Linh Phi Kinh

Quyển 1 - Chương 1: Kim Lăng Ca Vũ

“Thiên Hạ Đệ Nhất Nhân - Thế Gian Vô Song Đạo"(*)
(ND chú: có nghĩa là nhân vật số một trên đời, Đạo có một không hai trên thế gian)

Một tấm bia đá màu xanh rêu, mặt trên khắc mười chữ vàng, gió mưa mày mòn bao năm, nét chữ đã nhạt mờ loang lổ.

Một vị đạo sĩ đứng trước mặt bia, chăm chú ngắm nghía hồi lâu rồi ngẩng đầu nhìn về phía tòa nhà lớn đằng trước, nơi ấy lớp lớp ngói xanh, tráng lệ vô cùng, đầu cổng có đề hai chữ "Thích phủ".

- Lão mũi trâu! - Thằng gác trông thấy đạo sĩ, nom dáng vẻ khả nghi bèn cảnh giác: - Ông định làm gì?

- Hóa duyên! - Đạo sĩ thuận miệng đáp.

Thằng gác cổng xùy một tiếng, quay đầu vào trong í ới: 
- Có kẻ đến xin cơm này!

- Bần đạo không xin cơm! - Đạo sĩ khẽ lắc đầu.

- Ông đương nhiên là không xin cơm! - Thằng đầy tớ hai tay chống nạnh, ra vẻ chế giễu: - Ông xin tiền chứ gì?

- Bần đạo cũng không xin tiền.

- Không xin tiền? - Thằng đầy tớ lấy làm lạ: - Chớ ông muốn cái gì?

Đạo sĩ mỉm cười chỉ vào chữ "Đạo" trên tấm bia.

- Vậy là ý gì? - Thằng đầy tớ cảm thấy quái lạ.

- Đạo khả đạo, phi thường đạo(*), nếu thế gian đã có đạo tự coi là vô song, thì thân làm đạo sĩ như ta đây thật muốn thỉnh giáo!
(ND chú: "Đạo khả đạo, phi thường đạo" - nguyên sơ câu nói này của Lão Tử là "Đạo khả đạo, phi hằng đạo, danh khả danh, phi hằng danh.". Tuy nhiên vào triều Tây Hán, vì tránh tên húy của Hán Văn Đế - Lưu Hằng, chữ "Hằng" phải đổi thành "Thường"! Chữ "Đạo" đầu tiên biểu thị chân lý của vạn sự, vạn vật; "Khả Đạo" - chỉ có thể miễn cưỡng gọi là đạo; "Hằng" - vĩnh viễn bất biến; "Phi Hằng Đạo" - không phải chân lý vĩnh viễn bất biến. Nghĩa câu trên chính là: ý nghĩa thật sự của "Đạo" vốn không thể tôn xưng hay mệnh danh, chỉ có thể miễn cưỡng gọi là Đạo mà thôi) 

Thằng đầy tớ biến sắc: 
- Lão mũi trâu, ông đến để gây sự?

- Luận đạo mà thôi, nào dám gây sự! - Đạo sĩ cúi đầu hành lễ: - Phiền cậu chuyển lời cho Thích Ấn Thần Thích đại tiên sinh.

- Xui cho ông! - Thằng đầy tớ lắc lắc đầu: - Lão gia nhà ta đã đi Khai Phong rồi.

- Bao giờ thì về?

- Không rõ! - Thằng đầy tớ bắt đầu mất kiên nhẫn: - Lão mũi trâu, lão gia nhà ta thiên hạ vô địch, nếu ông định kiếm cớ sinh sự, ta khuyên ông nên suy nghĩ lại đi!

- Thiên hạ vô địch? - Đạo sĩ nhíu mày phì cười, giơ tay phải ra, đốt ngón tay thon gầy xương xẩu như cành trúc. Ông tiện thể hất tay, đầu ngón lướt qua làm cho vụn đá trên mặt bia rào rào đổ xuống, phía trên chữ "Nhất" liền hiện ra thêm một nét ngang, trở thành chữ "Nhị" to tướng.

Một chỉ này kinh thế hãi tục, thằng đầy tớ há mồm đơ lưỡi chẳng biết phải làm sao. Đạo sĩ lại điềm nhiên như không, tỉnh bơ bôi đi chữ "Song" trên tấm bia, đoạn chìa tay vẽ loạc xoạc đề thành chữ "Túc", nét như rồng bay phượng múa.

Thành thử, dòng chữ trên tấm bia lúc này trở thành "Thiên Hạ Đệ Nhị Nhân, Thế Gian Vô Túc Đạo"(*) Bao nhiêu khí thế ngạo nghễ đều bị quét tan sạch sẽ, chỉ còn lại nỗi nhục nhã tràn trề. 
(ND chú: Nhân vật chỉ đứng hạng hai trên đời, Đạo nhỏ tầm thường trên thế gian)

Thằng đầy tớ trố mắt nhìn đạo sĩ, mặt mày tái mét: 
- Lão mũi trâu... Ông, ông là ai...

Đạo sĩ ngẩng đầu lên, đôi tròng mắt nhạt màu sáng quắc lên: 
- Bần đạo là Linh đạo nhân, kẻ vô danh nơi sơn dã, bấy lâu nghe tiếng Thích tiên sinh luôn tự hào về vô song chi đạo nên cố ý đến xem thử. Ta trọ lại quán Thừa Hoàng cách đây mười dặm, nếu như Thích tiên sinh trở về, mong người hạ cố ghé thăm tệ quán để cùng luận đạo cho tỏ tường. Quá hạn ba ngày ta sẽ không đợi nữa!

Nói đoạn nghênh ngang bỏ đi.


Tiếng ngựa hí vang xé toang màn sương sớm, Thích Ấn Thần thúc ngựa tung vó trông về tòa phủ đệ xa xa đằng trước, trên trán in hằn nét mỏi mệt.

- Cha! - Một gã thiếu niên chạy ùa ra như bay, quỳ sụp xuống mừng rỡ: - Người cuối cùng cũng về rồi!

- Chạy chết mất hai thớt ngựa! 

Thích Ấn Thần nhảy xuống đất, vỗ về lưng ngựa, khẽ thở dài một hơi. Con ngựa tốt này mồm mép sùi bọt trắng, cũng sắp liêu xiêu chực ngã đến nơi.

- Yến Chi! - Thích Ấn Thần đảo mắt nhìn về phía con trai: - Việc ấy là thật chứ? Lúc nhận được bồ câu đưa thư, ta đang chơi cờ cùng lão hòa thượng Trí Thanh ở chùa Đại Tướng Quốc.(*)
(ND chú: một ngôi chùa cổ nổi tiếng thuộc Khai Phong tỉnh Hà Nam)

- Nếu không phải bất đắc dĩ, con tuyệt đối không dám quấy nhiễu đến nhã hứng của cha. - Thích Yến Chi rũ đầu xuống, khẽ giọng: - Nếu cha không tin có thể nhìn tấm bia.

