Ma Thổi Đèn
Quyển 5 - Chương 34: Phiên hiệu số “0”
Tôi ấn tay lên cái rương đồng xanh ngắt như ngọc phỉ thúy lắc khẽ, chất đồng vốn đã bốc hơi hết trong đất và nước rồi, cốt đồng còn lại chỉ bằng một phần mấy thuở ban đầu, thành ra cái rương nhẹ bẫng, cảm giác bên trong rỗng không, căn bản vốn chẳng có gì hết. Điều này cũng không nằm ngoài dự đoán của tôi, người Nhật Bản tìm bọn phỉ Nê Hội đào cái rương cổ này lên, làm gì có chuyện để niêm phong giấu đi, mà chắc chắn là hàng vừa đến tay đã lập tức mở ra luôn rồi.
Trong viện nghiên cứu có rất nhiều người đột tử, dựa theo lá di thư của người Nga kia để lại mà đoán, thời điểm xảy ra sự cố trọng đại ấy vừa khéo đúng lúc bọn phỉ Nê Hội mới vận chuyển cái rương đồng từ trong núi đến chưa được bao lâu. Tuy vẫn chưa thể xác định nguyên nhân cái chết của những người này có liên quan đến nó hay không, nhưng phần nhiều là khó mà tránh khỏi can hệ. Tuy bên trong tòa nhà, mọi thứ đều tĩnh lặng im lìm, bọn hoàng bì tử muốn hại tính mạng chúng tôi cũng đã bị xử lý, nhưng nói gì thì nói, chúng tôi vẫn còn phải ở lại đây một thời gian nữa, tuyệt đối không thể qua loa đại khái được. Có lẽ trong cái rương này còn lại đầu mối gì đó, thôi cứ xem cho rõ ràng, để sau này dù có gặp phải thứ gì thì tâm lý cũng đã được chuẩn bị sẵn rồi.
Nghĩ tới đây, tôi bèn không ngăn Tuyền béo nữa, để cho cậu ta mở nắp rương lên, giơ đèn pin chiếu vào trong, đúng thực là chẳng còn gì cả. Thấy dưới đáy rương chỉ còn vương vãi lại một ít mạt gỗ màu đen, chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, chẳng biết nói gì, cũng không đoán nổi rốt cuộc đó là cái thứ gì? Tuyền béo thuận chân đá văng cái rương đồng sang một bên. Chúng tôi còn muốn tiếp tục tìm kiếm trong phòng chứa đồ này xem có thuốc men gì không, bèn bảo Đinh Tư Điềm ngồi trên cái rương gỗ gần cửa nghỉ tạm, lão Dương Bì cũng ở lại đó trông chừng cô.
Lão Dương Bì đúng là quá sức cẩn thận. Tôi bảo ông hát cho Đinh Tư Điềm tỉnh táo từ lúc nãy, đến giờ ông vẫn còn ngâm nga hát ư ử không ngừng. Trong tiếng hát khàn khàn, “cưỡi ngựa trắng, chạy trên bãi cát, tôi không có vợ, em chẳng có chồng, hai người rổ rá cạp lại, hây dồ hây dồ...," của ông, tôi và Tuyền béo soi đèn lục lọi, mở hết cái rương này đến cái rương khác, những thứ phát hiện bên trong ấy toàn bộ đều khiến chúng tôi giật mình kinh ngạc.
Kỳ lạ nhất phải kể đến cái tráp gỗ đen bóng đựng trong một cái rương. Trong tráp để một bình thủy tinh, thoạt trông sáng bóng như mới, nhưng xem ra có vẻ là đồ cổ. Trong bình đựng một cái đầu lâu to tướng màu xanh, đường kính miệng bình chỉ khoảng bảy tám xăng ti mét, còn đường kính của cái đầu lâu kia dễ phải đến gần ba chục xăng ti mét, chẳng hiểu làm sao mà nhét lọt vào được bên trong, lại cũng chẳng thể nào biết cái bình này rốt cuộc dùng để làm gì.
Lại còn một cái vại sành cổ màu đen, trên thân khắc nhằng nhịt đủ các loại bùa chú cổ của Trung Quốc, nhìn bề ngoài chẳng có gì đặc biệt, nhưng được gói bọc cực kỳ cẩn thận, cứ như là một món bảo vật vô cùng trân quý vậy. Cái vại sành này làm tôi nhớ đến một chuyện nghe kể đã lâu. Trước giải phóng, ở Bắc Kinh có một tay buôn đồ cổ, trong một lần về miền quê gom hàng, vô tình mua được một cái bình màu đen của một nhà nông dân, chỉ thấy trên thân bình khắc đầy chữ Triện cổ, thoạt trông có vẻ là lời nguyền hay bùa chú gì chẳng rõ. Món đồ đó nhà chủ đòi giá cũng không cao lắm, thành thử chỉ là tiện tay nhặt thêm trong lúc mua các món khác mà thôi. Cái bình cổ này nhìn hết sức đơn giản, chẳng có hoa hòe hoa sói gì, màu sắc đen kìn kịt, niên đại cũng chẳng đoán được, nhưng tay buôn đồ cổ kia lại rất kết, không nỡ bán đi, mà giữ lại làm của riêng, để trong nhà đổ nước vào cắm hoa.
