưa ngủ được, đành bò dậy dụi dụi mắt nói: "Cường Ba thiếu gia, sáng mai anh làm tiếp có được không, tôi nghe cái tiếng động ấy cứ thấy như có chuột vậy đó."

Trác Mộc Cường Ba tập trung toàn bộ tinh thần vặn vẹo khối lập phương bằng sắt trên tay, lơ đễnh nói: "Chuột thì sợ gì chứ, nhắm mắt vào nghĩ mình là mèo tự nhiên sẽ ngủ được thôi." Trương Lập ở bên cạnh mở mắt ra nói: "Cường Ba thiếu gia, hay là, để chúng tôi làm giúp anh nhé."

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Thế làm sao được, các cậu mặc kệ tôi đi, nhất định tôi phải tháo được nó ra."

Lăn qua lăn lại mãi đến hơn bốn giờ sáng, hai người Nhạc Dương và Trương Lập mới thiêm thiếp ngủ. Ngày hôm sau, khi hai người bò dậy, đã thấy Trác Mộc Cường Ba ngồi ngắm vầng dương mới lên. Dưới ánh nắng rực rỡ, gương mặt cương nghị đường nét rõ ràng ấy toát lên vẻ tự tin vô tận. Trên mặt bàn, xếp gọn ghẽ chỉnh tề tám tám sáu mươi tư khối thép.

Lữ Cánh Nam nhìn thành quả Trác Mộc Cường Ba giao lên, nhận thức đối với gã lại tăng thêm mấy phần nữa. Gã là một người đàn ông biết sợ hãi. Nghe lạt ma Á La kể, trong rừng Mãng Xà và ở dưới địa cung, Trác Mộc Cường Ba đã để lộ ra nỗi sợ hãi đằng sau ngoại hình cao lớn mạnh mẽ ấy. Nhưng gã sợ hãi, mà không hề có ý thoái lui. Gã có sự dẻo dai giống như của cao su vậy, bất kể bị đả kích nặng nề ra sao, thế nào cũng dần hồi phục lại nguyên hình trạng. Chỉ cần không đạt tới yêu cầu của chính bản thân mình đặt ra, gã sẽ mãi mãi không bao giờ bỏ cuộc. Tính cách này đúng là hết sức kỳ quái, nếu là người bình thường, sợ hãi ắt sẽ trốn tránh, khi tin chắc mình không phải là đối thủ của người khác, ắt sẽ lảng tránh; nhưng Trác Mộc Cường Ba vừa hay lại trái ngược hoàn toàn, gã sợ hãi ắt sẽ bước thẳng tới mà nghênh đón, biết rõ mình không đánh lại người ta cũng vẫn muốn xông tới, thoạt nhìn bề ngoài thì có vẻ hơi ngốc nghếch, tính cách gì mà như vậy chứ! Lữ Cánh Nam nhớ lại từ khi quen biết Trác Mộc Cường Ba đến giờ, nhất cử nhất động của gã đều gây cho cô một cảm giác không thể đoán biết. "Hừ, đại trí giả ngu, đây cũng là đại trí giả ngu hay sao?" Nhớ lại lời lạt ma Á La đã nói, cô không khỏi khe khẽ mỉm cười.

Mấy tháng tiếp sau đó, các thành viên trong nhóm đều trải qua một đợt huấn luyện đặc biệt về các kiến thức liên quan đến cơ quan học, bắt đầu học từ loại cạm bẫy nhi đồng đơn giản nhất, tức là đào hố dưới đất, lót tờ báo rồi vùi cát lên trên, kế đó là tới trận xe gỗ ngựa gỗ của Gia Cát Lượng, Cứu Lưu Bàn Long Thần của Quỷ Cốc Tử, càng học lại càng thấy môn cơ quan học này đúng là cao thâm khó dò.

Bí mật huyết trì

Trải qua khảo nghiệm trong rừng sâu Nam Mỹ, các thành viên trong nhóm đều nhận ra điểm yếu của mình, ai cũng gần như điên cuồng tham gia huấn luyện, ban ngày vượt qua khảo nghiệm của đủ loại các cơ quan cạm bẫy, tối về lại thường đọc sách đến tận đêm khuya. Mỗi người đều rèn luyện bản thân bằng ý chí của một mật tu giả, gắng sức đột phá cực hạn năng lực cơ thể.

