Mật Mã Tây Tạng
Chương 234: Cu chuyện nghìn năm trước
Đường Thọ nở một nụ cười nhiều ý nghĩa, nói: "Đương nhiên, ta đã nói rồi, cuộc chiến giữa hai thế lực lớn này bắt đầu từ rất lâu trước khi ngươi ra đời. Vả lại, ta nghĩ ngươi cũng phát hiện ra rồi, cặp mắt của nó, đặc biệt là ánh mắt ấy rất giống với một người nào đó, phải vậy không? Ở trên ta vừa mới nói xong, khi đi khắp thế giới tìm chìa khóa của địa cung Ahezt, ta đã phát hiện được một thứ không ngờ đến, thứ ấy, chính là con bé này. Ánh mắt của nó rất giống với người ấy, thoạt nhìn hết sức thuần khiết vô tội, tuyệt đối là dạng ai ai nhìn cũng thấy đáng thương hại hết."
Trác Mộc Cường Ba không sao kìm nén nổi nữa, gã bật người lao vút tới như mũi tên, gầm lên quát hỏi: "Mày biết em gái tao? Nó ở đâu?" Lần này gã phóng tới rất nhanh, Merkin cũng không kịp ngăn cản, chỉ thấy thân hình Trác Mộc Cường Ba loáng lên một cái, đã tới trước mặt Đường Thọ.
Chẳng ngờ, gã nhanh, Đường Thọ còn nhanh hơn. Trác Mộc Cường Ba vươn tay phải ra, vốn định tóm lấy Đường Thọ, hoặc trực tiếp ra đòn tấn công, nhưng Đường Thọ chỉ khẽ nhấc tay trái lên, mu bàn tay hất nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba lên cao, kế đó cổ tay trầm xuống, trước khi Trác Mộc Cường Ba kịp áp sát người vào, y đã tóm lấy cổ áo gã với tốc độ nhanh khó bề tưởng tượng, rồi thuận đà nhấc lên, giơ cả người gã cao quá đỉnh đầu. Trác Mộc Cường Ba cao hơn Đường Thọ cả một cái đầu, vậy mà y bảo nhấc gã lên là nhấc bổng lên luôn, nhẹ như không vậy.
"Vấn đề cuối cùng!" Đúng lúc Đường Thọ vừa nhấc Trác Mộc Cường Ba lên, pháp sư Á La liền mở miệng. Từ khoảng khắc khi Trác Mộc Cường Ba xông về phía Đường Thọ, pháp sư và Lữ Cánh Nam đã kinh ngạc nhận ra, Đường Thọ ra tay rõ ràng còn nhanh hơn lúc y tấn công pháp sư Á La nữa. Mà y mới chỉ dùng tay trái, rốt cuộc tốc độ cực hạn của y có thể nhanh đến chừng nào? Lúc này, bọn họ đều đã đứng trên bậc thang xoáy ốc men theo bức tường, nhưng vẫn còn cách mặt đất khoảng hai ba chục mét, nếu Đường Thọ thực sự ném Trác Mộc Cường Ba xuống dưới, chắc chắn gã không chết cũng trọng thương. Vì vậy, trong khoảng khắc ngắn ngủi chỉ bằng một tia chớp lóe lên ấy, pháp sư Á La đã thốt lên một câu nói như thế, ông đã nắm được phần nào tính cánh của tên Đường Thọ này, y thuộc loại người lúc nào cũng mang tâm thái mình là kẻ cao cao tại thượng, ngạo nghễ nhìn xuống tất thảy mọi thứ trên đời. Y cho rằng mình đã giành được thắng lợi cuối cùng, nên lúc này y đang nôn nóng giải thích cho tất cả mọi người ở đây biết toàn bộ quá trình diễn ra như thế nào, nhằm thể hiện với người khác trí tuệ cũng như sức mạnh không thể kháng cự của mình. Với thân phận của pháp sư, nếu ông biểu thị vẫn còn việc mình chưa thể hiểu nổi, nhất định sẽ thỏa mãn được lòng ưa hư vinh của y. Đọc Truyện Online Tại https://truyenfull.vn
Quả nhiên, pháp sư Á La vừa cất tiếng, cánh tay đang tóm Trác Mộc Cường Ba nhấc lên cao của Đường Thọ liền dừng lại, kế đó, y đặt Trác Mộc Cường Ba xuống mé bên kia cầu thang, bàn tay đặt lên ngực gã, nắm tay xòe rộng, đẩy một cái. Trác Mộc Cường Ba loạng choạng, lùi lại mấy bước mới đứng vững.
Không biết vì nguyên nhân gì, có lẽ Đường Thọ tạm thời không muốn giết Cường Ba thiếu gia lúc này, nhìn thấy cảnh tượng đó, tảng đá đè nặng trong lòng pháp sư Á La cững rơi xuống. Ông thở ra nhè nhẹ, hỏi: "Ta muốn biết tại sao? Ngươi tốn bao nhiêu công sức bố trí ra một kế hoạch lớn như vậy, rốt cuộc muốn có được thứ gì? Ta, chúng ta, mỗi một người đến nơi này đều có mục đích riêng. Ta và Lữ Cánh Nam là vì Thánh điển của Thánh giáo, Cường Ba thiếu gia vì tìm kiếm Tử kỳ lân, Merkin muốn tìm thấy nơi gia tộc y canh giữ, cỏn những thế lực khác đều bị báu vật trong Bạc Ba La thần miếu thu hút. Nhưng vừa nãy ta quan sát ngươi, thấy ngươi không giống bất cứ người nào ở đây. Nói thực lòng, khi lần đầu tiên nhìn thấy những món châu báu tuyệt thế này, ngay cả ta và Cánh Nam cũng không khỏi thoáng động lòng, nhưng ngươi từ đầu chí cuối, thậm chí còn không thèm để mắt đến chúng lấy một lần. mà để bố trí được cục diện này, ngươi cũng đã bỏ ra không ít, vừa nãy chính ngươi cũng nói rồi, để làm hai món đồ ngụy tác, ngươi có thể tùy tiện bỏ ra mấy chục triệu, có thể khẳng định, ngươi không đến đây vì vàng bạc châu báu. Ta nghĩ, ngươi cũng không phải đến vì Thánh điển của giáo phái chúng ta, vậy... ngươi... rốt cuộc có mục đích gì?"
Lúc này, Đường Thọ vẫn mặt đối mặt với Trác Mộc Cường Ba. Y dịu giọng nhẹ nhàng khuyên giải Trác Mộc Cường Ba: "Đừng xung động, chúng ta làm việc bao giờ cũng phải nghĩ ngợi cho kỹ, phải có phong độ, phải đường hoàng quân tử, chớ nên động một chút là dùng bạo lực bừa bãi, Cường Ba thiếu gia, ta khuyên ngươi nên bình tĩnh, những kẻ xung động xưa nay đều phải chết trước, vả lại còn liên lụy đến đồng bạn của hắn nữa kìa."
Trác Mộc Cường Ba đã bình tĩnh lại, từ giây phút bị Đường Thọ một tay nhấc bổng lên quá đầu, gã đã bắt đầu bình tĩnh lại. Bởi gã đột nhiên nhận ra, khi mình đối mặt với Đường Thọ, cảm giác cũng hệt như khi đối mặt với Lữ Cánh Nam lần đầu tiên lúc vừa gia nhập trại huấn luyện vậy, đó là một thứ cảm giác bất lực, mỗi động tác của gã, mỗi suy nghĩ của gã, dường như đều bị đối phương biết trước cả rồi.
Thấy Trác Mộc Cường Ba không có dấu hiệu cuồng nộ tiếp tục tấn công, Đường Thọ mới quay sang phía pháp sư Á La gật nhẹ đầu, lớn tiếng nói: "Hỏi hay lắm!"
Hành động tấn công của Trác Mộc Cường Ba khiến cả đội ngũ phải dừng lại, lúc này gã đã bị Đường Thọ đi trước đích thân áp giải, đoàn người lại tiếp tục đi xuống các bậc thang. Tranh thủ lúc pháp sư Á La hỏi Đường Thọ, Lữ Cánh Nam khẽ nhúc nhích bàn tau đặt sau lưng, từ chỗ eo hông ló ra ba ngón tay, đồng thời liếc mắt nhìn sang phía Merkin một cái, dùng ngón tay thể hiện loại mật mã mà chỉ có lính đặc chủng mới hiểu được: "Lúc này, chúng ta cần bắt tay chống lại kẻ địch chung."