Một năm nọ, trời lạnh đến nỗi giọt nước nhỏ ra liền đông cứng thành băng ngay. Tay buôn đồ cổ kia gặp lúc bận buôn bán tíu tít, quên bẵng không đổ hết nước trong bình đi, đến khi nhớ ra, cứ tưởng cái bình ấy chắc là phải nứt rạn mất rồi. Ai dè ngày hôm sau về nhà xem lại, mới thấy trong sân mấy chỗ có nước thì đều đã đóng băng hết cả, duy chỉ có nước bên trong cái bình sành đen ngòm đò vẫn không sao. Tay buôn đồ cổ lấy làm kỳ lạ, lấy nước đổ vào lần nữa thử nghiệm xem sao, kết quả là để cả ngày nước vẫn không đóng băng, thậm chí đem ra giữa trời băng đất tuyết thò tay vào bình, còn cảm thấy nước bên trong không hề có chút hơi lạnh.
Nếu rót nước canh nóng, trà nóng vào cái bình ấy, cứ tha hồ để cả ngày trời, lúc nào cũng như vừa nhấc ở trên bếp lò ra vậy. Từ đó, tay buôn đồ cổ ấy mới biết đó là báu vật cực quý. Nhưng có lần uống rượu say, ông ta chẳng may hất cái bình cổ ấy từ trên bàn rơi xuống đất vỡ choang làm mấy mảnh, mới phát hiện ra chất gốm cũng chẳng có gì khác với đồ sành sứ thông thường, chỉ đặc biệt là có thêm một lớp, nghĩa là cái bình này gồm hai lớp vỏ, lớp trong khắc hình “Quỷ công thôi hỏa đồ"[31], con quỷ mặt mũi dữ tợn, răng nanh lởm chởm đầy mồm, tay cầm củi tay cầm quạt quạt thổi lửa, nét khắc cực kỳ tinh xảo đẹp đẽ. Nét khắc ấy, tựa hồ như con người khó mà điêu khắc ra được, chỉ có thể dùng cụm từ “quỷ phủ thần công" để hình dung mà thôi. Nhưng lúc đó, cũng chẳng ai biết được cái bình cổ ấy rốt cuộc là sản vật của thời đại nào.
Thấy bảo về sau có người nói rằng, loại đồ vật ngoài chạm phù chú trong khắc ma quỷ này đều là sản phẩm bí truyền của vùng Thần Châu ở Tương Tây, công nghệ đã thất truyền từ xa xưa, hiện giờ gần như không gặp được món nào còn nguyên vẹn hoàn chỉnh, có mảnh vỡ chăng nữa thì cũng toàn là đào trong các cổ mộ ra cả. Thời đó, tôi nghe thì nghe vậy, nghĩ chắc cũng chỉ là kiểu chuyện cổ tích về hồ lô báu vậy thôi, giờ tận mắt thấy cái bình sành này, không ngờ rất giống với những gì tả trong câu chuyện ấy, các chi tiết nhất nhất đều trùng khớp, xem ra rất nhiều công nghệ và trí tuệ của cổ nhân đã bị thất truyền, người thời nay đúng là chỉ còn biết thán phục mà thôi.
Lúc bấy giờ, tuy khá hiếu kỳ, nhưng tôi không nghĩ mấy món cổ vật này có giá trị gì cho lắm, đằng nào cũng toàn là tàn dư của chế độ cũ, chỉ xem qua một lượt rồi cất lại. Trong lúc đó, Tuyền béo bới ra được một đống thứ lung tung, cứ gãi đầu gãi tai, tỏ ý không thu hoạch được gì.
Tuyền béo nhìn đống đồ, lấy làm kỳ quặc, thắc mắc với tôi: “Chỗ này toàn cất giữ những thứ ly kỳ cổ quái gì đâu, chẳng ăn cũng chẳng uống được, rặt mấy món vô dụng cả."
Tôi nói: “Mấy thứ này dường như đều là trộm trong các mộ cổ ra, quá nửa phần là ‘chuyện tốt’ do bọn Nê Hội kia làm rồi, phỏng chừng có một ít chắc là của nả lục soát cướp đoạt trong dân gian, dù gì thì cũng là cổ vật. Tôi còn phát hiện ra mấy thứ cũ kỹ cổ xưa này đều có một đặc điểm chung. Chắc chắn bọn chúng muốn tìm thứ gì đó rất quan trọng, đó rất có thể là cái rương đồng chiêu hồn được vẽ trên bức bích họa trong huyệt động mà chúng ta đã thấy. Cậu nhìn xem, các thứ đa phần đều được để trong rương đồng, hộp gỗ, thậm chí còn có cả mấy cỗ quan tài bằng đồng, phỏng chừng đều bị tưởng lầm là cái rương đồng kia nên mới đào lên. Trong đây chắc là không có thứ chúng ta muốn tìm đâu."