Thích Ấn Thần bước lại gần bia đá chăm chú quan sát. Toàn thể tôi tớ của Thích phủ đứng xung quanh đều nín thở theo dõi.

- Cương cực phản nhu! - Thích Ấn Thần vuốt tay lên chữ "Túc" ấy, nhẹ giọng bảo: - Chỉ lực mới lợi hại làm sao!

Hai từ "Lợi hại" thốt ra từ chính miệng lão, Yến Chi từ lúc sinh ra đến giờ mới lần đầu nghe thấy, gã mau miệng hỏi: 
- Cương cực phản nhu nghĩa là sao?

- Chữ này liếm vào đá rất sâu, nếu muốn thực hiện cần phải có chỉ lực vô cùng mạnh mẽ, nhưng nếu dùng lực mạnh mẽ sẽ khiến cho nét bút xung quanh rạn nứt; nhưng con xem, chữ "Túc" này nét bút tròn đầy, đường viền mượt mà, giống như có kẻ dùng bút lông sói mềm mại viết lên đậu phụ với nét ngòi dứt khoát không hề ngập ngừng.

Thích Yến Chi nghe đến nghệch mặt, lẩm bẩm hỏi: 
- Cha... cha làm được như vậy không?

Thích Ấn Thần mỉm cười không đáp, điềm nhiên hỏi: 
- Vị đạo sĩ ấy còn ở quán Thừa Hoàng chứ?

- Thưa, vẫn còn! Theo tin tức mà con thăm dò, sau khi ông ta vào đạo quán rồi thì suốt ngày ở lì trong phòng, ngoại trừ ba bữa cơm một ngày, hầu như không gặp ai khác.

Thích Yến Chi nói đến đây thầm cảm thấy khó hiểu: 
- Chẳng biết ông ta có ý định gì nữa?

- Trước cơn giông bão bao giờ đất trời cũng tĩnh lặng! - Thích Ấn Thần khép đôi mắt lại, nói với vẻ xa xăm: - Ông ta đang muốn tích sức chờ thời đây mà!

Thích Yến Chi vội hỏi: 
- Cha đã nghỉ ngơi chưa?

- Ta đã ngủ trên lưng ngựa rồi! - Thích Ấn Thần phẩy tay áo, hờ hững bảo: - Được lắm, vậy giờ ta đến quán Thừa Hoàng xem sao.

Thích Yến Chi thoáng ngần ngừ, thấp giọng bảo: 
- Chẳng rõ ai để lộ tin tức mà bên ngoài quán Thừa Hoàng có rất đông nhân sĩ võ lâm kéo đến hóng chuyện.

- Vậy thì sao? - Thích Ấn Thần lườm gã: - Con nghĩ ta sẽ thua à?

- Đương nhiên là không rồi. - Thích Yến Chi trở nên kích động: - Cha vốn là thiên hạ vô địch mà.

- Thiên hạ vô địch chẳng qua chỉ là hư danh mà thôi. - Thích Ấn Thần thờ ơ nói: - Yến Chi, con cho rằng vì sao ta lại lập ra tấm bia này?

- Để biểu trương thần công cái thế của cha!

Thích Ấn Thần lắc đầu, chắp tay sau lưng nói: 
- Tấm bia đá này chỉ là mồi câu mà thôi.

- Mồi câu à? - Thích Yến Chi ngẩn người.

- Không sai! - Thích Ấn Thần phá lên cười to: - Ta muốn dùng thứ mồi câu này để nhử cao thủ trong thiên hạ, hôm nay may mắn dính được một con cá lớn rồi.

Nói rồi, lão vừa cười dài vừa sải bước tiến về hướng bắc.

Lão đi bằng chân còn nhanh hơn cả phi ngựa, nhoáng cái đám người cưỡi ngựa trong phủ đã bị bỏ tuốt lại phía sau.

Đi qua một quán rượu, Thích Ấn Thần chợt nhớ ra mình đã đi suốt một ngày hai đêm mà chưa có tí gì vào bụng, lão lập tức tiến lên xô cửa chính bước vào. Chủ quán trông thấy lão thì không khỏi kinh ngạc, Thích Ấn Thần cũng chẳng tiện nhiều lời, ngồi ngay xuống bàn gọi thịt bò rượu trắng ra ăn vội uống vàng để khỏa lấp cái bụng trống rỗng.

Chữ "Thích" trong "Thích Ấn Thần" vốn chẳng phải là họ thật của lão, lão không cha không mẹ, thuở nhỏ xuất gia, thế nhưng trời sinh tính khí mạnh bạo, ưa rượu khoái thịt, ngàn ly không sai, mang tiếng đi tu nhưng lại chẳng chịu giữ thanh quy giới luật mà chỉ học mỗi thần công nhà Phật, cuối cùng nhập thế hoàn tục, trở thành cường nhân một thời.

Thích Ấn Thần lấy họ "Thích" là vì không quên đi nguồn gốc của mình, chẳng những vậy còn hay khoe khoang với người đời rằng lão và phật Tổ cùng họ với nhau. Như Lai lên trời xuống đất, duy ngã độc tôn; Thích Ấn Thần lão không mong lên trời, cũng chẳng cầu xuống đất, chả cần độ qua tam giới, chỉ muốn mình là đệ nhất thiên hạ.

Lúc đám gia nhân chạy đến nơi thì lão đã uống cạn hai vò rượu mạnh, ăn sạch vài cân thịt bò, mặt không đổi sắc, cứ thế sải bước đi đến quán Thừa Hoàng.

Cổng chính của đạo quán đóng chặt, bên ngoài đứng lao nhao hơn trăm người, có không ít những vị hiệp khách đến từ các châu các tỉnh, cũng chả hiếm kẻ thù từng bại dưới tay Thích Ấn Thần, lại càng có đông đảo mấy tay giang hồ ưa hóng hớt tụ tập bát nháo từ bốn phương tám hướng kéo về đây.

Từ khi hoàn tục đến nay, Thích Ấn Thần ngang dọc thiên hạ đã ngót nghét hai mươi năm, bắc đến Đại Liêu, Nam đến Đại Lý, Tây đến Tây Hạ, Thổ Phồn, Đông đến biên giới Đại Tống; lão tung hoành khắp năm nước mong tìm gặp địch thủ xứng tầm nhưng mãi vẫn không thấy đâu, vì vậy cảm thấy cô đơn lẻ loi mới lập bia trước cổng, khinh ngạo võ lâm. Nhiều năm trôi qua, tấm bia đá ngoài cổng Thích phủ ấy chẳng khác nào ấn vua, miện đế, tự khoác cho mình một vẻ thiêng liêng riêng biệt đến độ chẳng ai dám mạo phạm. Ngờ đâu, một tên đạo sĩ chốn hoang sơn bỗng nhiên xuất hiện, lại còn khắc đá chêm chữ, chế giễu Thích Ấn Thần chẳng ra thể thống gì, bất kể là bản lĩnh hay lòng can đảm đều khiến cho người đương thời rúng động.