Merkin thấy bọn lính đánh thuê không chú ý đếi y và Lữ Cánh Nam, mới đáp lại: "Hắn rất mạnh, chúng ta không phải là đối thủ." Đồng thời, khóe mắt y lại liếc về phía Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La, ngầm ám thị: "Nếu không có bọn lính đánh thuê này, bốn chúng ta liên thủ, may ra có thể liều với hắn một phen."
Lữ Cánh Nam nhíu mày, chìa ra ba ngón tay, ý bảo. "Chỉ có ba người, pháp sư Á La đã bị thương nặng."
Sắc mặt Merkin trở nên khó coi, y ngoảnh đầu thầm nhủ: "Người mạnh nhất đã bị thương nặng, vậy thì hết trò rồi. Tên Đường Thọ này đâu có cùng một bậc vớichúng ta."
Lữ Cánh Nam cũng đang nghĩ: "Hắn vừa ra tay liền làm pháp sư Á La trọng thương, chắc chắn từ đã cps tính toán từ trước, mưu kế của tên Đường Thọ này quả thực rất đáng sợ."
Đường Thọ đi trước nói: "Những thứ vàng bạc, châu báu, ngọc ngà ấy, giá trị của chúng, thực ra là do nhân loại các ngươi ban cho mà thôi..."
Pháp sư Á La nhíu mày không nói gì, tên Đường Thọ này, lại nói với cái giọng đó, mở mồm ra là: "Nhân loại các ngươi, nhân loại các ngươi... ", nói như thể hắn không phải 1à con người vậy.
Đường Thọ không biết tâm tư của pháp sư Á La, 1ại tiếp tục dương dương tự đắc nói: "Rốt cuộc giá trị của chúng như thế nào chứ? Giả sử trên thế giới này không có người, giá trị của mấy cục đá vụn ấy trong mắt một con mèo, một con lợn rừng thậm chí còn không bằng một con chuột đồng hay một củ khoai tây. Tại sao phải để mắt đến chúng? Lại còn phải tỏ ra hân hoan sung sướng nữa chứ? Ngay cả trong gỉá trị quan của con người các ngươi, khi tiền tài tích lũy đến một mức độ nhất định, cũng sẽ biến thành một đống chữ số chẳng có ý nghãi gì cả, không phải vậy sao? Vả lại, lựa chọn giá trị của vật phẩm thực chất hay hư ảo, luôn luôn chỉ là tương đối, nếu nói bảo thạch có màu sắc đẹp mê hồn người, thủy tinh cũng thế, ta thậm chí có thể dùng thủy tinh tạo ra những màu sắc rực rỡ lung linh hơn nữa, vậy tại sao thủy tinh lại rẻ như thế? Vì nó nhiều. Thế nên, phán đoán giá trị vật chất của con người, nhân tố quyết định đầu tiên chính là số lượng, kế đó mới là sự kích thích nó mang lại cho các giác quan. Còn về chuyện lấy vật đổi vật và nguyên lý đồng giá, là chuyện sau khi con người có được thể chế văn minh rồi. Giá trị quan của ta, chính là hình thái nguyên thủy nhất của sinh vật. Thứ này, có thể nhét đầy bụng hay không, có thể khiến ta ngủ ngon giấc hay không, có thể làm vũ khí, săn bắt mồi được hay không... những thứ ấy, mới có giá trị. Ừm, ta nói xa quá rồi..."
Đường Thọ nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, đột nhiên hỏi: "Các có biết, trên thế giới này có một loại bệnh dịch, tỷ lệ tử vong là một trăm phần trăm, đáng sợ hơn nữa là, nó không thể dự phòng, càng không có vác xin gì cả, đến nỗi khi nhắc đến loại bệnh dịch này, người người đều phải biến sắc không?"
Nói tới đây, y nheo nheo mắt ngoái đầu lại, ánh mắt lướt qua tất cả mọi người, quan sát bộ dạng trầm ngâm suy nghĩ của họ. Trác Mộc Cường Ba, Lữ Cánh Nam mấy người đều không hiểu Đường Thọ tự dưng hỏi câu này là có ý gì, cả Merkin và Đường Mẫn cũng ngây người ra, không biết Đường Thọ rốt cuộc định nói gì.
Đường Thọ dường như đọc được suy nghĩ của mỗi người bọn họ, lần lượt phủ định: "Không phải bệnh AIDS, bệnh AIDS có thể dùng liệu pháp cocktail(46) để kéo dài sinh mạng; không phải bệnh chó dại, bệnh chó dại trong một khoảng thời gian nhất định vẫn có thể trị liệu, vả lại vắc xin bệnh này đã rất hoàn thiện rồi; bệnh dịch hạch cũng thế, Cái Chết Đen từng uy hiếp cả châu u giờ đây đã không thể gây sóng gió được nữa; cũng không phải bệnh ung thư, bệnh ung thư có quá nhiều loại, vả lại tỷ lệ sống sót của người bệnh cũng phụ thuộc vào chủng loại ung thu khác nhau. Để ta gợi ý cho các ngươi một chút vậy, thứ bệnh này bắt nguồn từ châu u, nổi danh là nước Anh, la do con người tạo ra."
Thấy Merkin thoáng biến sắc mặt. Đường Thọ lập tức chỉ vào y, gật đầu nói: "Đúng rồi, chính là thứ mà ngươi vừa nghĩ đến đấy, bệnh bò điên. Nghiên cứu y học hiện nay đã chứng thực, đó là một loại bệnh gây ra bởi prion(47). Prion thực ra không phải là virus gây bệnh, nó còn nhỏ hơn cả virus, đơn giản hơn, khó đề phòng và phát hiện hơn, nguyên lý hoạt động của nó lại càng phức tạp và khó lý giải hơn gấp bội. Các học giả nước ngoài phân nó vào 1oại hình á virus, còn học giả trong nước thì cho rằng gọi là virus cũng không chuẩn xác, nên gọi là hạt protein mang tính truyền nhiễm mới đúng. Kích thước của prion chỉ khoảng từ ba mươi đến năm mươi nanomet. không có axit nucleic, không có màng tế bào, thậm chí dùng kính hiển vi điện tử cũng không thể nhìn rõ kết cấu của nó. Nhưng nó có thể khiến protein biến đổi về chất, lại mang tính truyền nhiễm và di truyền. Cùng với việc đi sâu nghiên cứu, người ta phát hiện ra, loại vi sinh vật còn nhỏ hơn cả virus này có sức đề kháng kinh người đối với các nhân tố vật lý và hóa học, đồng thời cũng có sức chịu đựng rất cao đối với tia tử ngoại chiếu xạ, sóng siêu âm, bức xạ điện ly hay nhiệt độ trên một trăm độ C. Ngoài ra, nó cũng gần như vô hình trước các loại thuốc thử hóa học hay thuốc thử sinh hóa hiện nay. Còn về mặt miễn dịch học, tuy rằng đại thực bào(48) cũng có tác dụng phòng ngừa nhất định, nhưng trong prion lại không thể phát hiện được sự tồn tại của kháng thể dị tính, nó sẽ không kích hoạt các Interferon(49), và cũng không bị ảnh hưởng bởi chúng. Điểm mấu chốt nhất là, vị trí mà chúng ảnh hưởng trên cơ thể sinh vật tương đối đặc thù, nó chủ yếu xâm chiếm, chỗ này!"
Đường Thọ co ngón tay lại thành hình khẩu súng lục, đầu ngón tay chỉ vào huyệt thái dương của mình, sau đó nói: "Nó ảnh hưởng đến não bộ và hệ thống thần kinh, sinh vật nào mắc phải loại bệnh này trước tiên sẽ biểu hiện qua trạng thái thần kinh, sợ hãi, dễ nổi giận, căng thẳng, điên loạn... Kế đó bắt đầu xuất hiện những động tác dị thường, mất thăng bằng, ăn uống bài tiết thất thường, cơ bắp run rẩy, cuối cùng là suy giảm chức năng của các giác quan, vị giác, khứu giắc, rồi thị giác, thính giác, xúc giác đều biến mất. Khi phát bênh, con bò vốn ngoan ngoãn hiền lành sẽ trở nên điên loạn, tấn công bừa bãi, nên mới gọi là bệnh bò điên. Danh pháp y học của nóm gọi là bệnh viêm não thể bọt biển ở bò. Đáng sợ nhất là, trước khi phát bệnh, còn có một thời kỳ ủ bệnh, vói trình độ khoa học kỹ thuật và y học hiện nay, gần như không thể phát hiện ra prion gây bệnh trong thời kỳ ủ bệnh này. Mà một khi đã xuất hiện triệu chứng của bệnh, đa số sinh vật sẽ tử vong trong vòng ba tháng, không thể chữa trị."