Trong thời gian này, Lữ Cánh Nam đồng thời để các đội viên tiến hành phát triển cá nhân, thực hiện vận động cực hạn, hay nghiên cứu các tác phẩm học thuật nổi tiếng như Thuyết tiến hóa…, ngoài ra còn dạy họ sử dụng mấy loại công cụ mới. Ví dụ như lắp thêm dây quăng vào đồng hồ nguyên tử đeo trên tay mỗi người, quấn vào mặt bên trong áp với cổ tay, kích thướt chừng bằng một hộp diêm, bên trong có hai mươi lăm mét dây hợp kim, phát xạ dựa trên nguyên lý của pháo điện từ, một đầu trước có đầu mũi khoan nhỏ bằng kim cương, có thể đâm sâu mười phân vào bề mặt kim loại, sau đó tự động dãn nở bắt chặt vào mục tiêu, thứ này thuộc loại dụng cụ cứu sinh, trong rừng sâu mà dùng loại này thì tiện hơn dây leo rất nhiều. Ngoài ra còn có loại giày dính chặt được vào mặt tường trơn nhẵn, ứng dụng nguyên lý bàn chân con thằn lằn: đế giày có rất nhiều lông cứng theo nguyên lý ống siphon, khiến lực ma sát có thể chịu được trọng lượng của cơ thể người, ngoài ra còn lắp thêm lò xo giảm xóc hình cung, khiến một cú nhảy có thể cao ngang tầm người bình thường, còn xung lực lúc rơi xuống hoàn toàn có thể vận dụng để thực hiện các vận động cực hạn, cộng thêm với áo cánh dơi thiết kế dựa theo cánh thịt của sóc bay, vậy là có thể tránh được trường hợp độ cao mười tầng nhà gây khó cho anh hùng rồi. Hoặc là bình sắt siêu cường hóa mặc dù thể thể tích chưa đầy lọ mực, nhưng thời gian cung cấp dưỡng khí từ ba tiếng đồng hồ ban đầu đã kéo dài lên một trăm linh tám tiếng đồng hồ.

Khoảng thời gian này, Trác Mộc Cường Ba cũng không còn thúc giục đòi xuất phát nữa. "Anh dựa vào cái gì mà đi tìm Bạc Ba La thần miếu, vận may hả?" "Điều anh cần làm lúc này, chính là xem nhiều, học nhiều, nghĩ nhiều…" "Chúng ta đứng trên vai người khổng lồ để thu thập thông tin." "Nếu ngày đó đến thật, chúng ta có thể tự mình đi mà…" Những lời Lữ Cánh Nam và giáo sư Phương Tân nói hết lần này đến lần khác vang vọng bên tai, không ngừng nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba. Những lúc nghỉ ngơi, gã thường ở bên Đường Mẫn, nhưng gã cũng thường xuyên cảm nhận được, có một bóng hình yểu điệu đang đứng ở mãi đằng xa chăm chú nhìn mình. Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang đã trở nên thân thiện hơn rất nhiều, thường xuyên nghe thấy hai người Trương, Nhạc cất tiếng cười sảng khoái, cả Ba Tang thỉnh thoảng cũng nở ra một nụ cười lạnh lùng. Còn giáo sư Phương Tân thì mải mê nghiên cứu băng video ông quay được dưới địa cung Ah Puch. Theo giáo sư, nếu đã cho rằng địa cung Ah Puch và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu có liên quan với nhau, vậy thì các bức bích họa, tượng điêu khắc trong địa cung Ah Puch, tất cả đều có thể gợi ra những thông tin có liên quan tới Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia. Phía nhóm nghiên cứu cũng cung cấp cho giáo sư rất nhiều đầu mối. Cùng nghiên cứu thông qua mạng truyenfull.vn, tác phong cẩn trọng và thái độ làm việc không biết mệt mỏi đó của giáo sư khiến cả lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam đều hết sức nể phục. Có điều, câu đố lịch sử mà hai nền văn minh Cổ Cách và Maya để lại có thể nói là một cái hang không đáy, giáo sư Phương Tân bước chân vào đó, càng đi càng thấy sâu, khiến hai trợ thủ của ông là Trương Lập và Nhạc Dương cứ kêu trời kêu đất, phàn nàn rằng làm việc này còn khổ hơn cả huấn luyện nữa. Mỗi lần như vậy, giáo sư Phương Tân lại lấy Đường Mẫn ra làm tấm gương giáo dục hai chàng thanh niên này phải có lòng nhẫn nại, có lòng tin, có trái tim yêu thương…

Núi Đường Cổ Lạp, bên bờ sông Đà, một chiếc xe tải lớn nhìn bề ngoài như sắp muốn long ra xong xọc đến nơi tròng trành đi giữa dải núi non trập trùng.

Tây Mễ ngồi bên ghế lái phụ thưởng ngoạn phong cảnh trước mắt. Hắn thích vùng đất này, thích núi non ở đây, thích mây trời ở đây. Không thể không thừa nhận, nơi này đích thực là một vùng đất có thể khiến người ta vui ngắm cảnh mà quên cả đường về. Một điều càng hay hơn nữa là, khi nhìn những đám mây trắng muốt bay qua bầu trời, cảm giác tội lỗi trong lòng hắn sẽ bị đè nén xuống. Năm ấy Tây Mễ chọn Khả Khả Tây Lý, có lẽ cũng chính là một dải tuyết trắng mênh mang ở đây mênh mang ở đấy hấp dẫn cũng nên.

Gã đang lái xe kia tên là Dakis, cao một mét bảy lăm, hơi gầy, dưới cặp lông mày thẳng như hai chữ "nhất" là đôi mắt giống hình thang. Có người nói, kẻ có đôi mắt này thì rất hung hăng, cảm giác như đang miệt thị người khác vậy, mà tên Dakis này đích thực là cũng rất hung hăng. Hắn gia nhập Hồ Lang chưa được hai năm, vậy mà đã không kẻ nào dám đụng đến hắn nữa. "Lôi Ba khỏe, Dakis ác", câu này từ lâu đã lan truyền trong nội bộ Hồ Lang. Số đội viên đội tuần tra núi Khả Khả Tây Lý bị tên Dakis này giết trong hai năm còn nhiều hơn tổng số đội viên bị toàn bộ Hồ Lang giết trong mười năm về trước. Hồ Tử nói, da của Dakis lột là bán được giá tốt nhất, nếu không phải hắn có một chút tác dụng này, thì từ khi Hồ Lang bị quân đội bao vây sào huyệt, Tây Mễ đã thịt hắn luôn rồi. Bởi chính vì tên này hung tàn thành tính mới khiến quân đội phải bao vây tiễu trừ toàn bộ tổ chức của bọn hắn.