Thấy trong phòng chứa đồ chẳng thu hoạch được gì, bọn tôi đành sang chỗ khác tìm thuốc men. Lúc này, bốn người mình mẩy đều đầy thương tích, lại mệt mỏi rã rời, sắp không nhấc chân lên nổi đến nơi. Tuy ai nấy trong lòng như có lửa đốt, nhưng cũng chỉ có thể lê chậm từng bước một trên hành lang. Các tầng trong tòa nhà này đều có cáp điện, nhưng không có điện, chúng tôi không biết những kiến trúc này vốn dùng nguồn điện nào nữa. Vả lại, thuốc giải độc và thuốc trị thương cần gấp hơn nhiều, chẳng có thời giờ đâu mà đi tìm thiết bị phát điện, may có hai cái đèn pin lúc sáng lúc tịt này, cũng không đến nỗi phải hoàn toàn lần mò trong bóng tối.
Đinh Tư Điềm nằm vật trên lưng Tuyền béo, u u mê mê hỏi tôi tòa nhà này có ma hay không? Tôi khuyên cô đừng nên nghĩ ngợi lung tung, mấy chuyện ma quỷ lúc trước, chắc đều do hai con hoàng bì tử kia gây ra cả thôi. Nói thì nói vậy, nhưng tôi cũng không khỏi chột dạ, tòa nhà này vừa khéo xây ngay bên dưới hang động ở sườn núi kia, nhìn từ phía ngoài, có thể trông thấy ở chỗ dốc núi có mấy pho tượng thú đá rất lớn, rất giống những gì được miêu tả trong truyền thuyết về Quỷ nha môn, mà tương truyền, đó chính là lối vào của Quỷ môn quan. Nghĩ tới đây, tôi lại liên tưởng đến cái bình cổ màu đen lúc nãy, cảm thấy có một số truyền thuyết không chỉ là lời đồn vô căn cứ, không có lửa thì làm sao có khói được? Gọi là Quỷ nha môn, lẽ nào trong cái hang núi ấy có ma quỷ thật?
Tôi thầm nhủ, tốt nhất không nên nhắc đến nữa, cứ thắc mắc có ma quỷ hay không mãi thì dù không có ma có quỷ cũng thành ra có cho xem. Bên trong tòa nhà tuy không có ánh sáng, nhưng thiết nghĩ, giờ trời cũng sáng rồi, ban ngày ban mặt lấy đâu ra có ma quỷ. Tôi vừa cố kiếm lý do để ổn định tinh thần, vừa lục lọi tìm kiếm trong từng phòng một.
Tòa nhà này có hai tầng ngầm, quy mô tầng dưới lớn hơn tầng trên rất nhiều, các hành lang đều đánh ký hiệu bằng sơn đỏ, có lẽ đây thuộc về khu vực được bảo mật, nếu không có những ký hiệu này thì rất dễ lạc đường. Giờ đã vào đến khu vực hạch tâm của toàn bộ viện nghiên cứu, cứu được Đinh Tư Điềm hay không, đều phải dựa vào đây cả, chúng tôi chỉ còn cách triển khai tìm kiếm theo phương thức rải thảm.
Tôi vẫn còn một thắc mắc chưa giải được. Đó là, quân Nhật xây dựng cơ sở nghiên cứu bí mật quy mô lớn thế này, sợ rằng không đơn giản chỉ để nghiên cứu chất độc và vi khuẩn, trong đây e là còn những bí mật và hạng mục nghiên cứu kinh người hơn nữa, có điều những sự việc này thật quá phức tạp, vả lại chúng tôi mới chỉ thấy được một phần nổi của tảng băng chìm, căn bản là không có đầu mối gì cả, càng nghĩ sâu lại càng thấy đau đầu, tựa như có rất nhiều rất nhiều con sâu nhỏ bò lúc nhúc cắn lung tung bên trong vậy. Tôi cứ vừa đi vừa nghĩ miên man, bất giác đã cùng ba người kia đi đến cuối một lối đi rộng rãi, thấy có một cánh cửa lớn hình tròn, bên trên có vẽ một số “0" màu đỏ rất chói mắt.
Cửa sắt chỉ khép hờ chứ không khóa, cánh cửa này khác hẳn những cánh cửa chúng tôi thấy ở quanh đây. Các phòng dưới tầng hầm này có lớn có nhỏ, mục đích sử dụng cũng khác nhau, dọc đường vừa đi vừa kiểm tra xem xét, tôi thấy gần như là chẳng có quy luật gì hết. Tôi giơ đèn pin quét một lượt vào bên trong, chỉ thấy tối om, có vẻ như rất sâu, không gian còn lớn hơn tôi nghĩ rất nhiều. Tôi quyết định vào xem thử, nhưng tình hình bên trong chưa rõ ràng, không biết có nguy hiểm gì hay không, bèn bảo Tuyền béo đứng ở ngoài cửa tiếp ứng, để tôi một mình vào thăm dò.
Vết thương của Tuyền béo lại đau nhói, cậu ta ôm cổ bảo tôi: “Cậu còn cử động được có một cánh tay thôi mà vẫn muốn theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân phỏng? Phải biết sức mạnh tập thể mới là vô địch chứ, tôi thấy hai chúng ta nên cùng vào, để bác già ở đây chăm sóc Tư Điềm, chắc chả có gì đáng lo cả đâu."