Sắc mặt mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đều sầm xuống, mặc dù họ vẫn chưa hiểu rốt cuộc Đường Thọ muốn nói điều gì, nhưng thứ mà y học và khoa học kỹ thuật hiện đại không thể phát hiện ra, ngoài prion gây bệnh kia ra, cổ độc không phải cũng vậy ư? Liệu hai thứ này có gì liên quan hay không?
Đường Thọ lại đổi chủ đè câu chuyện, hỏi: "Các ngươi có biết, bệnh bỏ điên bắt nguồn từ đâu hay không? Vào thế kỷ trước, kinh tế đang trong giai đoạn hồi phục, các chủ nông trường châu u vì muốn được lợi nhiều nhất, đã đem xương và nội tạng của những con bò bị giết lấy thịt nghiền thành bột, rồi dùng để làm thức ăn cho những con khác trong đàn. Đột nhiên người ta phát hiện, ở những con bò ấy xuất hiện các triệu chứng kỳ quái, đồng thời bắt đầu lây lan trên diện rộng, đây chính là căn nguyên của bệnh bò điên mấy năm trước. Thực ra, trước khi có bệnh bò điên, còn có bệnh dê điên, bệnh ngựa điên, bệnh hươu điên, chỉ là người ta không thể phát hiện ra cơ chế phát bệnh mà thôi. Đối với cơ chế phát bệnh cửa bệnh bò điên nảy, cũng có rất nhiều suy đoán và cách giải thích khác nhau. Có người nói, con người cưỡng chế thay đổi tập tính của động vật ăn cỏ, cuối cùng dẫn đến protein trong tế bào của loài động vật này bị biến dị, hình thành bệnh dịch truyền nhiễm; cũng có người nói, trong tủy và não bộ, có chứa vật chất gây thay đổi trật tự mã gene; ngoài ra, còn rất nhiều giả thuyết kỳ quái khác nữa. Nhưng nói thế nào, về cơ bản mọi người vẫn công nhận rắng, lũ bò phát bệnh là do ăn nội tạng và xương cốt của đồng loại. Nếu như, chủ thể của bệnh bò điên này đổi lại thành con người, người cảm thấy sẽ như thế nào?"
"Con người?" Lữ Cánh Nam thấy sống lưng lạnh toát, lẩm bẩm nói: "Ý ngươi là... người ăn thịt... người... "
Đường Thọ nói với giọng hơi bất mãn: "Đừng làm ra vẻ kinh hoàng như vậy chứ, ăn thịt người cũng đâu phải chuyện gì đáng sợ. Từ mấy vạn năm trước, khi tổ tiên loài người vẫn chưa đứng trên đỉnh của chuỗi sinh vật, con người thường xuyên trở thành thức ăn của các loài động vật ăn thịt khác. Khi thức ăn trở nên thiếu thốn, lại không thể săn bắt được các loại động vật khổng lồ, thứ bọn họ ăn nhiều nhất, chính là đồng loại của mình. Về sau, xã hội loài người trở nên văn minh hơn, nhưng trong những năm đói kém nhất, hoặc khi bị vây khốn bởi ngọn lửa chiến tranh, người ăn thịt người cũng là chuyện thường thấy. Vả lại, trong Trung y có một vị thuốc gọi là Tử hà xa(21), chẳng phải đến bây giờ người ta vẫn ăn đều đều đấy sao?" Nói tới đây, y đột nhiên bật cười: "Có điều, trong quá trình truyền thừa và phát triển cửa loài người, cũng xuát hiện vài nhánh rẽ, phát triển ra một số dân tộc đặc biệt. Trên thế giới, đến giờ vẫn còn một số chủng tộc coi việc ăn thịt người như một tập tục, hình thành nên một văn hóa ăn thịt người độc đáo. Những dân tộc này, có một danh xưng thống nhất, được gọi là... những kẻ ăn thịt người'"
Đường Thọ lạnh lùng nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba đang thẫn thờ kinh ngạc, dí dỏm nói: "Kinh ngạc lắm sao? Bộ tộc Qua Ba mà các người trước nay vẫn nghiên cứu và kiếm tìm, chính là một bộ tộc ăn thịt người. Có điều, không giống với các bộ tộc ăn thịt người ở châu Mỹ, châu Phi, châu Đại Dương, họ không phải loại bắt được người liền giết mổ ăn thịt, ngược lại, họ chỉ ăn một loại ngươi, chính là thân nhân của mình. Sau khi người Qua Ba chết già hoặc chết bệnh, con cái họ sẽ chia thi thể ra ăn hết, ăn càng sạch sẽ thì càng tỏ được lòng hiếu thuận với cha mẹ. Giống như một nghi thức mai táng long trọng bây giờ, bọn họ cũng phải cử hành một nghi thức, đây chính là tập tục mai táng được tranh cái nhiều nhất trong truyền thuyết... vị táng. Trong tín ngưỡng của người Qua Ba, linh hồn và nhục thể của con người gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời, khi người thân qua đời, nhục thể sẽ từ từ thối rữa, một phần linh hồn của người chết bám trên nhục thể thối rữa ấy cũng sẽ bị cầm cố và giày vò, vì vậy, bọn họ liền xẻ thịt người thân ra ăn vào trong bụng. Như thế, linh hồn của người thân sẽ vính viễn ở bên linh hồn của họ, mà trên cơ thể những người thân đã qua đời ấy, lại cũng có linh hồn của tổ tiên họ. Vì lẽ đó, trên thân thể mỗi người trong bộ tộc Qua Ba đều có linh hồn của toàn bộ tổ tiên họ. Họ mang theo linh hồn của tổ tiên đi khắp thế gian, dù làm việc gì cũng đều có tổ tiên coi sóc, chúc phúc. Còn một phần linh hồn của người chết ở trên xương cốt, vì vậy họ đem xương cốt của người thân làm các dụng cụ, như bát, hộp đựng thức ăn, đồ trang sức đeo bên người, hoặc cácloại nhạc khí... Như vậy. linh hồn của tổ tiên luôn luôn ở bên cạnh họ. Còn chuyện tập tục này sinh ra từ đâu, truyền thừa xuống như thế nào thì không ai biết được nữa..."
Trong đầu Trác Mộc Cường Ba chợt lóe lên một ý nghĩ, gã lập tức nói: "Sống chung với sói! Đây là tập tính của loài sói! Có lẽ tập tục này bắt nguồn từ lũ sói, còn về tín ngưỡng tinh thần kia... người Kukuer!" Gã nhớ đến bộ tộc Kukuer trong rừng rậm Nam Mỹ, nhớ đến những bộ lạc ăn thịt người ở đó, họ cũng có tín niệm tương tự như vậy, lẽ nào là sự trùng hợp? Hay chính vị sứ giả đến Cổ Cánh kia mang tín ngưỡng và quan niệm này đến châu Mỹ? Điều này phải chăng có liên hệ nào đó với sự suy tàn của nền văn minh Maya?
Đường Thọ vỗ vỗ tay nói: "Được rồi, lại nói lan man đi xa quá, thực ra điều ta muốn nói la, trước khi bệnh bò điên nổi tiếng toàn thế giới, loại bệnh này được phát hiện sớm nhất là ở một bộ lạc ăn thịt người trên một quẩn đảo ở châu Đại Dương. Bộ lạc này cũng có tập tục tương tự tập tục vị táng của người Qua Ba, nội tạng và thịt củn người chết đều bị họ hàng thân thích chia nhau ăn sạch. Trong bộ lạc ăn thịt người này, đôi lúc xuất hiện những người có bệnh trạng tương tự như bệnh bò điên, tinh thần căng thẳng cực độ, dễ nổi giận, cứ ham muốn tấn công rất mạnh, cơ bắp co giật, run rẩy, hành vi và ngôn ngữ dần trở nên thất thường, kế đó là đi lại không vững, phát âm kỳ dù ăn bao nhiêu cũng vẫn luôn cảm thấy đói khát, thân thể ngày một gầy guộc, dần dần không còn cám giác, cuối cùng thì tử vong. Khi có người mắc phảỉ bệnh này, những thổ dân ấy cho rằng kẻ đó đã bị thần Kuru bám vào, đồng thời họ cũng biết, một khi thần Kuru xuất hiện, thần sẽ hút đi linh hồn của kẻ xấu số, con người không thể nào kháng cự nổi. Về sau, loại bệnh này được liệt vào danh sách các bệnh con người có thể mắc phải, và được đặt tên theo cách phát âm của người địa phương, gọi là bệnh Kuru."