Niềm đam mê lột da của Dakis là một loại bệnh thái. Mỗi khi lóc thịt linh dương Tây Tạng, hai mắt y sáng rực lên, miệng ngâm nga một điệu nhạc nào đó, dáng điệu vô cùng thỏa mãn. Tây Mễ hiểu rõ, từ hồi còn trong đội đặc nhiệm Nhện Xanh hắn đã được dạy rằng, loại người này có vấn đề về tâm lý, ở phương Tây còn có thuật ngữ y học chuyên dụng, gọi là "hội chứng thích phân tách", bọn họ thích phân tách tất cả các thứ mình nhìn thấy ra, không tách ra một cách triệt để thì trong lòng không thể nào thỏa mãn được. Loại người này mỗi khi giết người, bao giờ cũng chặt xác nạn nhân ra làm bảy tám chín mảnh. Mấy tên giết người hàng loạt nổi tiếng nhất ở phương Tây gần như đều mắc phải chứng bệnh này.

Dakis bảo mình là người Tạng ở Thanh Hải, Tây Mễ thấy không giống lắm. Không giống người Tạng, gương mặt hắn không có vẻ chân chất mộc mạc của dân Tạng, cũng không giống người Mông Cổ. Có điều cũng không ai truy vấn hắn, sau khi hắn giết đội viên đội tuần tra núi cũng như giết linh dương Tây Tạng, thì không còn ai dám nghi ngờ hắn là nội gián nằm vùng nữa.

Tây Mễ thu ánh mắt lại, quay sang nhìn bàn tay Dakis. Tay hắn rất vững, trên con đường núi tròng trành rung lắc, bàn tay nắm vô lăng không hề động đậy, cẳng tay phải hồi trước có lẽ có một hình xăm, có điều giờ chỗ đó là một vết sẹo thịt dài, song không giống đốt bằng tia laze. Thấy Tây Mễ chú ý nhìn mình, Dakis giơ tay lên quẹt quẹt mũi, nói: "Không đẹp được như hình xăm của đại ca đâu, hồi trước xăm con thằn lằn, về sau sợ bị truy nã, sợ bị người ta nhận ra, liền lấy dao cắt luôn chỗ thịt ấy đi." Tây Mễ không nói gì, tiếp tục ngắm nhìn trời xanh mây trắng và dòng sông Đà Đà như dải ngọc kia.

Sau xe ngồi chật người, Max cũng ở trong đám này. Khi ông chủ không có mặt, hắn cũng không dám làm ra vẻ khâm sai đại thần trước mặt cái đám liều mạng này. Hắn cẩn thận khuyên nhủ để Tây Mễ lên ngồi ghế lái phụ, còn mình thì ở phía sau với Thiết Quân, dù sao thì hắn cũng quen Thiết Quân một thời gian rồi. Ngồi trong thùng xe lắc lư, Max nhớ lại nhiệm vụ ông chủ đã giao cho hắn nửa tháng trước, "Max, mày mang tấm bản đồ này đến Trung Quốc trước, chuyện này phải làm cho tốt."

"Ông chủ, sao không fax về cho xong, không thì scan lên máy tính cũng được, cần gì…"

"Đồ ngu, mày biết cái gì chứ? Mày tưởng Cục tình báo Trung ương Mỹ ăn phân mà sống hả, tấm bản đồ này chỉ cần dùng phương tiện điện tử truyền đi, nói không chừng đã lập tức bị bọn ấy biết ngay rồi."

"Nhưng mà, nếu trên đường…"

"Thế nên mới phải để mày đích thân mang đi, mày phải đảm bảo với ta không được để xảy ra sơ xuất…"

"Tôi…"

"Yên tâm, tấm bản đồ này là do đích thân tao vẽ, tao đã giở chút thủ đoạn lên đó rồi, cho dù có lọt vào tay cảnh sát Trung Quốc, bọn chúng chưa chắc đã hiểu được đâu. Có điều để đề phòng vạn nhất, mày vẫn phải đảm bảo tuyệt đối không để nó rơi vào tay bọn chúng. Con mẹ nó, nếu cả tấm bản đồ mà cũng không mang đi nổi thì mày còn được việc gì nữa chứ!"

"Vâng."