Từ lúc ở bên ngoài vào đến đây, tuy đã gặp vô số xác chết, nhưng không thấy nguy hiểm gì, đằng sau cánh cửa số “0" này vạn nhất có gì bất trắc, với tình trạng của tôi lúc này thật sự không thể nào ứng phó nổi. Nếu Tuyền béo một mình vào trong, cậu ta bộp chà bộp chộp như thế lại càng nguy hiểm hơn, để tôi và cậu ta tiếp ứng cho nhau có lẽ tương đối ổn thỏa, vì vậy, tôi nghĩ ngợi giây lát rồi gật đầu đồng ý.
Chúng tôi đưa bảo đao Khang Hy cho lão Dương Bì, dặn ông để ý Đinh Tư Điềm, bên trong bất luận xảy ra chuyện gì cũng đừng tiến vào, chúng tôi cũng không đi xa quá, thăm dò tình hình xong sẽ lập tức trở ra. Sau đó, tôi cầm cái vỏ đao, Tuyền béo cầm khẩu poọc hoọc còn hai viên đạn, kéo cửa sắt, một trước một sau tiến vào.
Vừa đặt chân vào, cảm giác bên dưới mềm mềm, giơ đèn pin chiếu xuống, thấy bên dưới quả nhiên không phải nền xi măng, mà phủ đầy một lớp đất bùn màu đỏ. Tôi cầm vỏ đao chọc chọc mấy cái, lớp đất quá dày nên không chọc xuống đáy được, bề mặt cũng không bằng phẳng mà thành từng rãnh từng rãnh hơi giống ruộng trồng rau.
Bên trong vừa ẩm vừa lạnh, hơn nữa trong không khí hình như có rất nhiều tạp chất, tuy hít thở không cảm thấy gì, nhưng làm lệch cả cột ánh sáng của ngọn đèn pin, phạm vi chiếu sáng rút ngắn lại chỉ còn hơn một nửa. Bóng tối tựa như sắp nuốt trọn toàn bộ ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn. Chúng tôi không dám tùy tiện đi vào sâu bên trong, chỉ men theo cánh cửa sắt có ký hiệu số 0, lần dò đến sát tường. Điều nằm ngoài dự liệu của tôi là, vách tường ở đây toàn bộ đều bằng gạch đất, hơn nữa lại nối liền với trần thành một mái vòm, tạo thành một gian hầm cao ở giữa, thấp ở hai bên, hình dáng khá giống với nhà hầm ở khu vực cao nguyên hoàng thổ.
Tôi và Tuyền béo đoán đây có lẽ là kho chứa rau của bọn Nhật, nhưng nghĩ kỹ ra, lại thấy có gì đó không ổn, trên bề mặt vách tường có rất nhiều mấu gồ lên, nối thành một mảng, giống như có người lấy bùn đất trát lên tường làm gì đó. Xem tới đây, tôi đoán cũng chẳng tìm được thuốc men gì rồi, chỗ này có vẻ cũng chẳng phải đất lành, có trời mới biết là để làm trò quỷ quái gì, chi bằng quay lại rồi nghĩ cách đi chỗ khác tìm còn hơn.
Tôi và Tuyền béo đang định rút ra, đột nhiên cảm thấy trên đầu có tiếng động, một cơn gió lạnh ập tới. Chúng tôi vội cúi rạp đầu tránh, trong cột sáng ngắn ngủn của ngọn đèn pin, chỉ thấy một bóng người trắng toát từ trên trần nhà buông thõng đầu xuống, cũng chẳng nhìn rõ chân của người đó móc ở nơi nào, chỉ có hai cánh tay và cái đầu đeo ngược ngay trước mặt chúng tôi, đung đưa qua lại như muốn vươn tay ra chộp.
Tôi và Tuyền béo vội cùng lấy vỏ đao chặn vào đầu đối phương, đè gí lên tường, đèn công binh trước ngực vừa khéo chiếu đúng vào mặt kẻ ấy. Gương mặt ấy chắc chắn không thể nào thuộc về người sống được, trắng một cách lạ lùng, vả lại còn khô héo đến độ bắt đầu hõm vào, móng tay dài uốn cong, rung lên khe khẽ từng chập một.
Người chết treo thì chúng tôi gặp rồi, nhưng người chết treo lộn ngược cắm đầu xuống đất thế này thì tôi chưa từng gặp bao giờ. Cái xác ấy, chỉ lộ nửa thân trên, khắp người dính bùn đất, trông như thể vừa mới bò ra khỏi mộ, mũi và miệng gần như đã thối rữa, cằm rụng mất một miếng lớn, chỗ trăng trắng trên mặt toàn là giòi bọ, duy chỉ đôi mắt là vẫn có thần. Nhưng đôi mắt ấy không phải mắt của người sống, đôi mắt người chết này không chuyển động, tuy có lóe lên dưới ánh đèn, nhưng ánh mắt đờ đẫn, nhìn chằm chằm vào chúng tôi.