Pháp sư Á La điềm tĩnh cất tiếng: "Ý của ngươi là,, người Qua Ba cũng mắc bệnh Kuru?"
"Ừm, không phải," ĐườngThọ nói: "Bệnh Kuru thực ra không đáng sợ, tuy không thuốc nào chữa được nhưng tính truyền nhiễm của nó rất thấp, ngay cả trong bộ tộc ăn thịt người, số người mắc bệnh này cũng chiếm số lượng rất nhỏ. Vả lại, chỉ cần không ăn thịt người mắc bệnh, không truyền máu hoặc cấy ghép cơ quan thì gần như không bị truyền nhiễm. Vả lại, ta cũng không có chứng cứ nào chứng minh rằng trong bộ tộc Qua Ba nhất định có người mắc bệnh Kuru. Ta chỉ nói rằng, bọn họ và bộ tộc ăn thịt người mắc phải bệnh Kuru kia có tập tục gần giống nhau, vì vậy có khả năng sẽ có người mắc chứng bệnh tương tự như vậy, chỉ thế mà thôi."
Bọn Trác Mộc Cường Ba lấy làm nghi hoặc, nếu đã không thể khẳng định người Qua Ba có mắc bệnh Kuru hay không, vậy ngươi nói ra làm cái quái gì? Chợt nghe Đường Thọ đổi giọng, nói: "Nhưng các ngươi đừng quên rằng, người Qua Ba còn một thân phận khác, bọn họ chính là... đạo quân Ánh sáng!"
Gương mặt Đường Thọ lộ vẻ khao khát: "Chắc hản các ngươi đã tìm hiểu được phần nào về Đạo quân Ánh sáng rồi. Bọn họ chính là một dạng bộ đội đặc chủng trong quân đội thời xưa. Thực ra, gọi như vậy cũng không hoàn toàn chính xác. Đọa quân Ánh sáng là một đơn vị lớn, có lẽ gần tương đương với cơ quan chuyên nghiên cứu phát triển trong quân đội ngày nay hơn. Một loạt các kỹ thuật như cổ độc, kỹ thuật điều khiển và khống chế thú vật, thuật cơ quan, thuật sử dụng hóa dược và việc nghiên cứu chế tạo vũ khí nóng, thuật dự báo, điều khiển thời tiết, phẫu thuật ngoại khoa, thuật chiến đấu cận thân... đều là để phục vụ cho chiến tranh. Mục đích tồn tại của họ chính là để phục vụ mục tiêu thống nhất thiên hạ của quân vương. Năm đó, họ nắm trong tay tư liệu sản xuất cũng như các lý luận học thuật tiên tiến nhất thế giới thời bấy giờ, thậm chí một số kỹ thuật cổ xưa đã thất truyền cũng được Đạo quân Ánh sáng tìm lại nghiên cứu một cách thấu triệt. Trình độ khoa học kỹ thuật và các thủ đoạn phục vụ chiến tranh của họ đã vượt lên trên thời đại đó, nhiều lúc ta thử nghĩ..." Đường Thọ đột nhiên nở một nụ cười thần bí, nói: "Nếu như, chỉ là nếu như thôi, năm đó trong bộ tộc Qua Ba, vừa khéo cũng có người mắc phải bệnh Kuru. Vậy thì, Đạo quân Ánh sáng đầy tinh thần nghiên cứu kia, sẽ có thái độ như thế nào với căn bệnh này nhỉ?"
Bọn Trác Mộc Cường Ba thảy đều biến sắc, nói theo cách của Đường Thọ, Đạo quân Ánh sáng được lập nên vì mục đích thống nhất thiên hạ của quân vương. Vậy thì, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, điều đầu tiên bọn họ nghĩ đến sẽ là làm sao để lợi dụng được căn bệnh không thuốc nào chữa nổi này trong chiến trang. Lúc này, họ đã đi được hai phần ba cầu thang hình xoáy ốc, Đường Thọ nhìn xuống dưới, mỉm cười nói: "Để ta kể cho ngươi nghe một câu chuyện, nghe xong câu chuyện này, các ngươi sẽ hiểu được tất cả."
.
HẬU DUỆ VU VƯƠNG(50)
.Nói tới đây, Đường Thọ ngừng lại một chút như thể đang sắp xếp lại ý tứ trong đầu, rồi chầm chậm tiếp lời: "Từ rất lâu, rất lâu trước đây, có một bộ lạc nhỏ, bọn bọ sống chung với bầy sói, kế thừa sự hung hãn và đoàn kết của loài sói. Họ có tín ngưỡng của mình, họ sùng bái bốn vị Vu vương, họ cho rằng, toàn bộ người trên cao nguyên này đều là hậu duệ của bốn vị Vu vương đó. Bốn vị Vu vương, chính là thủy tổ của người cao nguyên. Vì vậy, hậu duệ trực hệ của bốn vị Vu vương ấy ở trong bộ lạc này luôn được hưởng đãi ngộ giống như Vu vương vậy. Vả lại, thủ lĩnh và lãnh tụ tinh thần của bộ lạc này cũng đều do bốn vị Vu vương luân lưu đảm nhận. Ban đầu, họ chỉ là một bộ lạc nhỏ ở vương triều Tượng Hùng, cũng không biết họ kiếm đâu ra bốn vị được gọi là hậu duệ trực hệ của Tứ đại Vu vương kia nữa, hoặc có thể đây chỉ là câu chuyện do bốn kẻ muốn làm thủ lĩnh bịa ra không chừng. Chuyện này dẫu sao cũng không còn quan trọng nữa. Tóm lại, có một bộ lạc như thế, thủ lĩnh của họ được gọi là Tứ đại Vu vương, các ngươi chỉ cần nhớ như vậy là đủ."
"Vốn dĩ, nếu không có đại sự gì xảy ra, bộ lạc nhỏ này sẽ cùng với những người bạn sói của họ tiếp tục sống một cách bình lặng, đi săn bắn, trồng trọt, sinh con đẻ cái, hoặc giả đến một ngày nào đó, họ sẽ bị bộ lạc khác thôn tính, hay vì nhân khẩu mỗi ngày một ít đi mà tự biến mất khỏi thế gian. Thế nhưng, đúng vào lúc này, trên cao nguyên lại xuất hiện một người trẻ tuổi kiệt xuất, lập chí trong những năm tháng mình sống trên đời phải thống nhất toàn bộ cao nguyên về tay. kẻ địch lớn nhất của y chính là vương triều lớn mạnh nhất trên cao nguyên thuở bấy giờ, vương triều Tượng Hùng. Muốn đánh bại Tượng Hùng, y phải sở hữu một đội quân có thể đánh bại quân đội của Tượng Hùng. Khi ấy, một quý tộc phản loạn trốn chạy từ Tượng Hùng đã tiến cử bộ lạc nhỏ này với vị quân vương trẻ tuổi, nói với y rằng bọn họ sống chung với sói, thiên tính hung hãn, không sợ chết, lại không được vương triều Tượng Hùng coi trọng, nếu có thể khéo léo lợi dụng bộ lạc này một cách hiệu quả, ắt sẽ lập được một cánh quân mạnh mẽ nhất."