"Còn nữa, đám người kia huấn luyện cũng kha khá rồi phải không, đã đến lúc cho chúng ra ngoài hoạt động một chút rồi. Sau khi mang tấm bản đồ này tới Trung Quốc, mày hãy nghỉ cách đưa chúng đến khu vực Lâm Chi, nhớ kỹ, ngàn vạn lần không được thu hút sự chú ý của cảnh sát Trung Quốc…"

"Ha ha ha…" Một tràng cười lớn làm Max giật mình sực tỉnh. Đám người này đã bị giữ chân trong khe núi hoang vu không bóng người suốt hơn nửa năm ròng, từ lâu đã sắp phát điên lên rồi. Mặc dù Max cũng sắp xếp một số trò vui, nhưng dù sao thì thế giới bên ngoài cũng đặc sắc hơn nhiều. So với đám lính đánh thuê của Merkin, bọn Hồ Lang còn đỡ hơn một chút, nói thế nào thì bọn chúng cũng đã quen phải lẩn trốn rồi. Nghe ông chủ kể, vào lúc không phải mùa săn, hay thời điểm bị truy đuổi gắt gao, bọn Hồ Lang này không có chỗ nào để đi, vậy là liền trốn trong hang động trên núi trong suốt nửa năm liền khiến đội điều tra lần nào cũng trở về tay trắng. Vì vậy Max đặc biệt cẩn thận với tên Tây Mễ đứng đầu băng săn trộm này. Có thể khiến một đám liều mạng nằm yên trong hang núi lâu như vậy, sự nhẫn nại đó, uy thế đó, chính xác là chỉ có bộ đội đặc chủng siêu cấp mới làm nổi mà thôi.

Đến giờ rốt cuộc cũng có thể ra khỏi khe núi đó, đám liều mạng này chen chúc trong thùng xe chật chội, râm ran kể cho nhau những truyện cười dâm tục nghe mãi cũng không biết chán, làm ra đủ thứ động tác tục tĩu, cố hết sức phát tiết tâm trạng được ra khỏi núi rừng trở về với nhân loại. Người cười lớn nhất là Ivan, còn cái tên giọng eo éo the thé, cứ nhảy qua nhảy lại trong thùng xe kia là nói nhiều nhất. Đầu hắn trông nhọn nhọn như quả trám, mặt gầy mà đen, mắt rất nhỏ, cằm nhọn hoắt, bất kể là nhìn từ góc nào, cái miệng hắn trông cũng to một cách quá đáng. Hơn nữa trong miệng hắn dường như lúc nào cũng đang nhai nhóp nhép thứ gì đó, mỗi khi cười liền lộ ra hàm răng đen đen vàng vàng khấp khểnh. Không hiểu tại sao, khi nhìn vào cái miệng đầy những răng của hắn, Max tưởng như đang nhìn vào cặp mắt ông chủ. Cả hai đều gây cho người khác cảm giác lạnh buốt trong tận đáy lòng.

"Bồ câu hoang, món ngon đấy, nướng hay hầm đều ngon cả!" Dọc đường, tên đó cứ huyên thuyên bất tuyệt chỉ cho đám người trong xe biết thứ nọ thứ kia nên ăn thế nào, như thể là đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng về các món ăn vậy.

"Con bò Yak hoang kia nướng lên đảm bảo là cực ngon!" "Con la hoang này mà tùng xẻo thì ngon nhất luôn!" "Vịt Thu Sa, bọn vịt Thu Sa dưới sông kia mà hấp cách thủy thì ngon tuyệt! Còn cả cá nhảy sông nữa chứ, nhất định là mấy người chưa ăn bao giờ rồi!" "Nhạn đầu đốm, nấu canh ngon lắm!" "Sao không thấy con rắn nào nhỉ, không thì có thể làm bát canh rắn được rồi!" Tóm lại là các loài động vật hoang dã dọc đường đều bị hắn sắp xếp thành đủ các món ăn, cả chim sẻ và chuột núi cũng không bỏ qua. Max nhủ thầm trong bụng, giả như Soares mà ở đây, không chừng đã giết luôn cái thằng lắm mồm này đi rồi. Ông chủ từng nói với hắn, người điều khiển thú vật là một nghề nghiệp hết sức kỳ quái. Bọn họ có thể ở chung một chỗ, hòa mình vào giữa đàn thú, song ngược lại, cũng không hề nương tay chút nào khi dùng các loại động vật thảm sát con người.

Thấy tên kia vẫn đang hưng phấn tưởng tượng các loài động vật cả đám gặp trên đường thành các món cao lương mỹ vị, Max không nhịn được hỏi Thiết Quân: "Thằng kia là ai đấy? Chính là cái thằng vẫn nói từ nãy đến giờ ấy."

Thiết Quân cười cười đáp: "Hắn tên là Lâm Nhân, quê Quảng Đông, là thành viên cấp cao của Hồ Lang, đừng nhìn bề ngoài hắn gầy đét ra như thế, lúc ra tay thì không hàm hồ chút nào đâu. Nghe nói trước khi gia nhập Hồ Lang hắn đã đi khắp toàn quốc săn trộm động vật hoang dã rồi. Hắn từng tự nhận rằng, ở Trung Quốc, chỉ cần là động vật người ta biết đến, tất thảy đều vào miệng gã cả rồi, chẳng hạn cái gì mà gấu trúc, vượn đen tơ vàng, hổ Đông Bắc, cá tầm Trung Hoa…"

Lâm Nhân nghe bọn hắn nói chuyện, liền nhảy vù tới, dương dương đắc ý nói: "Thế có đáng gì, toàn món bình thường cả, tôi còn ăn kiến ở Vân Nam, ăn rết ở Nghi Xương, đổ rượu, ăn sống, ăn xong còn cảm thấy nó bò qua bò lại trong dạ dày nữa cơ. Ở Quý Châu thì ăn ốc sên, đặc sản vùng ấy là một loài ốc sên không có vỏ, toàn thân đen bóng, đại khái to bằng đầu ngón tay này, thịt nó thì…"

Nghe những loại món ăn ly kỳ cổ quái tuôn ra từ cái miệng toàn răng vàng răng đen ấy, Max chợt cảm thấy buồn nôn.