Tôi và Tuyền béo giật bắn cả mình, tuy bắp chân cả hai đều sắp nhũn ra đến nơi, nhưng vẫn nghiến răng dùng vỏ đao ghì chặt đầu của cái xác treo ngược ấy lên tường. Trong cơn hoảng loạn, Tuyền béo định rút súng bắn, tôi vừa nhìn chằm chằm vào đôi mắt tử thi, vừa cuống cuồng quát cậu ta: “Mau nhìn thẳng vào mắt nó, tuyệt đối không được chớp mắt."
Trong viện nghiên cứu có rất nhiều người đột tử, dựa theo lá di thư của người Nga kia để lại mà đoán, thời điểm xảy ra sự cố trọng đại ấy vừa khéo đúng lúc bọn phỉ Nê Hội mới vận chuyển cái rương đồng từ trong núi đến chưa được bao lâu. Tuy vẫn chưa thể xác định nguyên nhân cái chết của những người này có liên quan đến nó hay không, nhưng phần nhiều là khó mà tránh khỏi can hệ. Tuy bên trong tòa nhà, mọi thứ đều tĩnh lặng im lìm, bọn hoàng bì tử muốn hại tính mạng chúng tôi cũng đã bị xử lý, nhưng nói gì thì nói, chúng tôi vẫn còn phải ở lại đây một thời gian nữa, tuyệt đối không thể qua loa đại khái được. Có lẽ trong cái rương này còn lại đầu mối gì đó, thôi cứ xem cho rõ ràng, để sau này dù có gặp phải thứ gì thì tâm lý cũng đã được chuẩn bị sẵn rồi.
Nghĩ tới đây, tôi bèn không ngăn Tuyền béo nữa, để cho cậu ta mở nắp rương lên, giơ đèn pin chiếu vào trong, đúng thực là chẳng còn gì cả. Thấy dưới đáy rương chỉ còn vương vãi lại một ít mạt gỗ màu đen, chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, chẳng biết nói gì, cũng không đoán nổi rốt cuộc đó là cái thứ gì? Tuyền béo thuận chân đá văng cái rương đồng sang một bên. Chúng tôi còn muốn tiếp tục tìm kiếm trong phòng chứa đồ này xem có thuốc men gì không, bèn bảo Đinh Tư Điềm ngồi trên cái rương gỗ gần cửa nghỉ tạm, lão Dương Bì cũng ở lại đó trông chừng cô.
Lão Dương Bì đúng là quá sức cẩn thận. Tôi bảo ông hát cho Đinh Tư Điềm tỉnh táo từ lúc nãy, đến giờ ông vẫn còn ngâm nga hát ư ử không ngừng. Trong tiếng hát khàn khàn, “cưỡi ngựa trắng, chạy trên bãi cát, tôi không có vợ, em chẳng có chồng, hai người rổ rá cạp lại, hây dồ hây dồ...," của ông, tôi và Tuyền béo soi đèn lục lọi, mở hết cái rương này đến cái rương khác, những thứ phát hiện bên trong ấy toàn bộ đều khiến chúng tôi giật mình kinh ngạc.
Kỳ lạ nhất phải kể đến cái tráp gỗ đen bóng đựng trong một cái rương. Trong tráp để một bình thủy tinh, thoạt trông sáng bóng như mới, nhưng xem ra có vẻ là đồ cổ. Trong bình đựng một cái đầu lâu to tướng màu xanh, đường kính miệng bình chỉ khoảng bảy tám xăng ti mét, còn đường kính của cái đầu lâu kia dễ phải đến gần ba chục xăng ti mét, chẳng hiểu làm sao mà nhét lọt vào được bên trong, lại cũng chẳng thể nào biết cái bình này rốt cuộc dùng để làm gì.
Lại còn một cái vại sành cổ màu đen, trên thân khắc nhằng nhịt đủ các loại bùa chú cổ của Trung Quốc, nhìn bề ngoài chẳng có gì đặc biệt, nhưng được gói bọc cực kỳ cẩn thận, cứ như là một món bảo vật vô cùng trân quý vậy. Cái vại sành này làm tôi nhớ đến một chuyện nghe kể đã lâu. Trước giải phóng, ở Bắc Kinh có một tay buôn đồ cổ, trong một lần về miền quê gom hàng, vô tình mua được một cái bình màu đen của một nhà nông dân, chỉ thấy trên thân bình khắc đầy chữ Triện cổ, thoạt trông có vẻ là lời nguyền hay bùa chú gì chẳng rõ. Món đồ đó nhà chủ đòi giá cũng không cao lắm, thành thử chỉ là tiện tay nhặt thêm trong lúc mua các món khác mà thôi. Cái bình cổ này nhìn hết sức đơn giản, chẳng có hoa hòe hoa sói gì, màu sắc đen kìn kịt, niên đại cũng chẳng đoán được, nhưng tay buôn đồ cổ kia lại rất kết, không nỡ bán đi, mà giữ lại làm của riêng, để trong nhà đổ nước vào cắm hoa.