Trông thấy Thích Ấn Thần, mọi người vội khép nép chừa ra một lối đi. Thích Ấn Thần đến trước quán, sang sảng cất tiếng: 
- Linh đạo nhân có đó không? Thích mỗ theo hẹn đến rồi đây!

Tiếng vang như chuông rền, đến mái ngói cũng phải rung lắc.

Lâu mãi vẫn không thấy hồi đáp, bên trong đạo quán lặng phắt như tờ, một số kẻ giang hồ thầm nghĩ trong bụng: "Lẽ nào tên đạo sĩ ấy là hạng đầu hổ đuôi rắn, trông thấy chân diện mục của Thích Ấn Thần nên sợ quá trốn lủi đi mất rồi?"

Đang đoán già đoán non, cánh cổng đen kịt chợt "Két" một tiếng, từ từ mở ra. Mọi người nghe tiếng nhìn đến, bên trong bước ra một vị đạo đồng nhỏ xíu, tuổi đời ước độ mười hai, răng trắng môi hồng, nét mặt non nớt, bắt gặp đám hiệp khách đông như kiến liền tỏ vẻ hoảng sợ. Cậu ta lấy lại bình tĩnh, chấp tay thưa: 
- Thích Ấn Thần... Thích tiên sinh có ở đây không ạ?

- Chính là ta! - Thích Ấn Thần lách khỏi đám đông tiến lên phía trước. Lão có vóc người cao lớn, khí phách hiên ngang, mỗi khi giơ tay nhấc chân đều toát ra vẻ oai hùng tự nhiên. Cậu bé đạo đồng bị khí thế của lão bức ép, không tự chủ được phải lùi về sau một bước, chân ngáng vào thềm cửa té oạch xuống đất.

Mọi người đều phá lên cười. Thích Ấn Thần cũng tủm tỉm, lớn giọng hỏi: 
- Tiểu đạo trưởng, cậu gọi ta có việc gì?

Đạo đồng lồm cồm ngồi dậy, mếu máo nói: 
- Tiểu đạo là Tu Nguyệt, được Linh đạo trưởng nhờ chuyển cho ngài mấy lời.

Thích Ấn Thần gật đầu: 
- Cứ nói đừng ngại!

Đạo đồng nghiêng đầu lệch cổ, khóe môi mấp máy nhẩm sơ lại hai lượt mới cất tiếng: 
- Linh đạo trưởng bảo rằng: "Thần nhân vô công, thánh nhân vô danh(*), bần đạo không dám cậy mình thần thánh, bản thân lại là kẻ xuất gia, chẳng thiết phô trương tên tuổi, cho nên bố trí một gian phòng kín chỉ có Thích tiên sinh và bần đạo so tài, hôm nay dù thắng dù thua thế nào hai phía đều không được công khai lan truyền. Nếu Thích tiên sinh đồng ý thì xin mời vào trong, nhược bằng không xin quay về cho!"
(ND chú: nghĩa là bậc thần thánh vốn ẩn mình, không khoe khoang danh tính lẫn công trạng) 

Đám hiệp khách nghe xong, ai nấy đều chán nản thất vọng, thầm nghĩ vị Linh đạo nhân này quái lạ quá cỡ; theo như lời y nói, hai bên đóng cửa so tài, mọi người không thể chứng kiến được khác nào chuyến đi trở thành vô nghĩa hay sao?

Mấy trăm cặp mắt tập trung hướng về gương mặt Thích Ấn Thần. Thích Ấn Thần trầm tư giây lát, đoạn gật đầu: 
- Linh đạo trưởng nói phải, tiểu đạo trưởng, xin dẫn đường giúp!

Thích Yến Chi vội nói: 
- Cha, bên trong e rằng có điều gian trá!

- Có gian trá thì sao? - Thích Ấn Thần mỉm cười, xoạc chân bước vào đạo quán. Cậu bé đạo đồng dẫn lối đằng trước. Suốt dọc đường đi chẳng thấy một bóng người trong quán, Thích Ấn Thần sinh nghi, không thể không ngấm ngầm phòng bị.

Vòng qua dãy hành lang đến trước một cánh cửa, Tu Nguyệt khom mình nhường lối, thưa: 
- Linh đạo trưởng đang ở bên trong!

Thích Ấn Thần chăm chú nhìn cánh cửa nhưng không hề đẩy cánh tiến vào trong. Đạo đồng lấy làm ngạc nhiên, buột miệng hỏi: 
- Thích tiên sinh, sao ngài...

Lời còn chưa dứt, Thích Ấn Thần đã nhướng mày lên, trên người tỏa ra một luồng sát khí hừng hực như núi lở biển động bức ép thẳng lên người đạo đồng.

Khoảnh khắc ấy, cậu bé đạo đồng như rơi vào trong một tổ kén vô hình, mũi miệng nghẹn tắc, hô hấp khó khăn, lại phát giác luồng khí thế ấy chẳng những không giảm mà còn tăng nhanh, từ bốn phương tám hướng dồn nén vào bên trong cơ thể. Đạo đồng không chịu nổi, liên tục thụt lùi về sau, lưng tựa vào vách tường, mồ hôi tuôn như mưa. Cậu nhìn Thích Ấn Thần, trong lòng mơ hồ sợ hãi đến nỗi sản sinh ảo giác, người đàn ông này như hóa thành một ngọn núi sừng sững cao vời, chạm đến nhật nguyệt; đứng trước ông ta, cậu nhỏ bé chẳng khác nào con sâu cái kiến.

Tu Nguyệt khiếp vía đến nổi suýt ngất lịm đi. Đúng lúc này cậu chợt cảm giác có một cơn gió mát nhẹ nhàng lùa phớt lên má, thể xác và tinh thần bỗng hóa ra nhẹ nhõm, một luồng kình khí dịu dàng men theo đó truyền đến ôm trọn lấy cả người của cậu hệt như một bó ruột bông.

Tu Nguyệt dần lấy lại nhịp thở, cảm giác không khí xung quanh như chia ra làm hai, lúc cương lúc nhu, xô đẩy qua lại với nhau. Khí thế của Thích Ấn Thần bá đạo mạnh mẽ, thủ thì vững chắc như tường thành ngàn dặm, công thì ồ ạt như vạn quân đồng lòng; còn luồng khí dịu dàng kia thì tựa thể không tranh không đấu mà chỉ tuôn chảy liên miên bất tận, dày sâu vô chừng, dẫu cho luồng khí mạnh mẽ kia có dữ dội đến đâu thì cũng như hổ cắn vào nhím, chẳng có nơi đặt mõm, hoặc như một vị mãnh tướng dũng mãnh lọt vào chiến trường sống chết, dẫu thân mang võ công tuyệt thế cũng chẳng có đất dùng.