Mấy tháng sau, Trác Mộc Cường Ba đến tìm gặp Lạt ma Á La.

Mặc dù đã nắm bắt được các đặc trưng cơ bản của cơ quan học, nhưng Trác Mộc Cường Ba trước sau vẫn không thể quên được huyết trì mà họ trông thấy trong địa cung Ah Puch. Gã còn nhớ lạt ma Á La đã từng nói, đó mới là cơ quan chân chính. Đến bây giờ, đã học được rất nhiều kiến thức lý thuyết, đồng thời cũng có không ít kinh nghiệm thực tiễn, gã vẫn không thể hiểu thấu huyết trì rốt cuộc là thứ gì. Nhưng cảnh tượng đầy máu tanh và tàn nhẫn đó quả thật khiến người ta kinh hồn bạt vía. Vì vậy, hôm nay gã định tìm ông hỏi cho rõ ngọn ngành.

Trên bãi huấn luyện, Trương Lập và Nhạc Dương đang bố trí một cạm bẫy liên hoàn vừa mới học được. Ba Tang đứng bên cạnh góp ý. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La ngồi trên hai cái đôn đá nhìn họ từ đằng xa. Gã nói: "Đại sư, ngài còn nhớ huyết trì ở tầng năm trong địa cung Ah Puch không?"

Lạt ma Á La nhìn Trương Lập đang lắp giá đỡ, "ờ" một tiếng, đoạn hỏi: "Cậu muốn hỏi gì vậy?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi muốn biết biết huyết trì rốt cuộc là thứ gì?"

Lạt ma Á La giờ mới quay đầu nhìn gã, ngạc nhiên thốt lên: "Tại sao đột nhiên lại muốn hỏi vấn đề này?"

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Chúng tôi đã học cơ quan học từ rất lâu rồi, nhưng đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa có khái niệm gì về huyết trì cả. Tôi còn nhớ đại sư đã từng nói, chỉ huyết trì mới có thể coi là cơ quan chân chính, vậy nguyên lý của nó là thế nào? Rốt cuộc là nó dùng để làm gì?"

Lạt ma Á La nói: "Với những gì cậu nắm được lúc này, cậu cảm thấy tác dụng chủ yếu của các loại cơ quan hàm nghĩa hẹp mà chúng ta học tập là gì?"

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát rồi nói: "Hình như vẫn là để giết người, à không, chủ yếu là để vây khốn hoặc làm tổn thương vật săn chạm phải chốt lẫy thì đúng hơn."

Lạt ma Á La lắc đầu nói: "Không hẳn thế, các loại cơ quan mang nghĩa hẹp hiện nay, chúng ta đã học được có hai tác dụng chủ yếu. Thứ nhất, chính là điều cậu vừa nói, người chạm phải cơ quan sẽ gặp phải phiền phức, còn thứ hai, chính là để bảo vệ một số đồ vật không bị kẻ khác lấy đi hoặc hủy hoại, tác dụng như một ổ khóa vậy. Huyết trì, chính là loại cơ quan có tác dụng này. Tôi có thể cho cậu biết một điều, hệ thống khóa của huyết trì tuyệt đối không kém hệ thống nhận dạng vân tay hiện đại bây giờ đâu, thậm chí còn đạt đến mức độ tinh vi như hệ thống nhận dạng gien nữa cơ."

"Hả," Trác Mộc Cường Ba khẽ kêu lên một tiếng, "ghê gớm vậy cơ à!"

Lạt ma Á La gật đầu: "Cậu còn nhớ cánh cửa đó mở ra thế nào đấy chứ? Những tảng đá vốn là màu trắng cuối cùng toàn bộ thành màu đỏ, sau đó cửa liền mở ra, có đúng không?" Trác Mộc Cường Ba khẽ gật đầu.

Lạt ma Á La lại nói tiếp: "Thực ra bên ngoài cánh cửa đá đó còn một tầng vật chất khác nữa, thứ đó là cái gì thì tạm thời tôi không thể cho cậu biết được, cậu cứ coi nó như một loại sợi có thể co dãn cũng được. Lực co dãn của loại sợi này rất lớn, giống như bắp thịt của con người vậy. Khi chúng co lại hết cỡ, một sợi to như sợi mì có thể nhấc được tảng đá nặng mấy chục kologram, cánh cửa khổng lồ đó, chính là được mở ra bằng cách ấy."

Trác Mộc Cường Ba chỉ gật đầu không nói. Cánh cửa khổng lồ hình khung xương ấy kiên cố dị thường, chỉ sợ xe tải cũng chưa chắc có thể một lần húc đổ luôn, vậy mà lại bị thứ sợi đó sơi sơi kéo ra như vậy, lực co dãn ấy quả là kinh người.