Một năm nọ, trời lạnh đến nỗi giọt nước nhỏ ra liền đông cứng thành băng ngay. Tay buôn đồ cổ kia gặp lúc bận buôn bán tíu tít, quên bẵng không đổ hết nước trong bình đi, đến khi nhớ ra, cứ tưởng cái bình ấy chắc là phải nứt rạn mất rồi. Ai dè ngày hôm sau về nhà xem lại, mới thấy trong sân mấy chỗ có nước thì đều đã đóng băng hết cả, duy chỉ có nước bên trong cái bình sành đen ngòm đò vẫn không sao. Tay buôn đồ cổ lấy làm kỳ lạ, lấy nước đổ vào lần nữa thử nghiệm xem sao, kết quả là để cả ngày nước vẫn không đóng băng, thậm chí đem ra giữa trời băng đất tuyết thò tay vào bình, còn cảm thấy nước bên trong không hề có chút hơi lạnh.
Nếu rót nước canh nóng, trà nóng vào cái bình ấy, cứ tha hồ để cả ngày trời, lúc nào cũng như vừa nhấc ở trên bếp lò ra vậy. Từ đó, tay buôn đồ cổ ấy mới biết đó là báu vật cực quý. Nhưng có lần uống rượu say, ông ta chẳng may hất cái bình cổ ấy từ trên bàn rơi xuống đất vỡ choang làm mấy mảnh, mới phát hiện ra chất gốm cũng chẳng có gì khác với đồ sành sứ thông thường, chỉ đặc biệt là có thêm một lớp, nghĩa là cái bình này gồm hai lớp vỏ, lớp trong khắc hình “Quỷ công thôi hỏa đồ"[31], con quỷ mặt mũi dữ tợn, răng nanh lởm chởm đầy mồm, tay cầm củi tay cầm quạt quạt thổi lửa, nét khắc cực kỳ tinh xảo đẹp đẽ. Nét khắc ấy, tựa hồ như con người khó mà điêu khắc ra được, chỉ có thể dùng cụm từ “quỷ phủ thần công" để hình dung mà thôi. Nhưng lúc đó, cũng chẳng ai biết được cái bình cổ ấy rốt cuộc là sản vật của thời đại nào.
Thấy bảo về sau có người nói rằng, loại đồ vật ngoài chạm phù chú trong khắc ma quỷ này đều là sản phẩm bí truyền của vùng Thần Châu ở Tương Tây, công nghệ đã thất truyền từ xa xưa, hiện giờ gần như không gặp được món nào còn nguyên vẹn hoàn chỉnh, có mảnh vỡ chăng nữa thì cũng toàn là đào trong các cổ mộ ra cả. Thời đó, tôi nghe thì nghe vậy, nghĩ chắc cũng chỉ là kiểu chuyện cổ tích về hồ lô báu vậy thôi, giờ tận mắt thấy cái bình sành này, không ngờ rất giống với những gì tả trong câu chuyện ấy, các chi tiết nhất nhất đều trùng khớp, xem ra rất nhiều công nghệ và trí tuệ của cổ nhân đã bị thất truyền, người thời nay đúng là chỉ còn biết thán phục mà thôi.
Lúc bấy giờ, tuy khá hiếu kỳ, nhưng tôi không nghĩ mấy món cổ vật này có giá trị gì cho lắm, đằng nào cũng toàn là tàn dư của chế độ cũ, chỉ xem qua một lượt rồi cất lại. Trong lúc đó, Tuyền béo bới ra được một đống thứ lung tung, cứ gãi đầu gãi tai, tỏ ý không thu hoạch được gì.
Tuyền béo nhìn đống đồ, lấy làm kỳ quặc, thắc mắc với tôi: “Chỗ này toàn cất giữ những thứ ly kỳ cổ quái gì đâu, chẳng ăn cũng chẳng uống được, rặt mấy món vô dụng cả."
Tôi nói: “Mấy thứ này dường như đều là trộm trong các mộ cổ ra, quá nửa phần là ‘chuyện tốt’ do bọn Nê Hội kia làm rồi, phỏng chừng có một ít chắc là của nả lục soát cướp đoạt trong dân gian, dù gì thì cũng là cổ vật. Tôi còn phát hiện ra mấy thứ cũ kỹ cổ xưa này đều có một đặc điểm chung. Chắc chắn bọn chúng muốn tìm thứ gì đó rất quan trọng, đó rất có thể là cái rương đồng chiêu hồn được vẽ trên bức bích họa trong huyệt động mà chúng ta đã thấy. Cậu nhìn xem, các thứ đa phần đều được để trong rương đồng, hộp gỗ, thậm chí còn có cả mấy cỗ quan tài bằng đồng, phỏng chừng đều bị tưởng lầm là cái rương đồng kia nên mới đào lên. Trong đây chắc là không có thứ chúng ta muốn tìm đâu."
Thấy trong phòng chứa đồ chẳng thu hoạch được gì, bọn tôi đành sang chỗ khác tìm thuốc men. Lúc này, bốn người mình mẩy đều đầy thương tích, lại mệt mỏi rã rời, sắp không nhấc chân lên nổi đến nơi. Tuy ai nấy trong lòng như có lửa đốt, nhưng cũng chỉ có thể lê chậm từng bước một trên hành lang. Các tầng trong tòa nhà này đều có cáp điện, nhưng không có điện, chúng tôi không biết những kiến trúc này vốn dùng nguồn điện nào nữa. Vả lại, thuốc giải độc và thuốc trị thương cần gấp hơn nhiều, chẳng có thời giờ đâu mà đi tìm thiết bị phát điện, may có hai cái đèn pin lúc sáng lúc tịt này, cũng không đến nỗi phải hoàn toàn lần mò trong bóng tối.