Tu Nguyệt tựa lưng vào tường, đôi chân run lập cập không vững, hai luồng khí vô hình kia cứ ập tới xô lui, chẳng những ép bức mình mẩy mà còn khủng bố cả tinh thần. Hai luồng khí cương nhu tựa như hai cánh tay lực lưỡng, mặc ý nhào nặn cậu trong lòng bàn tay, chỉ tích tắc sau đôi mắt của tiểu đạo đồng đã đỏ hoạch, miệng mồm ròng ròng nước dãi, nét mặt hằn vẻ điên dại.

- Thôi! 

Thích Ấn Thần hai mắt trợn tròn, đột nhiên quát lớn một tiếng. Tu Nguyệt như trúng phải côn, hai mắt tối sầm lại rồi ngất lịm đi.

Tiếng thét vừa dứt, không gian trước cửa như chìm vào một bức màn tĩnh lặng. Thật lâu sau, bên trong truyền ra một tiếng thở dài, Linh đạo nhân than khẽ: 
- Thích tiên sinh, tội gì làm liên lụy người khác?

Thích Ấn Thần dợm cười: 
- Ta vốn chỉ muốn thăm dò, nào ngờ đạo trưởng thần thông đến mức khiến cho ta muốn dừng mà chẳng đặng. Một khi ta với ông giao thủ, thằng bé này muốn đi cũng không được, thà làm cho nó ngất đi chốc lát còn hơn khiến nó tẩu hỏa nhập ma cả đời.

Linh đạo nhân trầm ngâm giây lát, thở dài: 
- Thích tiên sinh tuy võ công cao cường, tiếc rằng lại quá mức bá đạo.

Thích Ấn Thần cười to: 
- Thánh nhân viết "Nhu Nhược Thắng Cương Cường", võ công của đạo trưởng theo thiên hướng mềm dẻo, nhất định có thể thắng thứ võ công bá đạo của ta.

- Tiên sinh nói đùa rồi! - Linh đạo nhân nói: - Xin mời vào trong nói chuyện!

- Hay lắm!

Thích Ấn Thần tiến lên một bước, thế vừa sấn đến, cánh cửa gỗ liền tự động bung ra. Thích Ấn Thần phẩy tay áo bước vào, chỉ thấy bên trong phòng rỗng tuênh đồ đạc, dưới nền có một vị đạo sĩ đang ngồi. Giương mắt nhìn kỹ, đạo sĩ tuổi chừng bốn mươi, tướng tá gầy gò, râu tóc đen nhánh, hai mắt trong bóng tối sáng lấp lánh như sao.

Ánh mắt cả hai chạm nhau lập tức hút chặt như nam châm. Linh đạo nhân trơ ra như gỗ đá; tóc tai áo quần của Thích Ấn Thần tự động chấp chới bay, dưới nền nhà nổi lên một trận gió xoáy phất cho cánh cửa lung lay rần rật, bỗng nghe "rầm" một tiếng, cánh cửa sau cùng cũng chầm chậm sập lại.

Thích Ấn Thần điềm nhiên ngồi xuống, mỉm cười: 
- Linh đạo trưởng hẹn ta đến để thuyết đạo à?

- Không sai! - Linh đạo nhân gật gù.

- Vậy dám hỏi đạo trưởng, luận đây là đạo nơi miệng hay đạo nơi tay?

- Thế nào là đạo nơi miệng? - Linh đạo nhân khẽ nhíu mày.

- Đạo nơi miệng: nuốt sơn hà, nhả tinh tú, hít thở sáu phương, cười đón trăm sông, lấy biển xanh làm rượu nhắm, mượn đất trời làm ly bôi, ăn gan rồng, uống tủy phượng, dùng thuốc bất tử, cùng tỏa sáng với nhật nguyệt.

- Thế nào là đạo nơi tay?

- Đạo nơi tay: nắm kiếm thần, chia Cửu Châu, làm rung chuyển Ngũ Nhạc, vượt qua bảy biển, lấy Côn Luân làm cột trụ, nhặt tia chớp làm dây thừng, trói xuân thu buộc nhật nguyệt, treo cả bóng câu qua song cửa, vĩnh hằng như Bắc Đẩu.

- Khí phách lớn thật! - Linh đạo nhân vỗ tay tán thưởng: - Thu nạp cả vạn vật vào lồng ngực, xoay vần cả trời đất trong bàn tay, đây chính là đạo của Thích tiên sinh à?

- Cũng gần như vậy! - Thích Ấn Thần mỉm cười đáp.

- Nói như vậy, tiên sinh còn có đạo khác?

- Vũ trụ trời trăng chẳng qua chỉ là biểu tượng cho vạn vật, ấy chỉ là thứ đạo hữu hình, không phải đạo vô hình.

Linh đạo nhân chớp mắt mỉm cười, gật đầu bảo: 
- Bần đạo hiểu rồi, "Tiểu tượng hữu hình, đại tượng vô hình"(*), đạo của tiên sinh ẩn giữa núi sông trời đất, có ở nơi nơi nhưng lại chẳng trông thấy được.
(ND chú: câu trích đạo đức kinh của Lão tử chương 41)

- Hay cho câu "Có ở nơi nơi mà chẳng trông thấy" - Thích Ấn Thần vỗ tay cười: - Vậy chứ đạo của đạo trưởng là gì?

Linh đạo nhân mỉm cười: 
- Đạo của Thích tiên sinh có phân biệt tay-miệng, đạo của ta cũng như vậy.

- Hay, nói ra nghe thử nào.

- Đạo nơi miệng: gọi gió to, khơi mây lành, tiếng thấu trời cao, giọng ngân vạn lý, đem càn khôn làm phế tạng, biến cầu vồng thành miệng lưỡi, cất tiếng rồng ngâm, hát điệu loan ca, nghe sấm lạc vần ra tiếng nhạc thiên cung.

- Ý hay, còn đạo nơi tay thì thế nào?

- Khảy dao cầm vang vọng bát hoang, khuynh đảo lục dục, cám dỗ thất tình, biến sông cả thành đàn sáo, hóa động sâu làm trống bồi, trị âm dương, chia tinh tú, gạt lệ minh châu, ướp màu trăng sáng.

- Có ý tứ! - Thích Ấn Thần mỉm cười: - Đạo của đạo trưởng phải chăng là âm luật?

Linh đạo nhân mỉm cười đáp: 
- Cũng từa tựa.