Lạt ma Á La nói tiếp: "Thế nhưng, muốn làm thứ sợi co giãn ấy, chất lỏng bình thường không có tác dụng, cần phải dùng…"

Trác Mộc Cường Ba thốt lên: "Máu? Chẳng trách nó được gọi là huyết trì."

Lạt ma Á La sửa lại: "Máu người. Nhưng không phải toàn bộ. Cậu có biết trong máu người có bao nhiêu loại vật chất không?"

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Hồng cầu, còn có, còn có… có gì nữa nhỉ?"

Lạt ma Á La mỉm cười: "Nhiều lắm, tôi nói như thế này nhé, số lượng các vật chất trong máu người nhiều không kể xiết, chỉ riêng các loại y học hiện đại thường dùng đã có tới mấy chục rồi, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, mấy chục loại protein làm đông máu, protein chống đông máu cũng có mấy chục loại, ngoài ra còn các nguyên tố vi lượng, kháng nguyên thể, mấy thứ này thì còn nhiều hơn nữa. Còn huyết trì, chính là dùng các cơ quan khác nhau trong cơ thể người, tiến hành lọc máu, cuối cùng sẽ có được một loại dịch thể màu đỏ, bởi vì chưa phân tích cụ thể bao giờ, nên tôi chỉ đoán có lẽ trong đó chứa hồng cầu và một số loại protein chống đông máu, mà chỉ có loại dịch thể màu đỏ này mới có thể khiến thứ sợi kia co rút hết cỡ mà thôi."

Trác Mộc Cường Ba nghe mà đần thối mặt, vội hỏi: "Đại sư sao lại hiểu rõ về huyết trì vậy?"

Lạt ma Á La điềm đạm mỉm cười: "Cậu có biết cái huyết trì nguyên vẹn đầu tiên được khai quật ở đâu không? Huyện Mặc Thoát ở Tây Tạng đấy. Vì vậy, tôi có thể khẳng định địa cung Ah Puch và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia có quan hệ tất yếu. Dựa theo kết quả khảo chứng trước mắt, huyết trì rất có thể là dụng cụ tế lễ của một số giáo phái cổ xưa đã tiêu vong rất lâu ở Tây Tạng."

Lạt ma Á La nhổm người dứng dậy, nhìn ra phía bãi huấn luyện nói: "Hiểu biết của tôi về huyết trì cũng chỉ giới hạn ở bề ngoài thế thôi, toàn bộ chỉ có vậy. Có điều đã nói tới đây, đã học môn cơ quan học này một thời gian dài như vậy, cậu cho rằng chỗ lợi hại của cơ quan nằm ở đâu, Cường Ba thiếu gia?"

Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn ra bãi huấn luyện phía xa, mấy người bọn Trương Lập đã bố trí xong cạm bẫy, chỉ thấy giữa bãi cỏ là một lùm cây bụi, hoàn toàn không hề có dấu tích của sự nguy hiểm chút nào.

Nhạc Dương mở cửa lồng, thả con thỏ hoang làm thí nghiệm ra. Con thỏ vừa ra khỏi lồng, liền nhanh chóng chạy vào chỗ kín ẩn nấp, không ngờ bên dưới bóng cây nhân tạo kia chính là chốt lẫy của cơ quan, cả bụi cây đổ sập xuống. Con thỏ cũng cực kỳ nhanh nhẹn, lập tức đảo sang bên trái, lưới thép phía trước liền "tưng" một tiếng bung vọt lên, thỏ hoang tức khắc dừng chân, lăn tròn một vòng dưới đất, đảo ngược đường lao sang bên phải. Phía bãi cỏ bỗng đâu bật lên một miếng ván gỗ chặn ngay trước mặt con thỏ, con vật không kịp dừng bước, húc thẳng vào đấy. Cú va chạm làm con thỏ hoang váng đầu váng mặt, lảo đảo mấy lượt, thấy ván gỗ đổ ụp xuống, vội chạy đi, nào ngờ cọc gỗ dưới đất lại liên tiếp nhô lên, chặn đứng đường lui của nó. Con thỏ hoang cũng khá nhanh nhẹn, lách bên trái né bên phải, vừa mới thoát được vòng vây của cọc gỗ thì đã thấy phía trước một cái hang, liền không nghĩ ngợi gì đã chui tọt vào trong ấy.

Cửa sắt đóng sập lại, con thỏ lại trở về lồng của nó, Nhạc Dương, Trương Lập và cả Ba Tang cười cười bàn luận, xem ra cơ quan tổ hợp này đã thiết kế thành công rồi.

Trác Mộc Cường Ba hồi tưởng lại cả quá trình ấy, đột nhiên thốt lên: "A, tôi hiểu rồi, chỗ đáng sợ nhất của cơ quan, chính là ở tính bí mật của nó!"

Lạt ma Á La hài lòng gật gật đầu: "Đúng vậy, Cường Ba thiếu gia, cậu đã nắm được yếu quyết của cơ quan học rồi đó. Chỗ đáng sợ của cơ quan, chính là cậu không nhìn thấy nó. Khi cậu phát hiện ra đó là một cơ quan, thì nguy hiểm cũng theo đó mà giảm xuống đáng kể rồi. Quá trình phá giải cơ quan, thực chất chính là quá trình đấu trí đấu lực với người thiết kế nên cơ quan ấy. Hai bên đều không nhìn thấy đối thủ, nhưng lại phải suy nghĩ xem đối phương có thể nghĩ tới những vấn đề gì, hay có vấn đề gì y không nghĩ tới. Giống như lúc ở tầng sáu địa cung Ah Puch, chúng ta lặn xuống nước như vậy thực ra là rất mạo hiểm, nhưng lúc ấy thì chúng ta hết cách rồi, đó là đường ra duy nhất của mọi người, nên đành liều đánh cược một phen. Được rồi, hôm nay nói tới đây thôi, mấy người trong nhóm gọi cậu kìa." Trương Lập đang đứng phía xa vẫy vẫy tay gọi Trác Mộc Cường Ba tới.