"Nhất định các ngươi sẽ thấy rất kỳ quái, tại sao lại không phát hiện sự tồn tại của một đạo quân mạnh mẽ như vậy trong bất cứ ghi chép lịch sử nào? Có rất nhiều nguyên nhân, thứ nhất, đạo quân này được thành lập dựa trên kiến nghị của hai dòng họ quý tộc đã phản bội vương triều Tượng Hùng là Nương thị và Vi thị, sau này việc xây dựng đội ngũ, huấn luyện, thống lĩnh cũng do hau gia tộc này chia nhau đảm nhận. Vị quân vương của cao nguyên kia hiểu rất rõ, Nương thị và Vi thị trung thành với mình, khi mình còn sống, bọn họ tuyệt đối không dám có những hành vi bội phản, nhưng vạn nhất đến một ngày, mình không còn nữa thì sao? Đạo quân Ánh sáng là một thanh kiếm sắc bén tột cùng, dùng để dối phó kẻ địch thời đánh đâu thắng đó, nhưng nếu kẻ nào có dụng tâm chĩa con dao đồ tể này về phía hậu duệ của mình, hậu quả thật khó bề tưởng tượng. Lúc đó, cao nguyên vừa được bình định, việc kiến lập vương triều mới phải dựa rất nhiều vào hai thế lực lớn Nương thị và Vi thị, muốn xóa sổ hai gia tộc lớn này ngay thời điểm đó, dù là thời gian hay quân bị đều không cho phép. Vì vậy, khi thành lập Đạo quân Ánh sáng, vị quân vương trí tuệ siêu quần ấy đã đưa ra một quyết định cực kỳ sáng suốt: người ra lệnh là quân vương, thống lĩnh quân đội do người của hai nhà Nương thị và Vi thị thay nhau đảm nhận, tín ngưỡng và lãnh tụ tinh thần của bộ tộc Qua ba đều bảo lưu lại. Như thế, quân quyền, vương quyền và thần quyền hình thành cơ chế tam quyền phân lập, ước thúc lẫn nhau, đạt được một trạng thái cân bằng nhất định. Có lẽ, tính toán của vị quân vương kia là, sau khi hoàn toàn bình định cao nguyên, nghỉ ngơi dưỡng sức dần, đợi vương triều lớn mạnh, mới bắt tay triệt để giải quyết vấn đề quy thuộc của Đạo quân Ánh sáng, nắm lấy thanh kiếm sắc bén nhất này về tay vương tộc. Đáng tiếc, trời cao không cho ông ta nhiều thời gian như thế, vì vậy cơ chế tam quyền phân lập độc đáo của Đạo quân Ánh sáng vẫn được bảo tồn mãi. Đồng thời, hai gia tộc Nương thị và Vi thị cũng dần dần sinh sôi nảy nở, liên hôn với vương thất Thổ Phồn, cuối cùng bén rẽ gắn chặt với cây đại thụ lớn nhất của vương triều Thổ Phồn, đến mức không thể tách rời. hai đại gia tộc này vẫn luôn là hai gia tộc lớn mạnh nhất vương triều Thổ Phồn, cho đến khi vương triều này bị diệt vong."
"Chính vì cơ chế tam quyền phân lập này, dưới dụng tâm và tính toán của các bên khác nhau, Đọa quân Ánh sáng dần dần thoát ly khỏi chiến tranh chính quy, chuyển hướng thành một đội quân chuyên thực hiện nhiệm vụ ám sát. Hai đại gia tộc họ Nương và họ Vi đã nhiều lần dùng Đạo quân Ánh sáng như một con dao găm sắc bén để tiêu trừ vây cánh của các thế lực đối địch trên chính trường, thậm chí còn chĩa mũi dao vào nhau. Trong cuộc đấu tranh giữa Phật giáo và Bản giáo ở Thổ Phồn, việc thuyết giảng đạo lý là của các vị đại đức cao tăng Phật giáo và Bản giáo, còn ra tay lại là chức trách của Đạo quân Ánh sáng. Sau này, vô số cuộc khởi nghĩa của nông nô cũng do hai bàn tay nhuốm đầymáu tanh của Đạo quân Ánh sáng đi giải quyết. Lúc này, lãnh tụ tinh thần của Đạo quân Ánh sáng, Tứ đại Vu vương bắt đầu nghĩ lại về ý nghĩa tồn tại của cánh quân này? Lẽ nào Đạo quân Ánh sáng tồn tại để hủy diệt tất cả? Sinh ra vì chiến tranh, tồn tại vì chiến tranh, điều này thực ra lại mẫu thuẫn với tín ngưỡng nguyên bản của họ. Bọn họ theo đuổi đạo tự nhiên, sống chung vơi sói là vì họ coi sói như bạn, họ cho rằng, sói và người nên có địa vị ngang hàng, cả hai loài đều là những thợ săn ưu tú nhất, đều là những đoàn thể xã hội đoàn kết và hài hòa nhất. Mặt khác, quân vương và các thống lĩnh quân đội lại yêu cầu Đạo quân Ánh sáng phải không ngừng mạnh lên, những kỹ thuật tiên tiến nhất, những cổ thuật đã thất truyền của các nước đều tập trung về chỗ Đọa quân Ánh sáng, các phương pháp huấn luyện vô nhân đạo nhất đều được áp dụng lên bọn họ, thậm chí trẻ sơ sinh vừa ra đời cũng phải tiến hành những khảo nghiệm nghiêm khắc về thể chất, vừa mới học đứng đã phải ở giữa trời đất băng giá tiếp nhận khiêu chiến cực hạn sức chịu đựng của con người. Chẳng những vậy, họ còn được yêu cầu chế tạo ta các loại thuốc khác nhau, có thể biến cơ thể người trở nên mạnh mẽ hơn,cũng có thể khiến người ta biến thành kẻ điên cuồng. Do yêu cầu của các đời quân vương, Đạo quân Ánh sáng không ngừng nghiên cứu một loại vũ khí siêu mạnh, loại vũ khí này chỉ cần một người điều khiển, một khi ra tay liền gay ra cái chết của hàng nghìn hàng vạn người, thậm chí nhiều hơn nữa, tốt nhất là chỉ có ảnh hưởng đến cơ thể người, còn kiến trúc và vũ khí đều có thể giữ lại hoàn hảo. Đạo quân Ánh sáng từng nghiên cứu ra vũ khí nóng có thể gây sát thương trên diện rộng, nhưng vẫn không đạt yêu cầu của quân vương, bọn họ liền chuyển hướng sang những sinh vật nhỏ mà mắt thường không thể nhìn thấy, đó chính là: cổ độc."
"Không ai biết được rốt cuộc họ đã tiến hành nghiên cứu như thế nào, nhưng ta có thể khẳng định một điểm, cuối cùng họ đã thành công. Dựa theo miêu tả trong thư tịch cổ, đó là một thứ vật chất dạng bột phấn, có thể lan truyền qua không khí, dòng nước, thức ăn... Nước sôi, cường toan, chất kiềm mạnh đều không thể hủy diệt, cũng không có bất cứ phương pháp nào có thể trị liệu chứng bệnh do nó gây ra. Đặc biệt nhất là, nó là vật sống, khi xuất hiện một loại vật chất nào đó có thể gây hại với nó, nó sẽ tự thay đổi và điều chỉnh bộ máy phòng ngự, nếu sử dụng laoij vật chất kia với nó lần thứ hai, sẽ hoàn toàn vô hiệu. Chẳng những vậy, nhờ nỗ lực không ngừng nghỉ của Đạo quân Ánh sáng, loại vật chất này đã được chứng thực chỉ có hiệu quả với cơ thể người, hoàn toàn không gây hại với bất kỳ giống loài nào khác. Nhưng các loài động vật có vú sẽ trở thành kẻ mang mầm bệnh, có thể tiến hành lây lan truyền nhiễm trên diện rộng. Khi loại vật chất này xâm nhập vào cơ thể người, chúng sẽ lập tức biến cơ thể ấy thành môi trường để sinh sôi nảy nở. Sau vô số lần thực nghiệm và điều chỉnh, Đạo quân Ánh sáng đã khiến loại vật chất ấy trước tiên xâm nhập vào phổi và đường hô hấp của con người, như bậy, khi người nhiễm bệnh nói chuyện hay hít thở, đều có thể lây lan chúng sang cơ thể khác. Đồng thời, bài tiết, giao hợp, truyền máu... đều là những con đường lây nhiễm của loại vật chất này; sau khi xâm nhập, chúng sẽ tiến vào hệ thống thần kinh và sinh sôi nảy nở trong tế bào thần kinh, khiến các cảm quan của người mắc bệnh dần biến mất, cuối cùng xâm nhập đại não, khiến người đó trở nên điên loạn và chết trong đau đớn. Chẳng những vậy, dù kẻ mắc bệnh không chết ngay, thì đại não cũng bị tổn thương nghiêm trọng, biến kẻ đó thành một sinh vật hình người không còn chút trí tuệ nào. Tuy rằng, trong cơ thể loại sinh vật hình người này, vật chất kia đã mất đi đặc tính truyền nhiễm qua đường hô hấp và các con đường khác, nhưng nó vẫn có thể thông qua di truyền, khiến đời sau, đời sau nữa, thậm chí là sau sau nữa của người mắc bệnh cũng bị khiếm khuyết về trí lực."