Thích Ấn Thần gật đầu: 
- "Tiểu âm khả thính, đại âm hi thanh"(*), đạo của đạo trưởng ẩn trong gió mây sông bể, ta ở trong đó mà lại chẳng hay chẳng biết.
(ND chú: cũng xuất xứ từ Đạo Đức Kinh của Lão Tử chương 41. Lưu ý trong nguyên văn chỉ có 2 câu là “Đại tượng vô hình" và “Đại âm hi thanh" mà thôi, ko có vế trước, chắc là Phượng Ca thêm vào cho nó đối nghĩa)

Linh đạo nhân lặng im không đáp. Thích Ấn Thần cười tiếp lời: 
- Linh đạo trưởng, võ mồm của chúng ta chẳng ai kém ai, nếu muốn phân cao thấp e rằng phải đấu một trận rồi.

- Thích tiên sinh, mời! - Linh đạo nhân một tay rũ xuống, một tay án ngữ trước ngực.

Thích Ấn Thần cười vang ha hả, tay trái siết thành nắm đấm, chầm chậm vụt về phía trước. Y ra tay từ tốn nhưng lại dẫn theo một luồng kình phong, khí thế như rồng bay rắn lượn, tưởng trái mà phải, tưởng cao mà thấp, tưởng chậm mà nhanh, một quyền hết sức bình thường lại tiềm ẩn biến hóa vô cùng, dư sức khắc chế bất cứ võ công nào trong thiên hạ, cho dù đối thủ đối phó ra sao thì Thích Ấn Thần đều có khả năng đi trước một bước mà vững vàng khống chế.

Thế nhưng Linh đạo nhân cứ thế ngồi yên, chẳng né tránh cũng chẳng ra tay, chỉ hé mắt ra, áp bàn tay vào ngực, quyền phong vừa đến gần, tấm áo bào của ông theo gió bay phất phới, lúc phồng lên khi xẹp xuống tựa như sóng gợn. Quyền vừa chạm vào người thoảng như dòng nước xiết chảy cuồn cuộn trượt qua mỏm đá. Linh đạo nhân mặt không đổi sắc, mỉm cười hỏi: 
- Thích tiên sinh, quyền này có tên gọi hay chăng?

Thích Ấn Thần nhướng mày bật cười, cao giọng bảo: 
- Tùy cơ phát ra thôi, kể tên gọi làm gì, nếu đạo trưởng không ngại Thích mỗ cuồng vọng, cứ gọi nó là "Đại Tượng Vô Hình Quyền" cũng được.

- Hay cho "Đại Tượng Vô Hình Quyền"! Vậy hãy xem "Đại Âm Hi Thanh Chỉ" của ta thế nào nhé?

Linh đạo nhân giơ năm ngón tay ra như thể khảy đàn tì bà, nhẹ nhàng phất về phía trước, đẩy ra một luồng kình lực nhu hòa. Thích Ấn Thần đã từng trông thấy chỉ lực trên tấm bia đá, không dám xem thường, vội thu quyền về đỡ lấy chỉ lực đang lao đến. Hai luồng kình lực gặp nhau, Thích Ấn Thần chợt thấy không ổn, kình lực của Linh đạo nhân nhìn thì có vẻ hiền hòa nhưng thật ra kín kẽ vô cùng, ban đầu tưởng dễ đối phó nhưng khi đến gần liền sinh ra một lực cản cực lớn, thế như dây cung bị kéo căng tích đầy sức mạnh, buông tay một cái là bật ngược lại ngay.

Thích Ấn Thần đã trải qua trăm trận chiến, gặp không ít cao thủ, mấy kẻ này dù quyền hay chưởng thì thông thường đều chỉ hàm chứa mấy đợt kình lực, mỗi đợt cứ thế tiếp nối nhau như lớp lớp sóng cồn, khiến người ta phải chống đỡ liên tục, nhưng cái loại kình lực này vốn không duy trì được lâu, cùng lắm sáu bảy đợt là hết mức, qua hết số này chắc chắn khí thế suy yếu dần.

Nhưng kình lực của Linh đạo nhân lại không giống như vậy, chỉ lực đâu chỉ có sáu bảy đợt mà tưởng chừng như đến ngàn vạn đợt, vô cùng vô tận, mỗi một đợt kình lực đều hết sức nhu hòa, nhưng trước sau nối tiếp, liên miên không ngừng nghỉ. Thích Ấn Thần vừa phá tan một đợt thì lại xô đến một đợt khác, hệt như nước rỏ xuống đá, từng giọt từng giọt làm mòn đi quyền kình, lại như thủy ngân chảy xuống đất, liên tục tìm kiếm kẽ hở mà ngấm vào nội lực của lão.

Võ công của Thích Ấn Thần thiên về cương mãnh, chẳng bao lâu sau nội lực đã dần giảm sút, Linh đạo nhân lập tức phản công, tung chỉ điểm vào chỗ sơ hở trên quyền kình của lão.

Thích Ấn Thần quát khẽ một tiếng, tống ra quyền thứ hai. Linh đạo nhân trở tay chặn lại, hai luồng kình lực bốc lên va vào nhau làm dậy lên một trận gió mạnh trong gian tĩnh thất. Thân thể hai người còn chưa nhỏm dậy đã đồng loạt lướt vèo về sau. Trong chớp mắt, quyền chưởng dày đặc như mưa, trao đổi với nhau hơn một trăm chiêu, ra tay nhanh quá mức tưởng tượng.

Cứ đánh nhau cách một khoảng không như thế, hai người càng lùi càng xa, chẳng mấy chốc đã dựa vào vách tường, mắt thấy tường xiêu nhà sụp đến nơi, cả hai mới ngừng tay lại, cùng ngồi ở hai phía cụp mắt rũ mày, trầm ngâm suy tưởng. Hơn trăm chiêu vừa rồi gần như đã gồm thâu tất cả biến hóa trong võ công thiên hạ, hai người dẫu cho võ học uyên bác nhưng tạm thời cũng cảm thấy cạn ý hết bài, trong lòng gấp rút nghĩ ngợi, cố gắng tìm ra kẽ hở của đối phương.

Hai người chìm trong dòng suy tưởng, sinh khí như ẩn vào bên trong cơ thể, gian phòng thấp thoáng như một ngôi mộ huyệt, cả tiếng kim rơi cũng có thể nghe thấy. Qua chừng khắc sau, Thích Ấn Thần từ từ đứng dậy, cánh tay phải vẽ thành nửa vòng tròn, tung một quyền về phía trước, quyền kình ngưng kết như một ngọn núi chầm chầm đẩy dồn vào Linh đạo nhân.

Linh đạo nhân nhẹ nhàng bật dậy, điểm ra vài chỉ, ngón tay vừa chạm đến thì quyền phong của Thích Ấn Thần trở nên nhiễu loạn, một luồng nội kình xuyên qua quyền phong ập thẳng đến quyền đầu, theo kinh mạch len vào phủ tạng. Thích Ấn Thần chỉ cảm thấy cả người tê dại, chân khí sùng sục chạy loạn như muốn phá não ra ngoài.