Đinh Tư Điềm nằm vật trên lưng Tuyền béo, u u mê mê hỏi tôi tòa nhà này có ma hay không? Tôi khuyên cô đừng nên nghĩ ngợi lung tung, mấy chuyện ma quỷ lúc trước, chắc đều do hai con hoàng bì tử kia gây ra cả thôi. Nói thì nói vậy, nhưng tôi cũng không khỏi chột dạ, tòa nhà này vừa khéo xây ngay bên dưới hang động ở sườn núi kia, nhìn từ phía ngoài, có thể trông thấy ở chỗ dốc núi có mấy pho tượng thú đá rất lớn, rất giống những gì được miêu tả trong truyền thuyết về Quỷ nha môn, mà tương truyền, đó chính là lối vào của Quỷ môn quan. Nghĩ tới đây, tôi lại liên tưởng đến cái bình cổ màu đen lúc nãy, cảm thấy có một số truyền thuyết không chỉ là lời đồn vô căn cứ, không có lửa thì làm sao có khói được? Gọi là Quỷ nha môn, lẽ nào trong cái hang núi ấy có ma quỷ thật?
Tôi thầm nhủ, tốt nhất không nên nhắc đến nữa, cứ thắc mắc có ma quỷ hay không mãi thì dù không có ma có quỷ cũng thành ra có cho xem. Bên trong tòa nhà tuy không có ánh sáng, nhưng thiết nghĩ, giờ trời cũng sáng rồi, ban ngày ban mặt lấy đâu ra có ma quỷ. Tôi vừa cố kiếm lý do để ổn định tinh thần, vừa lục lọi tìm kiếm trong từng phòng một.
Tòa nhà này có hai tầng ngầm, quy mô tầng dưới lớn hơn tầng trên rất nhiều, các hành lang đều đánh ký hiệu bằng sơn đỏ, có lẽ đây thuộc về khu vực được bảo mật, nếu không có những ký hiệu này thì rất dễ lạc đường. Giờ đã vào đến khu vực hạch tâm của toàn bộ viện nghiên cứu, cứu được Đinh Tư Điềm hay không, đều phải dựa vào đây cả, chúng tôi chỉ còn cách triển khai tìm kiếm theo phương thức rải thảm.
Tôi vẫn còn một thắc mắc chưa giải được. Đó là, quân Nhật xây dựng cơ sở nghiên cứu bí mật quy mô lớn thế này, sợ rằng không đơn giản chỉ để nghiên cứu chất độc và vi khuẩn, trong đây e là còn những bí mật và hạng mục nghiên cứu kinh người hơn nữa, có điều những sự việc này thật quá phức tạp, vả lại chúng tôi mới chỉ thấy được một phần nổi của tảng băng chìm, căn bản là không có đầu mối gì cả, càng nghĩ sâu lại càng thấy đau đầu, tựa như có rất nhiều rất nhiều con sâu nhỏ bò lúc nhúc cắn lung tung bên trong vậy. Tôi cứ vừa đi vừa nghĩ miên man, bất giác đã cùng ba người kia đi đến cuối một lối đi rộng rãi, thấy có một cánh cửa lớn hình tròn, bên trên có vẽ một số “0" màu đỏ rất chói mắt.
Cửa sắt chỉ khép hờ chứ không khóa, cánh cửa này khác hẳn những cánh cửa chúng tôi thấy ở quanh đây. Các phòng dưới tầng hầm này có lớn có nhỏ, mục đích sử dụng cũng khác nhau, dọc đường vừa đi vừa kiểm tra xem xét, tôi thấy gần như là chẳng có quy luật gì hết. Tôi giơ đèn pin quét một lượt vào bên trong, chỉ thấy tối om, có vẻ như rất sâu, không gian còn lớn hơn tôi nghĩ rất nhiều. Tôi quyết định vào xem thử, nhưng tình hình bên trong chưa rõ ràng, không biết có nguy hiểm gì hay không, bèn bảo Tuyền béo đứng ở ngoài cửa tiếp ứng, để tôi một mình vào thăm dò.
Vết thương của Tuyền béo lại đau nhói, cậu ta ôm cổ bảo tôi: “Cậu còn cử động được có một cánh tay thôi mà vẫn muốn theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân phỏng? Phải biết sức mạnh tập thể mới là vô địch chứ, tôi thấy hai chúng ta nên cùng vào, để bác già ở đây chăm sóc Tư Điềm, chắc chả có gì đáng lo cả đâu."
Từ lúc ở bên ngoài vào đến đây, tuy đã gặp vô số xác chết, nhưng không thấy nguy hiểm gì, đằng sau cánh cửa số “0" này vạn nhất có gì bất trắc, với tình trạng của tôi lúc này thật sự không thể nào ứng phó nổi. Nếu Tuyền béo một mình vào trong, cậu ta bộp chà bộp chộp như thế lại càng nguy hiểm hơn, để tôi và cậu ta tiếp ứng cho nhau có lẽ tương đối ổn thỏa, vì vậy, tôi nghĩ ngợi giây lát rồi gật đầu đồng ý.