"Có điều, thành công này đã khiến họ phải trả một cái giá cực kỳ nặng nề. Vào thời điểm Đạo quân Ánh sáng thí nghiệm thành công, bọn họ cũng phát hiện ra khuyết điểm của loại vật chất này. Nó không phân biệt địch hay ta, cũng không thể đề phòng, chỉ cần là người là sẽ bị nó ảnh hưởng. Vì vậy, khi người đầu tiên nghiên cứu loại vật chất này xuất hiện triệu chứng căng thẳng thần kinh, dễ nổi giận, bắt đầu tấn công người khác... thảm kịch liền xảy ra. Một phần tư Đạo quân Ánh sáng đã bị xóa sổ trên thế gian này chỉ trong chớp mắt. Các ngươi phải biết rằng, với tư cách là một cá thể chiến đãu, mỗi một người trong Đạo quân Ánh sáng đều cực kỳ mạnh mẽ, ngay cả những người làm công tác nghiên cứu cũng không ngoại lệ."
"À, phải rồi," Đường Thọ dường như đột nhiên nhớ ra điều gì đó, giọng nói cũng phảng phất chút hoài niệm: "Không phải các ngươi từng đến Đảo Huyền Không tự đó sao? Ta thì không dám đến chỗ đó, vì theo ghi chép trong thư tịch cổ, đó là nơi Đạo quân Ánh sáng tiến hành huấn luyện và nghiên cứu. Khi tin tức có người xuất hiện triệu chứng của căn bệnh truyền đến tai Tứ đại Vu vương, bọn họ liền quyết đoán hạ lệnh cách ly toàn bộ Đảo Huyền Không tự khỏi thế gian. Nghĩ lại, cảnh tượng năm xưa chắc hẳn là thảm liệt lắm."
Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba sau cùng đã hiểu ra, tại sao lối vào Đảo Huyền Không tự lạỉ bị chôn lấp dưới mấy chục mét đất sâu, dây xích vắt qua khe sâu dưới lòng đất cũng bị chặt đứt. Những bộ xương khô chất đầy như núi sau cánh cửa, những vết máu vương vãi, tất cả đều lặng lẽ lẽ thuật lại một đoạn lịch sử bị lãng quên. Nghĩ tới đây, cả mấy người đều cảm thấy không rét mà run.
Đường Thọ lại tiếp tục nói; ''Sau khi rút kinh nghiệm xương máu, các Vu vương của bộ tộc Qua Ba bắt đầu nghĩ lại, rốt cuộc vận mệnh của bộ tộc họ sẽ như thế nào? Vả lại, họ cũng cho rằng, những thành viên chưa xuất hiện triệu chứng trong Đạo quân Ánh sáng cũng nhất định đã bị truyền nhiễm, việc xuất hiện chứng trạng chỉ là vấn đề sớm muộn mà thôi. Vì vậy, bọn họ đã quyết định cách ly toàn bộ Đạo quân Ánh sáng, chuyển dời đến một nơi hoàn toàn cách biệt với thế gian mà họ tìm ra. Nơi ấy, chính là... Shangri-la trong truyền thuyết. Đồng thời, Tạng vương đời cuối Lãng Đạt Ma khi ấy cũng đang mài dao mài kiếm, chuẩn bị triển khai một cuộc đại đồ sát với Phật giáo, các vị Vu vương nhìn xa trông rộng sớm đã dự liệu được hậu quả của hành động này. Đồng thời, bọn họ cũng hiểu rõ, không có chỗ dựa cuối cùng là Đạo quân Ánh sáng, vương triều Thổ Phồn rốt cuộc có thể kiên trì được bao lâu trong cuộc đại biến động và xung đột sắp sửa bùng lên này. Một khi loạn lạc nổi lên, toàn bộ trí tuệ và văn minh từng tồn tại trên cao nguyên này nói không chừng sẽ bị hủy diệt trong lửa chiến tranh, tan thành tro bụi như vương triều Tượng Hùng thuở xưa vậy. Vì thế, thân làm người bảo hộ cho Tứ Phương miếu, các Vu vương đã đưa ra một quyết định khác, khi Đạo quân Ánh sáng rời khỏi thế gian này, họ cũng mang theo toàn bộ báu vật và các điển tịch văn hóa trong Tứ Phương miếu. Đây, chính là nguyên nhân Bạc Ba La thần miếu xuất hiện."
"Tứ đại Vu vương không chỉ tượng trưng cho trí tuệ của bộ tộc Qua Ba, mà còn là những cá thể mạnh mẽ nhất trong Đạo quân Ánh sáng, và trong toàn bộ tộc. Bấy giờ, họ đã ước định rằng, vị Vu vương đang đảm nhiệm vị trí lãnh tụ tinh thần tối cao sẽ dẫn theo toàn bộ Đạo quân Ánh sáng tiến vào Shangri-la. Ba vị còn lại, sẽ chia nhau trấn giữ ba phương hướng của vương triều, bảo vệ những phụ nữ, trẻ em và người già không rời đi cùng Đạo quân Ánh sáng trong bộ tộc. Họ không ở lại trong bộ tộc mà tránh xa tộc nhân, bởi xét cho cùng, bấy giờ có rất nhiều nhân vật cấp cao trong vương thất đều biết rằng Đạo quân Ánh sáng nắm trong tay bí mật bất bại, bảo vệ tài sản và tri thức tích lũy nhiều năm của vương triều. Vì những thứ này, những kẻ kiêu hùng thời loạn sẽ bất chấp sử dụng mọi thủ đoạn. Nếu họ ở cùng tộc nhân, lại không có Đạo quân Ánh sáng bên mình, cá nhân dù mạnh đến mấy cũng chỉ thu hút đại quân đến vây giết mà thôi. Còn khi họ phân tán đi, trở thánh cá thể độc lập, họ sẽ hòa mình vào bóng tối, trở thành vua ám sát, ắt hẳn không một vị thủ lĩnh nào không sợ hãi bọn họ. Mà khi đó, Đạo quân Ánh sáng ra đi một cách hết sức bí mật, cũng hết sức quyết đoán, ngay cả người trong bộ tộc, cha mẹ vợ con họ cũng hoàn toàn không hay biết. Sau đấy, chiến tranh quả nhiên đã bùng nổ, tuy rằng những vị Vu vương ở lại cho rằng bọn họ đủ sức uy hiếp những thế lực lớn mạnh kia, nhưng khi chiến loạn cập kề, tất cả đều trở nên rối ren hỗn loạn, bộ tộc Qua Ba không còn thanh niên trai tráng cũng không tránh khỏi bị chà đạp. Mà sự thật là, quân phiến loạn trước đây gần như đều đã bị Đạo quân Ánh sáng đuổi tận giết tuyệt, vì vậy dân chúng bình thường gần như không ai biết đến sự tồn tại của họ. Những người không biết Đạo quân Ánh sáng mạnh mẽ và đáng sợ nhường nào, dĩ nhiên cũng không biết Vu vương là ai. Ta đoán rằng, những đứa trẻ đã trải qua chiến loạn cửa bộ tộc Qua Ba kia ít nhiều cũng từng nghe nói đến sự vĩ đại của Đạo quân Ánh sáng, sau khi bị lăng nhục ức hiếp, tự nhiên chúng sẽ không ngừng phấn đấu. Không biết bọn chúng kiếm đâu ra một phần không đầy đủ phương pháp huấn luyện của Đạo quân Ánh sáng, liền bước theo dấu chân tiền nhân, bắt đầu hành trình khổ luyện vượt lên cực hạn. Đám người này, về sau phát triển thành một quần thể đặc dị, chính là... Mật tu giả!"
Đường Thọ chỉ vào pháp sư Á La nói: "Các ngươi chỉ biết tổ tiên mình rất mạnh mẽ, không ngừng khiêu chiến cực hạn, vượt qua cực hạn nên, các ngươi cũng không ngừng lặp đi lặp lại những bài huấn luyện mà người thường không thể chịu đựng ấy, nhưng các ngươi đều không biết, tổ tiên của các ngươi năm xưa cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. E rằng bọn họ cũng không hề muốn dùng những cách thức phi nhân ấy để giày vò bản thân mình đâu. Giữa trời băng đất tuyết, để mình trần đi trên dây thép, ngồi xếp bằng trên ván đóng đầy đinh nhọn, mấy tháng liền không ăn không uống, đấy đâu phải là huấn luyện? Phải nói là đang tự dùng cực hình với bản thân thì đúng hơn." Đường Thọ cảm khái một hồi, lại nói tiếp: "Thôi, không nói chuyện này nữa, chúng ta tiếp tục câu chuyện đang kể nhé. Ba vị Vu vương ở lại thế gian, một người lưu thủ phương Tây, bảo vệ Đảo Huyền Không tự đã bị phong tỏa, chắc là đề phòng bấy giờ có người tình cờ phát hiện ra đầu mối gì đó, không cẩn thận lại mở cửa Đảo Huyền Không tự; một vị khác ở phương Nam, đó vốn là nơi gần khu vực quần cư của người Qua Ba nhất, ông ta có thể cảnh cáo và áp chế một số thế lực tà ác có ý đồ với bộ tộc Qua Ba; vị Vu vương cuối cùng lại đến Trung Nguyên. Trong bốn vị Vu vương, ông ta là người duy nhất hu vọng có thể tiếp tục nghiên cứu loại vật chất đó, để có thể ứng dụng nó trong thực tiễn. Bởi vì, ông ta chính là người chỉ huy nghiên cứu và chế tạo ra loại vật chất kinh khủng ấy."