Chưa kịp vận công phân tán dư kình, trong chưởng của Linh đạo nhân lại dẫn thêm chỉ kình ung dung công đến. Thích Ấn Thần không sao ngờ được, đành dốc toàn lực ra phản kích, kình lực hai phía va vào nhau, Thích Ấn Thần bỗng giật mình phát hiện ra dư kình trong chỉ lực của Linh đạo nhân lớp lớp xô đến, gần như chia tách hết chân khí trong cơ thể của mình.

Linh đạo nhân vừa chiếm được thượng phong, không để cho đối phương kịp thở, kỳ chiêu diệu thức tuôn ra không ngớt, thân thể hệt như bướm vờn hoa, trong nhanh có chậm, uyển chuyển phi thường, chiêu thức liền lạc không kẽ hở, thế như thác đổ suối tuôn, chỉ chưởng phất không bay qua, trong tiếng gió còn kèm theo cả tiếng ngân nga động lòng người, âm thanh hợp nhất khác nào lời ca tiếng vịnh. Thích Ấn Thần ở giữa cảnh này, cảm giác như đã lạc mình trong một chiếc chuông đồng vang rền in ỏi; tâm thần lão thoáng dao động, chẳng nhờ định lực cao cường thì đã chịu không thấu rồi.

Dẫu sao gian phòng cũng không quá hai trượng, Thích Ấn Thần giật lui từng bước, thoáng cái đã lùi đến chân tường. Thế công của Linh đạo nhân lại tựa như mưa dầm tháng năm ở đất Giang Nam, thâm thâm lả tả, không quá mãnh liệt nhưng lại dai dẳng rả rít, không ngơi không ngớt.

Từ khi xuất đạo đến nay Thích Ấn Thần chưa từng yếu thế đến như vậy, lão dựa vào sát vách, thân hình cao lớn rụt lại thành một khối, vất vả cầm cự hơn hai mươi chiêu. Thế công của Linh đạo nhân sau cùng cũng suy yếu, Thích Ấn Thần quát khẽ một tiếng, tay đấm chân đá mạnh mẽ như núi động biển cồn, thoăn thoắt như chớp giật sao rơi, thế nhưng bất kể nhanh mạnh thế nào, gặp phải kình lực của Linh đạo nhân đều như một hòn đá tảng rớt xuống mặt hồ mênh mông, dù cho có khơi dậy chút bọt sóng thì kết cuộc vẫn bị làn nước nuốt chửng.

Thích Ấn Thần sinh lòng hoảng sợ, chỉ thấy mấy kẻ địch bình thời hiếm gặp so với Linh đạo nhân thực chỉ như trẻ lên ba. Đáng sợ hơn chính là, lão rõ ràng cảm giác cho đến tận giờ phút này Linh đạo nhân vẫn chưa tung ra hết sức. Đạo nhân giơ tay nhấc chân ung dung nhàn nhã đều ngấm ngầm kết hợp một loại tiết tấu hết sức kỳ diệu, loại tiết tấu này tựa như một tấm lưới, bằng một cách vô tình nào đó đã khiến Thích Ấn Thần lạc bước vào trong, mặc cho Linh đạo nhân tùy ý ra tay. Kỳ lạ hơn nữa, cái cảm giác bị kẻ khác dẫn dắt này chẳng những không gây khó chịu mà ngược lại còn mang đến một sự khoan khoái khó tả.

Thích Ấn Thần vỡ lẽ rồi liền tìm mọi cách làm theo hướng ngược lại, cố sức thoát ra khỏi tiết tấu của Linh đạo nhân. Giằng co nhau mấy chiêu, Thích Ấn Thần cảm thấy vướng chân vướng tay, đã không thể thoát khỏi tình cảnh khốn khó này thì chớ, lại còn bị lọt sâu hơn vào trong mành lưới. Linh đạo nhân thừa thế xông lên, cùng lúc tung ra chỉ chưởng, một trận gió mạnh quét qua gò má Thích Ấn Thần, nửa gương mặt lão trở nên cứng đơ gần như mất đi tri giác.

Cứ thế này sẽ cầm chắc thất bại, Thích Ấn Thần hít sâu vào một hơi, xoay người xuất quyền. Linh đạo nhân phát hiện sơ hở, sấn người lên tung chưởng về phía hậu tâm Thích Ấn Thần, mắt thấy sắp sửa đắc thủ đột nhiên một trận gió mạnh sắc nhọn như thép từ đâu phóng đến, đâm trúng vào cổ tay mình.

Linh đạo nhân nhẹ nhàng lùi về sau, đáp xuống mặt đất cách đó một trượng, quan sát cổ tay với vẻ kinh ngạc không ngớt: 
- Thích tiên sinh, đây là võ công gì vậy?

- Vô tướng thần châm! - Thích Ấn Thần cười mỉm: - Ba năm trước, Thích mỗ ngẫu nhiên ngộ ra môn võ công này, có điều trước nay vẫn chưa xài thử với ai.

Linh đạo nhân ngầm ngâm một thoáng, gật gù khen: 
- Ngài ép chân khí ra khỏi huyệt đạo quả là có sáng tạo, như vậy toàn bộ cơ thể của ngài đều có thể đả thương người khác giống như loài nhím, khiến người ta chả biết nên đánh vào đâu.

Thích Ấn Thần cười bảo: 
- Đạo trưởng hiểu biết rộng thật, chớp mắt đã nhìn thấu nội tình của Thích mỗ.

- “Hư thất sinh bạch, vô trung sinh hữu"(*) vốn là đạo lý từ ngàn xưa truyền lại. Cái gọi là “Đại đạo chí giản", thực chất nhiều chuyện xét cho cùng, đạo lý bên trong cũng chẳng khác là bao.
(ND chú: 
- “Hư thất sinh bạch" là thành ngữ của Trang Tử, ý chỉ tấm lòng không có tạp niệm thì sẽ ngộ ra đạo, sinh ra trí tuệ.
- “Vô trung sinh hữu" trích từ Đạo Đức Kinh của Lão Tử, giới đạo cho rằng sự được mất của vạn vật có quan hệ tương hổ song hành cùng nhau, vật chất trong giới tự nhiên đến từ một không gian thấy mà không thấy được. Ngoài ra, “Vô trung sinh hữu" còn chỉ kế thứ 7 trong 36 kế dù không liên quan ở đây.
- “Đại đạo chí giản" là một khái niệm quan trọng trong triết học trung quốc, không những được chư tử bách gia coi trọng mà còn được Đạo giáo sử dụng, nó ám chỉ những đạo lý lớn thường cực kỳ đơn giản, đơn giản đến mức hai ba câu là có thể giải thích rõ, nên có câu nói “chân truyền một câu nói, giả truyền vạn sách thư")

- Nói hay lắm! - Thích Ấn Thần phá ra cười: - Chỉ không biết võ công của đạo trưởng liệu có tuyệt diệu như đạo lý trên hay không?