Bước ngoặt mới

Trác Mộc Cường Ba đứng ngẩn người ra một lúc, nghiền ngẫm lại những lời lạt ma Á La vừa nói, "Chỗ đáng sợ của cơ quan, chính là cậu không nhìn thấy nó," đồng thời lời cảnh báo của Babatou cũng vọng lại bên tai gã, "Kẻ thù đáng sợ thực sự, là những thứ ta không nhìn thấy," điểm chung của hai thứ này, chính là phát hiện. Những lời này không hiểu sao gã cảm thấy rất quen thuộc, tựa hồ như trong một thời gian, ngày nào cũng có người nhắc nhở gã vậy.

Trương Lập chạy tới, cười cười nói: "Cường Ba thiếu gia, có thấy cơ quan tổ hợp của chúng tôi không? Coi là thành công được chưa nhỉ?"

"Ừm." Trác Mộc Cường Ba khẽ đáp một tiếng, trong lòng bỗng nhiên dâng lên cảm giác sợ hãi vô cùng mạnh mẽ. Rất nhiều sự việc xảy ra trong quá khứ, rất nhiều điều đến nay gã không thể nào lý giải nổi, từng sự kiện một hiện lên trong tâm trí, nỗi sợ ấy còn đáng sợ hơn cả khi gã đối diện với người đàn ông có đôi mắt như của loài rắn độc và tên thổi rắn ở Putumayo kia, bởi bản thân gã xưa nay chưa từng có cảm giác như vậy bao giờ cả. Rốt cuộc là chuyện gì đây? Tại sao có thể khiến gã trào dâng một nỗi phát xuất từ sâu thẳm nội tâm? Đầu óc Trác Mộc Cường Ba tức khắc chìm vào u mê hỗn độn, muốn bình tâm tĩnh trí lại thì chỉ càng thêm rối loạn.

Lúc này, Lữ Cánh Nam bước qua bên cạnh hai người, Trương Lập vội đứng thẳng người, cung kính nói: "Giáo quan." Mọi lần thì Lữ Cánh Nam bao giờ cũng đáp lại, nhưng lần này dường như cô không hề nghe thấy, thậm chí cả nét mặt bần thần hỗn loạn của Trác Mộc Cường Ba cô cũng không chú ý đến, mà rảo bước đi thẳng qua.

Lữ Cánh Nam nhanh chóng đuổi theo lạt ma Á La, đánh mắt ra hiệu, vị sư già hiểu ý, liền đi theo vào văn phòng của cô.

Lạt ma Á La vừa bước vào cửa, Lữ Cánh Nam đã không sao kìm nén nổi cảm giác kích động trong lòng, trực tiếp nói luôn: "Đại nhân, có hai việc hết sức quan trọng. Merkin đến Trung Quốc rồi!"

"Hả!" Lạt ma Á La cũng lập tức trở nên nghiêm túc, mặc dù không biết khoảng thời gian này Merkin đã đi đâu, làm những chuyện gì, nhưng một khi y đã xuất hiện ở Trung Quốc, chắc chắn là tên này sẽ có hành động gì đó. Lạt ma Á La điềm tĩnh hỏi tiếp: "Còn một chuyện nữa là gì?"

Lữ Cánh Nam gật đầu đáp: "Hôm kia có người báo cáo, ở biên giới Thanh Tạng có kẻ khả nghi, đoán là một băng săn trộm, thế nên công an của chúng ta đã tiến hành tấn công đột kích. Một đám người thân phận bất minh hoảng loạn bỏ chạy, không phát hiện ra động vật hoang dã nào, nhưng đã tìm thấy một tấm bản đồ. Các chuyên gia cho rằng, bản đồ này có liên quan đến Tây Tạng cổ đại, nên đã giao cho nhóm nghiên cứu, con có mang theo bản sao đây, đại nhân xem."

Lạt ma Á La cầm tấm bản đồ lên, lẩm bẩm nói: "Hình như là một tấm bản đồ hàng hải cổ, chú thích này là… ồ… hả! Đây là…" Cánh tay vị sư già đột nhiên run lẩy bẩy, kinh ngạc thốt lên, "Không thể nào, không thể nào như vậy được! Tấm bản đồ này sao lại đột nhiên xuất hiện chứ? Chẳng lẽ đúng là ý trời hay sao?"

Lữ Cánh Nam nói: "Đại nhân, ngài cho rằng việc tấm bản đồ này đột nhiên xuất hiện liệu có liên quan gì đến chuyện Merkin bất ngờ trở về nước hay không?"

Lạt ma Á La nói: "Ý của con là?"