Merkin và Trác Mộc Cường Ba giật mình chấn động, câu chuyện của Đường Thọ kể đã càng lúc càng gần với những gì họ biết rồi. Quả nhiên, Đường Thọ lại nói tiếp: "Vị Vu vương ở lại phía Tây, là Mạc Bản Ba; con cháu ông ta sau này đổi thành họ Mạc, khi Cổ Cách bị tiêu diệt, hậu nhân của họ Mạc đã theo giáo sĩ truyền giáo người Bồ Đào Nha di cư sang phương Tây, đổi thành họ Merkin. Đó chính là tổ tiên của ngươi, Merkin. Vị Vu vương lưu thủ tại phía Nam, là Trại Bản Ba; con cháu ông ta sau này đổi thành họ Trại, đó chính là tổ tiên của ngươi, Cường Ba thiếu gia, vì vậy, tên đầy đủ của ngươi lẽ ra phải là Trại Trác Mộc Cường Ba; còn vị Vu vương tiến vào Trung Nguyên kia, là Đảng Bản Ba. Ông ta đến Trung Nguyên, nhập gia tùy tục, liền đổi chữ Đảng thành chữ Đường, đó chính là tổ tiên của ta. Ba người chúng ta, đều là hậu duệ của Vu vương."
"Còn vị Vu vương dẫn đạo quân Ánh sáng đến Shangri-la kia, là Đông Bản Ba. Bấy giờ, ông ta đã để lại một vị sứ giả ở Tam Giang Nguyên(51). phụ trách truyền đạt tin tức giữa Shangri-la với thế giới bên ngoài. không cần phải nhìn ta với ánh mắt ngạc nhiên đó, đúng thế, bấy giờ bọn họ biết cách liên lạc với vùng đất cách biệt thế gian ấy. Thứ họ dùng để truyền tin, là loài hạc cổ đen, loài chim duy nhất có thể bay vượt đỉnh Chomolungma. Chúng có thể vận chuyển thư từ hoặc những món đồ không nặng lắm. Tổ tiên của chúng ta có trí tuệ vô biên, phàm nhân tầm thường sao có thể hiểu được chứ? Vị sứ giả ấy chính là tổ tiên của vị sứ giả sau này xuất hiện trong lịch sử. Khi đó, vị sứ giả ấy đã truyền đi một tin tức, nội dung thế nào thì ta không biết, tóm lại sau khi nhận được tin tức ấy, ba vị Vu vương còn lại đều nhất loạt lên đường đến đây. Vào thời điểm ấy, con cái họ đều đã thành niên, vì vậy, họ liền đem bí mật của gia tộc truyền lại cho con trưởng dòng chính. Vì những thông tin này được coi là tuyệt mật, bao giờ cũng chỉ truyền đạt miệng cho một người trước lúc lâm chung. Cứ truyền thừa như vậy, không biết đến thời điểm nào, liền thất truyền. Trên thực tế, bản thân việc ba gia tộc chúng ta trải qua nghìn năm vẫn duy trì được huyết mạch đã có thể coi là một kỳ tích rồi, còn chuyện bí mật của gia tộc bị thất truyền, lại là chuyện hết sức bình thường. Được ghi lại rõ nét nhất trong các ghi chép lịch sử là tổ tiên của Merkin. Năm đó, khi sứ giả xuất hiện ở vương triều Cổ Cách, vị tổ tiên đó của ngươi hiển nhiên đã hoàn toàn không nhớ gì về nguồn gốc của mình nữa, ông ta chẳng những không bảo vệ bí mật gia tộc, ngược lại còn dẫn tiến sứ giả đến gặp Cổ Cách vương. Vì vậy, ông ta không hề biết trước đó đã xảy ra chuyện gì, nhưng lại nhớ kỹ những thông tin mà sứ giả mang đến, đồng thời truyền lại cho con cháu đời sau các ngươi. Ông ta chỉ biết trên thế gian này có một nơi như thế, ở đó vàng bạc châu báu nhiều vô cùng vô tận, và ông ta có dòng máu của một nhân vật quan trọng ở nơi ấy. Còn tổ tiên của Cường Ba thiếu gia, cũng không ai biết họ đánh mất bí mật ấy từ bao giờ. Có điều, các tổ tiên của ngươi rõ ràng còn lãng quên triệt để hơn cả tiên tổ nhà Merkin, ngay cả bí mật mà sứ giả mang ra cũng không bảo tồn được. Tổ tiên của ta có thời gian truyền thừa dài nhất, tối thiểu khi vị sứ giả kia xuất hiện, bọn họ vẫn nhớ được bí mật ấy, còn chuyện khi nào bị thất truyền thì ta cũng không biết. Những bí mật hôm nay nói với các ngươi, đều là do ta đích thân tìm kiếm phát hiện ra, đời cha ta, ông nội ta, cụ nội ta, đều hoàn toàn không hay biết chút gì cả."
"Còn các ngươi!" Đường Thọ ngoảnh đầu về phía pháp sư Á La vfa Lữ Cánh Nam nói, "những Mật tu giả các ngươi, cũng chỉ biết gia tộc nhà Trác Mộc Cường Ba có thân phận rất cao quý, người trong gia tộc này đời đời đều phải được các ngươi âm thầm bảo vệ một cách nghiêm mật, nhưng các ngươi lại không biết, thân phận cao quý này đối với các ngươi rốt cuộc có ý nghĩa gì? Bọn người các ngươi vốn là những nô bộc của Vu vương, không ngờ lại hoàn toàn quên lãng ta và Merkin, gia tộc chúng ta cũng là chủ nhân của các ngươi."
Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam nhất thời cũng không biết phản ứng thế nào, chuyện Đường Thọ vừa nói, họ hoàn toàn không hay biết.
Đương nhiên, cả pháp sư và Lữ Cánh Nam đều biết thân phận của Cường Ba thiếu gia. Đúng như Đường Thọ đã nói, họ chỉ biết Cường Ba thiếu gia có thân phận cao quý, nhiệm vụ của các Mật tu giả là bí mật tu hành, bí mật bảo vệ, nhưng họ chưa bao giờ biết, thân phận của gã rốt cuộc cao quý như thế nào.
"A ha!" Đường Thọ hình như sực nhớ ra một chuyện thú vị, quay đầu lại nói với Trác Mộc Cường Ba, "Ngươi vẫn không biết, đúng không? Trong các Mật tu giả có thuyết về ký chủ (vật chủ) và kẻ sống gửi. Bọn họ tự ví mình như một loại sinh vật ký sinh, ý ta, linh hồn của họ nương nhờ vào ký chủ để tồn tại, bọn họ sinh ra để bảo vệ ký chủ, ý nghĩa tồn tại của họ chính là bảo vệ ký chủ không bị tử vong bởi những lực lượng ngoài nhân tố tự nhiên." Nói tới đây, Đường Thọ đột nhiên hạ thấp giọng xuống, ra vẻ thần bí: "Ta nghĩ, chắc chắn ngươi không thể biết, Lữ Cánh Nam, cô ta, chính là một trong những kẻ sống gửi vào ngươi."