Dứt lời, lão tiến lên một bước, tay không nhấc, chân không động, từ không khí rộ lên những tiếng động rào rào, chân khí hóa thành ngàn vạn sợi tơ thoát ra từ hàng trăm huyệt đạo trên khắp cơ thể, sợi thô sợi mảnh hư hư thực thực, có cái như kim như gai phá vỡ chưởng lực của Linh đạo nhân, có cái tựa thể dây thừng, tung lên cao biến thành tấm lưới sầm sầm phủ xuống.

Kình khí trải ngập khắp gian phòng, Linh đạo nhân biết không thể tránh khỏi liền đứng nguyên ra tại chỗ chẳng hề cử động, vẻ mặt tĩnh tại như nước đọng, ánh mắt lặng lẽ như đầm sâu. Tay áo của ông đong đưa chấp chới, dáng hình chẳng khác một cánh chim cao ngạo bất phàm, đối mặt với màn kình khí ngập trời, từ miệng thốt ra hai chữ: 
- Linh phi!

Thanh âm còn chưa tan hết, cuồng phong đã ầm ầm nổi dậy, hai luồng đại lực tuyệt thế va ập vào nhau cuốn theo lớp bụi trần bốc lên mờ mịt. Trong màn khói bụi ấy, hai bóng người càng lúc càng nhòa đi, hóa thành ảo ảnh thời gian, mãi cho đến khi hoàn toàn tiêu tán.

Hoa nở hoa tàn, mây tụ mây tan, Tống - Liêu - Kim - Nguyên, thoáng chốc đã trôi qua hết cả. Triều đại thịnh suy, muôn dân sinh tử, trải mấy trăm năm thời gian xoay chuyển, thấm thoát đã là năm Hồng Vũ thứ hai mươi bảy triều đại nhà Minh.

Cuộc chiến tại quán Thừa Hoàng năm nào đã sớm thành tro bụi, thiện hạ đổi chủ, chỉ có dòng Trường Giang chảy xiết là vẫn như xưa, sóng nước cuồn cuộn nối nhánh vào sông Tần Hoài, uốn lượn vòng quanh chân kinh thành, nước sông lặng lờ dường bất động hệt như một phiến ngọc màu xanh biếc.

Chợt đâu phía ven sông ngân lên một giọng ca ai oán:

Liễu mềm phơ phất bến Uyên Ương
Gọi thuyền sang, ngỡ Đào Diệp thuở miên trường
Ôi mắt buồn tiễn gió xuân u uẩn
Tựa mạn thuyền, ngơ ngẩn đợi buồm giương
Nào hay đâu thuyền lại ghé ven đường
Phố Kim Lăng, chừ oanh ca yến lượn
Tại con nước vô tình hay do lòng sầu muộn?
Dọc bãi bồi hương cỏ ngát bốn phương
Hợp Phì kia về lại khuất nẻo đường
Chiều tàn nhanh, dong thuyền ta xuôi ngược
Nhưng bến nào mới là bến quê hương...?


(ND chú: khúc từ trong bài “Hạnh Hoa Thiên Ảnh – Lục Ti Đê Phất Uyên Ương Phổ của Khương Quỳ, bài từ viết về nỗi nhớ nhung tình nhân mà thời trai trẻ tác giả đã từng trải qua tại Hợp Phì với hai chị em ca nữ. Bài từ nguyên văn khá khó hiểu, độc giả có thể xem nguyên văn tại: baike.baidu.com/view/2836137.htm, lưu ý tôi chỉ phổ tạm từ phần Dịch Nghĩa, kể cả các bài về sau trong truyện)

Hai người hát dạo một già một trẻ, ông lão vừa xướng ước chừng hơn sáu mươi, dáng vẻ khẳng khiu; vị thiếu niên thổi sáo chỉ vừa độ mười lăm mười sáu, mắt trong mũi cao, làn da như ngọc, đôi hàng mi dài rậm vắt cao, đầu mày khóe mắt tràn ngập sức sống.

Leng ca leng keng! Vài đồng lẻ rớt vào khay đựng tiền. Đám người rỗi việc cười vang rồi tản mác đi. Ông lão nhặt tiền hí hoáy đếm rồi lắc lắc đầu, nhìn về phía trời xa đăm chiêu nghĩ ngợi. Gã thiếu niên hạ sáo, thắc mắc hỏi:
- Cha, người nhìn gì vậy?

Ông lão trầm ngâm không đáp, thiếu niên trông theo hướng mắt ông. Tít trời tây xa xăm, một rặng mây dài đỏ tía trông như cục máu hon hỏn đọng giữa ngọn lửa. Gã chột dạ khẽ thốt:
- Màu mây sao quái lạ thế nhỉ?

- Trời vẫn còn oi ả! - Ông lão thở dài đứng dậy: - Hôm nay giải tán thôi!

- Mấy đồng này... - Thiếu niên nhíu mày: - ...Chả đủ ăn cơm!

- Ta mệt rồi, về nhà nghỉ ngơi. - Ông lão khàn khàn nói, xoay lưng đi: - Mấy đồng này con cứ cầm lấy!

Thiếu niên nhận tiền, đưa mắt dõi theo bóng ông đi xa rồi phát ra tiếng reo khẽ, đôi mắt nhìn ngang liếc dọc.

Chợt, gã nghe có người gọi: "Nhạc Chi Dương!", một thiếu niên nhảy ra từ góc tường, cằm thon thon, mày chữ bát, mắt láo liên, vừa thấy mặt thì đã ầm ĩ:
- Nhạc Chi Dương, ta đợi ngươi hơn nửa ngày trời, thấy ngươi cứ thổi hoen hoét mãi không dứt, làm ta sốt ruột muốn chết!

Nhạc Chi Dương cười bảo:
- Giang Tiểu Lưu, ngươi gấp làm gì, trời còn chưa tối mà! Đêm nay tính sao, đến miếu Phu Tử xem kịch hay lên lầu Huyền Hà nghe kể chuyện?

Giang Tiểu Lưu đằng hắng một tiếng, bảo:
- Tối nay có tuồng Đơn Đao Hội, đại đao của Quan lão gia múa rất sướng mắt!

Nhạc Chi Dương hất hất mớ tiền trên tay cân nhắc:
- Xem kịch không đủ tiền, hay là nghe kể chuyện đi.

- Con mẹ nhà ngươi! - Giang Tiểu Lưu hai tay chống hông, lớn tiếng huênh hoang: - Ai nói xem kịch phải cần đến tiền, ngươi cứ hỏi người bên sông mà coi có kẻ nào dám thu tiền của Giang gia không?

- Thật à? - Nhạc Chi Dương chồm đầu lên hét oang oang: - Giang gia, mẹ ngươi tới kìa!