Chúng tôi đưa bảo đao Khang Hy cho lão Dương Bì, dặn ông để ý Đinh Tư Điềm, bên trong bất luận xảy ra chuyện gì cũng đừng tiến vào, chúng tôi cũng không đi xa quá, thăm dò tình hình xong sẽ lập tức trở ra. Sau đó, tôi cầm cái vỏ đao, Tuyền béo cầm khẩu poọc hoọc còn hai viên đạn, kéo cửa sắt, một trước một sau tiến vào.
Vừa đặt chân vào, cảm giác bên dưới mềm mềm, giơ đèn pin chiếu xuống, thấy bên dưới quả nhiên không phải nền xi măng, mà phủ đầy một lớp đất bùn màu đỏ. Tôi cầm vỏ đao chọc chọc mấy cái, lớp đất quá dày nên không chọc xuống đáy được, bề mặt cũng không bằng phẳng mà thành từng rãnh từng rãnh hơi giống ruộng trồng rau.
Bên trong vừa ẩm vừa lạnh, hơn nữa trong không khí hình như có rất nhiều tạp chất, tuy hít thở không cảm thấy gì, nhưng làm lệch cả cột ánh sáng của ngọn đèn pin, phạm vi chiếu sáng rút ngắn lại chỉ còn hơn một nửa. Bóng tối tựa như sắp nuốt trọn toàn bộ ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn. Chúng tôi không dám tùy tiện đi vào sâu bên trong, chỉ men theo cánh cửa sắt có ký hiệu số 0, lần dò đến sát tường. Điều nằm ngoài dự liệu của tôi là, vách tường ở đây toàn bộ đều bằng gạch đất, hơn nữa lại nối liền với trần thành một mái vòm, tạo thành một gian hầm cao ở giữa, thấp ở hai bên, hình dáng khá giống với nhà hầm ở khu vực cao nguyên hoàng thổ.
Tôi và Tuyền béo đoán đây có lẽ là kho chứa rau của bọn Nhật, nhưng nghĩ kỹ ra, lại thấy có gì đó không ổn, trên bề mặt vách tường có rất nhiều mấu gồ lên, nối thành một mảng, giống như có người lấy bùn đất trát lên tường làm gì đó. Xem tới đây, tôi đoán cũng chẳng tìm được thuốc men gì rồi, chỗ này có vẻ cũng chẳng phải đất lành, có trời mới biết là để làm trò quỷ quái gì, chi bằng quay lại rồi nghĩ cách đi chỗ khác tìm còn hơn.
Tôi và Tuyền béo đang định rút ra, đột nhiên cảm thấy trên đầu có tiếng động, một cơn gió lạnh ập tới. Chúng tôi vội cúi rạp đầu tránh, trong cột sáng ngắn ngủn của ngọn đèn pin, chỉ thấy một bóng người trắng toát từ trên trần nhà buông thõng đầu xuống, cũng chẳng nhìn rõ chân của người đó móc ở nơi nào, chỉ có hai cánh tay và cái đầu đeo ngược ngay trước mặt chúng tôi, đung đưa qua lại như muốn vươn tay ra chộp.
Tôi và Tuyền béo vội cùng lấy vỏ đao chặn vào đầu đối phương, đè gí lên tường, đèn công binh trước ngực vừa khéo chiếu đúng vào mặt kẻ ấy. Gương mặt ấy chắc chắn không thể nào thuộc về người sống được, trắng một cách lạ lùng, vả lại còn khô héo đến độ bắt đầu hõm vào, móng tay dài uốn cong, rung lên khe khẽ từng chập một.
Người chết treo thì chúng tôi gặp rồi, nhưng người chết treo lộn ngược cắm đầu xuống đất thế này thì tôi chưa từng gặp bao giờ. Cái xác ấy, chỉ lộ nửa thân trên, khắp người dính bùn đất, trông như thể vừa mới bò ra khỏi mộ, mũi và miệng gần như đã thối rữa, cằm rụng mất một miếng lớn, chỗ trăng trắng trên mặt toàn là giòi bọ, duy chỉ đôi mắt là vẫn có thần. Nhưng đôi mắt ấy không phải mắt của người sống, đôi mắt người chết này không chuyển động, tuy có lóe lên dưới ánh đèn, nhưng ánh mắt đờ đẫn, nhìn chằm chằm vào chúng tôi.
Tôi và Tuyền béo giật bắn cả mình, tuy bắp chân cả hai đều sắp nhũn ra đến nơi, nhưng vẫn nghiến răng dùng vỏ đao ghì chặt đầu của cái xác treo ngược ấy lên tường. Trong cơn hoảng loạn, Tuyền béo định rút súng bắn, tôi vừa nhìn chằm chằm vào đôi mắt tử thi, vừa cuống cuồng quát cậu ta: “Mau nhìn thẳng vào mắt nó, tuyệt đối không được chớp mắt."
Tác giả :
Thiên Hạ Bá Xướng