Trác Mộc Cường Ba giật nẩy mình, kinh ngạc hướng ánh mắt sang nhìn Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam mím chặt môi, nhìn thẳng về phía trước, không nói một lời. Đường Thọ vẫn khe khẽ thì thầm bên tai Trác Mộc Cường Ba: "Có lẽ, vào lúc ngươi khoảng bốn năm tuổi gì đó, cô ta đã biết sứ mệnh cả đời này của mình là gì, cô ta khắc khổ rèn luyện, chịu đựng những bài huấn luyện phi nhân tính là vì ai, cô ta sống vì ai, ý nghĩa tồn tại của cô ta là gì ? Mật tu giả, đúng là một quần thể kỳ quái, bọn họ... "
Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn không còn biết Đường Thọ nói gì sau đấy nữa, trong đầu gã, mọi sự việc từ lúc gặp gỡ, quen biết Lữ Cánh Nam trong khoảnh khắc bỗng hiện lên một cách rõ nét. Người phụ nữ mạnh mẽ như loài chim ưng ấy, lần đầu tiên xuất hiện trước mắt Trác Mộc Cường Ba đã toát lên khí chất đặc biệt chỉ quân nhân mới có; lần đầu tiên tranh đấu vì một chiếc vòng cổ, khí thế cô hùng hổ chẳng kém gì đấng tu mi; trong phòng làm việc, thái độ nghiêm túc và cố chấp lúc cô vùi đầu vào đống hồ sơ; hết lần này đến lần khác, trong ánh hoàng hôn, cô đứng phía xa nhìn bóng gã và Mẫn Mẫn bên nhau, còn mình thì cô đơn lẻ bóng; để tìm kiếm đám người bị lạc lối trong rừng, cô đã một thân một mình xuyên qua rừng rậm Amazon, trên tay chỉ có một con dao săn; trong động băng trên núi tuyết, người phụ nữ kiên cường ấy dù bị đông thành đá cũng quyết không chịu mở miệng nhận thua, cô... cô ấy là kẻ sống gửi vào gã u? Còn gã, gã là ký chủ của cô sao?
Nhìn Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra, Đường Thọ sốt ruột đẩy gã một cái, cưỡng ép gã rảo chân đi nhanh hơn. kế đó lại nói: "Sự việc đến đây vẫn chưa kết thúc. Loại vật chất mà Đạo quân Ánh sáng nghiên cứu ra ấy, về sau từng xuất hiện hai lần, mà hai lần này, đều liên quan đến vị sứ giả đã đến Cổ Cách kia. Dẫu sao thì lúc bấy giờ, tất cả đạo quân Ánh sáng đều đã bị cảm nhiễm, nhưng không phải tất cả bọn họ đều phát bệnh, chỉ có khoảng năm phần trăm số người xuất hiện triệu chứng rõ rệt thôi."
Mấy người bọn Merkin đều thầm nhủ, vừa nãy chẳng phải ngươi nói một phần tư Đạo quân Ánh sáng đã biến mất rồi còn gì?
.
CU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC
.Đường Thọ dường như lại đọc được những gì bọn họ đang nghĩ trong đầu, bèn giải thích: "Ta biết các ngươi đang nghĩ gì, chuyện này có gì kỳ lạ đâu, chỉ có năm phần trăm Đạo quân Ánh sáng xuất hiện triệu chứng của bệnh, nhưng vì hệ thần kinh và cơ thể bọn họ đã bị vật chất đó biến đổi, để ngăn ngừa những người này, không thể không điều động hai mươi phần trăm nhân lực của Đạo quân Ánh sáng cùng chết với họ. Có điều, nhóm người di cư đến Shangri-la kia, sau khi đến nơi liền bắt đầu một đợt nghiên cứu mới. Xét cho cùng, đó cũng không phải là một nhóm người nhỏ, bọn họ đều có bản năng và khát vọng cầu sinh, vả lại, muốn khống chế được loại vật chất này, cũng cần phải nghiên cứu thấu triệt hơn về đặc tính sinh học của nó. Kết quả nghiên cứu đợt sau này cho thấy, quả nhiên những người ở Shangri-la cũng đã bị cảm nhiễm. Loại vật chất này đang ký sinh trong cơ thể họ, không phải họ không phát bệnh, mà là đang ở trong thời kỳ ủ bệnh. Khoa học ngày nay tuy đã chứng thực, dù là bệnh bò điên hay bệnh Kuru. cũng đều có thời kỳ ủ bệnh, thậm chí ở một số trường hợp thời kỳ này có thể kéo dài đến hơn 30 năm, có điều, một khi phát bệnh thì tỷ lệ tử vong sẽ là 100%, không thể cứu chữa. Sau khi nghiên cứu vô số lần, cuối cùng Đạo quân Ánh sáng đã có hiểu được thêm về loại vật chất ấy. Trong đợt tác dụng đầu tiên của nó, số lượng những người đột nhiên phát bệnh thực ra rất nhỏ, chỉ có một số người thể chất đặc biệt mẫn cảm mới xuất hiện các triệu chứng của bệnh thần kinh; còn đại đa số những người còn lại chỉ xuất hiện triệu chứng tương tự như bị viêm đường hô hấp, ho, hắt xì, sốt... ngắn thì năm bảy ngày, dài cũng không quá hai tháng, sau đó triệu chứng sẽ biến mất, mọi người có thể trở lại cuộc sống bình thường. Chỉ có điều, trong thời gian người nhiễm bệnh bị cảm mạo, loại vật chất kia sẽ sinh sôi một cách bùng nổ, đồng thời lan tỏa trên diện rộng. Con người gần như sẽ bị lây nhiễm 100%, nếu tiếp xúc với chúng. Sau đó, loại vật chất ấy sẽ tiềm phục trong cơ thể người nhiễm bệnh, bắt đầu dịch chuyển đến hệ thần kinh theo một phương thức mà hệ miễn dịch không thể nào phát giác được, cho đến khi phát bệnh lần thứ hai, thời gian kéo dài khoảng từ hai đến năm năm. Cũng có nghĩa là, từ lần đầu tiên xuất hiện triệu chứng cảm mạo, tùy theo từng cá thể mà thời gian ủ bệnh khác nhau, nhưng thời gian còn lại lâu nhất cũng không quá năm năm. Lần phát bệnh thứ hai này rất đáng sợ. Nghiên cứu của Đạo quân Ánh sáng cho thấy, người bệnh đầu tiên là nguồn bùng phát lây lan loại vật chất đó, có thể truyền nhiễm cho người khác thông qua hô hấp, bài tiết và máu. Kinh khủng hơn nữa là, qua thời kỳ ủ bệnh kéo dài mấy năm, loại vật chất ấy gần như đã chiếm cứ hoàn toàn não bộ của người bệnh, vì vậy lần phát bệnh thứ hai này, người bệnh sẽ trở nên điên cuồng hung bạo, tấn công tất cả mọi sinh vật có thể chuyển động một cách vô ý thức. Vì cảm quan của những người này đã bị tổn thương nghiêm trọng, hệ thần kinh và cơ bắp không còn phối hợp hài hòa, nên động tác của họ cũng không được linh hoạt như trước. Nhưng cũng vì sự tổn thương của cảm quan và hệ thần kinh, bọn họ hoàn toàn không cảm thấy đau đớn, vì vậy... cảnh tượng khi ấy, thực sự cũng hơi tanh máu và đáng sợ. Mà lần phát bệnh thứ hai này sẽ có hai kết quả hoàn toàn khác nhau. Thứ nhất, chính là như ta vừa nói, đau đớn cực độ, điên cuồng cực độ, cuối cùng nếu không kiệt lực mà chết giữa lúc điên cuồng tấn công bất cứ sinh vật nào trong tầm mắt thì cũng vì đau đớn mà mất dần các dấu hiệu của sự sống; ngoài ra, còn một trường hợp khác, chính là đại não bị tổn thương hoàn toàn, nhưng lại không ảnh hưởng đến công năng vận động của họ. Những người này có thể đi lại, ăn uống, sinh đẻ, sinh hoạt như người bình thường, điểm khác biệt duy nhất là không còn trí tuệ. Bọn họ chỉ còn giữ lại được những bản năng sinh tồn cơ bản nhất nguyên thủy nhất của động vật, đồng thời tiếp tục di truyền loại bệnh này đến đời sau, về thời gian di truyền kéo dài bao lâu, theo tính toán sơ bộ của ta, có lẽ vào khoảng... 300 năm."
"Còn về khả năng truyền nhiễm, Đạo quân Ánh sáng cũng đã đi đến một kết luận tương đối, đại khái trong khoảng 1000 người, chỉ có một người không bị cảm nhiễm. Những người này có sức đề kháng tự nhiên, nhưng khả năng đề kháng này từ đâu mà có thì họ cũng không nói rõ được. Nhưng theo ta thì, có lẽ là do tổ tiên của người này từ thuở ở vùng man hoang đã ăn rất nhiều thịt người, vì vậy liền sinh ra kháng thể. Bằng cớ lớn nhất, chính là, Tứ đ
Tác giả :
Hà Mã