Giang Tiểu Lưu nghe tiếng phát run, không thèm quay đầu đã muốn guồng chân bỏ chạy, chạy được mấy bước liền nghe thấy tiếng cười khanh khách của Nhạc Chi Dương, lúc này mới tỉnh ngộ, quay ra nổi đóa:
- Nhạc Chi Dương, thằng chó lường gạt...

- Ta gạt ngươi làm gì? - Nhạc Chi Dương tủm tỉm: - Mẹ ngươi mới rồi còn ở đây, sao chớp mắt đã mất tiêu nhỉ? Thôi chết, có lẽ là người rớt xuống sông rồi đó. Giang Tiểu Lưu, ngươi mau mau nhảy theo đi kẻo bá mẫu gọi rùa đến cõng đi mất bây giờ!

Cha của Giang Tiểu Lưu làm tạp vụ tại một thanh lâu ở ven sông, là hạng cùng đinh trong tầng đáy xã hội, đại danh là "Quy Công", tiểu danh là "Vương Bát"(*), cho nên vừa nghe đến đây hắn liền nhe nanh múa vuốt nhảy chồm đến. Dè đâu Nhạc Chi Dương thân thể nhanh nhẹn, lách người né khỏi cú vồ, cẳng chân gạt nhẹ, tiện tay xô một phát, Giang Tiểu Lưu ngã dúi dụi như một que pháo, đầu bổ rầm vào tường, lập tức hoa đầu váng mắt. Hắn đang định quay lại, bất giác cảm thấy da đầu tê rần, chỏm tóc đã nằm trong tay Lạc Chi Dương. Hắn lật tay muốn đánh trả nhưng Nhạc Chi Dương đã nhẹ nhàng tránh khỏi rồi rút sáo trúc bên hông ra, quất bồm bộp vào mông hắn.
(ND chú: tên cha của Tiểu Lưu có nghĩa là rùa, nên câu trên Nhạc Chi Dương có ý móc mỉa cả cha lẫn mẹ Tiểu Lưu)

Giang Tiểu Lưu chẳng còn cách nào thoát, đau đến giậm chân thình thịch:
- Ối ối, đừng có nắm tóc! Ối, nhẹ tay một chút, đừng vỗ mạnh nữa...

Nhạc Chi Dương gõ thêm mấy cái mới buông hắn ra. Giang Tiêu Lưu tay trái xoa đầu, tay phải vuốt mông, trong lòng nửa giận nửa sợ, hét toáng lên:
- Nhạc Chi Dương, cha ngươi cũng là phường xướng ca vô loài, chúng ta đều là cùng đinh đáy chợ, chả ai hơn ai cả!

Nhạc Chi Dương lắc đầu nói:
- Ta không có cha!

Giang Tiểu Lưu nổi giận:
- Gạt con mẹ nhà ngươi à! Nhạc lão đầu không phải cha ngươi chẳng lẽ con của ngươi!

Nhạc Chi Dương hờ hững đáp:
- Ông ấy là cha nuôi của ta, ta được ông ấy nhặt về!

Giang Tiểu Lưu ngây ra, từ lúc hai người quen biết đến nay, đây là lần đầu tiên hắn nghe được. Hắn trợn mắt nhìn Nhạc Chi Dương, thầm nghĩ mình xuất thân bần tiện, dù sao cũng còn có cha có mẹ, thằng láo cá ấy lại là đứa mồ côi, thật làm người ta không ngờ được.

Lúc này mặt trời đã khuất núi, sông Tần Hoài rộn rịp hẳn lên. Một chiếc thuyền con rẽ màn sương mỏng lướt qua bên cạnh hai người, một gã văn sĩ áo trắng đang đứng nơi đầu thuyền, mày mặt như ngọc, râu tóc đen nhánh, eo giắt một miếng ngọc bội phỉ thúy, trên bề mặt có khảm viên minh châu to cỡ trứng bồ câu.

- Chu choa! - Giang Tiểu Lưu ra chiều sành sõi: - Miếng ngọc và viên châu ấy bán đi cũng mua đứt một nửa viện Quần Phương rồi!

Lời vừa dứt, văn sĩ áo trắng kia đột nhiên quay phắt lại, ánh mắt như điện quét qua mặt hắn. Giang Tiểu Lưu chỉ thấy da mặt tê tê, toàn thân ớn lạnh. Văn sĩ lúc này lại ngoảnh mặt đi như đang thưởng thức phong cảnh hai bên bờ.

Giang Tiểu Lưu sực tỉnh, nhẹ giọng bảo:
- Tên thư sinh ấy trừng ta làm gì nhỉ?

Nhạc Chi Dương cười giễu:
- Nhà ngươi mặt gian lồ lộ, ai nhìn cũng biết ngươi có ý đồ sâu bọ.

- Rắm thối! - Giang Tiểu Lưu tức tối: - Thiếu gia ta không phải phường đồng tính!

Nhạc Chi Dương tủm tỉm:
- Ngươi có tám bàn tay, cũng chả kém cạnh Na Tra có tám cánh tay ở Nguyên Dương quán!

Giang Tiểu Lưu nghe gã ví mình với Na Tra, thoạt tiên vui sướng, sau lại nổi đóa:
- Nhạc Chi Dương, ngươi mới là đồ tám tay, mẹ nhà ngươi mới là con cua ấy!



Đến miếu Phu Tử thì trời đã tối mịt, bóng trăng nhập nhoạng nhô khỏi núi đông, cong như lưỡi liềm. Phường hát giăng đèn kết hoa, giọng một lão già văng vẳng truyền lại, nỉ nỉ non non, thê lương vô kể:
Sông dài ngàn sóng cuộn về đông,
Dẫn chục người đi hướng tây phong,
Cưỡi trên thuyền nhỏ...


Trước cửa rạp, người người nô nức ra vào, áo quần sặc sỡ. Hai gã vào trong rồi cảm thấy ngài ngại, bèn không đi đường chính nữa mà luồn qua ngõ Ô Y, vòng sang một hẻm nhỏ khác sau lưng phường hát. Trong hẻm có một cây đại thụ lâu năm, táng phủ ngợp sân, hẳn rằng năm đó đã từng che bóng mát cho Tạ An Thạch, che sới bạc cho Lưu Kí Nô.(*)
(ND chú:
- Ngõ Ô Y là một địa danh nổi tiếng ở miếu Phu Tử, Nam Kinh, từng xuất hiện trong bài thơ Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích.
- Tạ An hay Tạ An Thạch, danh nhân thời Đông Tấn. Chi tiết xin xem tại: http://vi.wikipedia.org/wiki/Tạ_An
- Lưu Kí Nô: hay Lưu Tống Vũ Đế, Lưu Dụ. Xem rõ hơn tại: http://vi.wikipedia.org/wiki/Lư...C4
Tác giả : Phượng Ca
5/5 của 1 đánh giá

Bình luận

Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi
Nguyen 2 năm trước
Đã ra chap mới rồi nhé mọi người, link đây nha: bit.ly/newchap247

Truyện cùng thể loại