Lữ Cánh Nam nói: "Trong báo cáo của nhóm nghiên cứu gửi đến, trong tay bọn họ là tấm bản đồ gốc, một tấm bản đồ hàng hải được dân Tạng cổ vẽ trên da sói từ trên một ngàn năm trước. Theo phán đoán của con, Merkin không dám mạo hiểm mang tấm bản đồ này xuất hiện, mà thông qua phương thức khác, trước tiên là chuyển bản đồ đến đất nước chúng ta, sau đó y mới tới, chỉ là y không ngờ được mình đã ủy thác sai người, cho nên…"

Lạt ma Á La vỗ tay nói: "Không sai được đâu! Tấm bản đồ này nhất định đã được lấy ra từ trong địa cung Ah Puch, chính là kẻ xuất hiện cuối cùng đó, mặc dù ta chỉ trông thấy bóng lưng hắn thôi, nhưng kẻ ấy thật vô cùng đáng sợ, toàn thân toát ra một thứ mùi vị tà quái khó hiểu. Hắn là người của tổ chức kia, một trong mười ba người, hắn là người ở trong lăng tẩm ấy lâu nhất, chắc chắn là đã phát hiện ra điểm gì mà chúng ta sơ suất bỏ qua. Đáng lẽ ta phải nghĩ ra lâu rồi mới phải, kẻ ấy tuyệt đối không thể là quân du kích, chẳng trách Merkin lại không xuất hiện, thì ra đã có kẻ khác đến địa cung Ah Puch rồi, mục đích chính là mở cánh cửa lần trước bọn chúng chưa mở ra được kia."

Lữ Cánh Nam liền hỏi: "Có lẽ nào, tấm bản đồ ấy chính là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu hay sao?"

Lạt ma Á La đáp: "Chuyện này khó nói lắm, nhưng tin tức xuất hiện bất ngờ này sẽ lấp đầy rất nhiều điểm còn trống trong điều tra của chúng ta, nói thể nào thì nói, chúng ta cũng càng lúc càng đến gần mục tiêu rồi. Bây giờ thì ta đã hoàn toàn minh bạch. Chính kẻ kia đã đưa bản đồ cho Merkin, hoặc là bọn y cùng vùi đầu nghiên cứu, hơn nửa năm nay, sau khi đã hiểu được bản đồ nói gì, bọn y mới đến Trung Quốc. Thật đúng là lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, bọn y có năng lực mấy cũng chẳng thể nào ngờ nổi, tấm bản đồ ấy cuối cùng lại lọt vào tay chúng ta."

Lữ Cánh Nam nói: "Dưới sự chỉ dẫn của đức Phật toàn năng, ánh sáng mãi mãi ở phía chúng ta."

Lạt ma Á La nói: "Không thể do dự được nữa, nói với nhóm nghiên cứu, cần phải lập tức làm rõ xem rốt cuộc trên bản đồ ẩn chứa thông tin gì. Lần này chúng ta đã bị chúng bỏ lại sau lưng rồi, à, báo với các thành viên trong nhóm, cần chuẩn bị sẵn sàng để xuất phát bất cứ lúc nào."

"Vâng!"

Cùng thời điểm đó, ở một nơi hoang vắng không bóng người, Merkin lớn tiếng chửi vào điện thoại: "Max! Mày là đồ ngu xuẩn! Tao phải lột da mày! Một chuyện bí mật như vậy, không ngờ lại để mày làm lộ ra hết cả! Tao thật không thể nào hiểu nổi tại sao mình lại cho một thằng ngu như mày đi theo lâu như thế nữa.

Trong ống nghe vang lên giọng sợ sệt của Max: "Chính… chính vì ẩn mật quá… bọn họ cũng làm rất cẩn thận, lúc đi trên đường luôn quan sát xem có ai theo dõi không. Không ngờ… không ngờ… lại khiến cảnh sát Trung Quốc chú ý đến… ông chủ…"

"Cạch," Merkin dập mạnh ống nghe xuống. Nhìn điệu bộ y, như thể muốn đấm một phát cho nát bấy cái điện thoại ra vậy.

"Sao vậy hả?" Giọng Soares lành lạnh như băng cất lên trong một góc u ám.

Merkin hằn học nói: "Mất bản đồ rồi. Tấm bản đồ ấy đã rơi vào tay cảnh sát Trung Quốc. Cái thằng Max ấy đã theo tôi bao nhiêu năm, vậy mà một chút chuyện nhỏ vậy cũng không làm cho xong, thật đúng là ngu xuẩn hết chỗ nói. Còn cả đám lợn Trung Quốc được huấn luyện đặc biệt kia nữa chứ, đúng là một thằng ngu lớn dắt theo một lũ ngu nhỏ!"

Soares phì cười thành tiếng, thầm nhủ, "Không hiểu thằng cha Merkin này đang nói đám thuộc hạ hay nói chính hắn nữa." Chỉ nghe y chậm rãi nói: "Không can hệ gì, chúng ta đã nghiên cứu đi nghiên cứu lại tấm bản đồ đó bao nhiêu lần rồi, không có thì cũng vẫn tìm
Tác giả : Hà Mã
5/5 của 1 đánh giá

Bình luận

Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi
Nguyen 2 năm trước
Đã ra chap mới rồi nhé mọi người, link đây nha: bit.ly/newchap247

Truyện cùng thể loại