Liêu Trai Chí Dị II
Quyển 7 - Chương 129: Dư Đức
Doãn Đồ Nam ở Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc) có gian nhà riêng cho một vị Tú tài thuê ở, suốt nửa năm cũng chưa từng tới chơi. Một hôm gặp ngoài cổng, thấy còn rất trẻ nhưng dung nghi đẹp đẽ, phục sức sang trọng, rảo bước tới cùng trò chuyện thấy nho nhã khả ái. Lấy làm lạ về nói với vợ, vợ sai tỳ nữ tìm cớ qua hỏi han để dò xét, thấy trong nhà còn có người em gái xinh đẹp như tiên, những non bộ cây cảnh quần áo đồ chơi đều không phải là những món từng nghe thấy.
Doãn không rõ là hạng người nào, bèn tới xin yết kiến nhưng gặp lúc người ấy vắng nhà. Hôm sau người ấy tới đáp lễ, xem danh thiếp mới biết là họ Dư tên Đức. Đến lúc trò chuyện hỏi kỹ gia thế cứ trả lời quanh co, Doãn hỏi gặng thì nói "Nếu muốn qua lại với nhau thì ta không dám từ chối, nhưng ta không phải là trộm cướp đào vong, cần gì phải hỏi kỹ lai lịch?". Doãn xin lỗi, sai mang rượu ra mời, trò chuyện cười nói rất vui vẻ.
Đến tối có hai tên đầy tớ dắt ngựa cầm đèn tới đón Dư về. Hôm sau Dư gởi thư mời chủ nhân để đáp lễ, Doãn tới nhà thấy trên tường đều dán loại giấy sáng loáng trong suốt như gương, lò đồng hình sư tử đốt trầm hương, mùi thơm rất lạ. Trên bàn có bình ngọc xanh cắm hai cái lông đuôi chim phụng, hai cái lông cánh chim công, đều dài hơn hai thước, một bình pha lê cắm nhánh cây đầy hoa không biết tên gì, cũng cao khoảng hai thước, cành rủ xuống bàn, lá thưa hoa dày mà đều chưa nở, dáng như con bướm khép cánh, đài hoa như râu bướm. Trên tiệc chỉ có tám món ăn mà thơm ngon lạ thường.
Kế Dư sai tiểu đồng đánh trống giục hoa làm tửu lệnh, tiếng trống vừa nổi lên thì những nụ hoa trong bình đều run rẩy như muốn rụng xuống. Giây lát cánh hoa như cánh bướm từ từ giương ra, kế đến tiếng trống cuối cùng ầm một tiếng, những đài hoa rơi cả xuống, hoa biến thành một con bướm bay sa vào lòng Doãn. Dư cười đứng dậy mời một chén lớn, Doãn vừa uống cạn thì con bướm cũng bay mất. Lúc sau trống lại nổi, hai con bướm bay xuống đậu trên mũ Dư. Dư cười nói "Kẻ làm luật lệ hóa ra lại tự phạt mình", rồi cũng uống hai chén lớn. Hổi trống thứ ba kết thúc thì hoa rụng tơi bời dính cả vào áo vào mũ hai người, đứa tiểu đồng đánh trống cười bước lên đếm, Doãn dược chín bông, Dư được bốn bông. Doãn đã say không thể uống hết, gượng uống ba chén rồi rời tiệc bước ra, vì thế càng lấy làm lạ về Dư.
Nhưng Dư tính ít giao du, thường đóng cửa ở nhà không đi lại với người chung quanh. Doãn gặp mọi người cứ kể vung lên, những kẻ nghe chuyện lạ tranh nhau tới xin gặp Dư, mũ lọng chen chúc ở cửa, Dư không chịu được, chợt tới từ giã chủ nhân. Dư đi rồi, Doãn vào nhà thấy sân trống quét dọn sạch sẽ không vương chút bụi, sáp đèn đọng lại vun đầy dưới thềm, những giấy dán cửa sổ bị rách vẫn còn dấu tay, duy sau nhà còn sót lại một cái vò bằng đá trắng chứa khoảng một thạch, trông rất khả ái.
Doãn cầm về đổ nước vào nuôi cá vàng, hơn một năm nước vẫn trong như mới đổ vào. Sau người đầy tớ dọn dẹp nhà cửa bưng đi lỡ tay làm mẻ, nước trong vò cũng không đổ ra, nhìn thì thấy mép vò vẫn còn nguyên mà sờ lên thì thấy trống không, đưa tay vào trong thì nước theo tay rẽ ra, rút tay ra thì nước lại hợp lại, mùa đông cũng không đóng băng. Một hôm nước trong vò chợt kết lại thành khối pha lê, cá bên trong vẫn bơi lội như cũ. Doãn sợ người ta biết mang để trong phòng kín, nếu không phải là trai gái dâu rể trong nhà thì không đưa ra cho xem.
Lâu ngày tin tức đồn rộng ra, những người đòi xem vật lạ tới chen chúc ở cổng. Một đêm tháng chạp chợt cái vò tan ra thành nước ướt đầm mặt đất, cá bên trong cũng cũng biến mất nhưng mảnh vò mẻ vẫn còn nguyên như cũ. Chợt có đạo sĩ tới xin, Doãn lấy đưa cho xem, đạo sĩ nói "Đây là vật chứa nước ở Long cung". Doãn kể chuyện lạ vò mẻ mà nước không chảy ra, đạo sĩ nói “Đó là hồn của cái vò" rồi nài nỉ xin một mảnh nhỏ. Doãn hỏi dùng làm gì, đạo sĩ đáp “Lấy đó chế thuốc uống thì có thể trường sinh". Doãn lấy cho một mảnh, đạo sĩ mừng rỡ cảm tạ ra về.
Doãn không rõ là hạng người nào, bèn tới xin yết kiến nhưng gặp lúc người ấy vắng nhà. Hôm sau người ấy tới đáp lễ, xem danh thiếp mới biết là họ Dư tên Đức. Đến lúc trò chuyện hỏi kỹ gia thế cứ trả lời quanh co, Doãn hỏi gặng thì nói "Nếu muốn qua lại với nhau thì ta không dám từ chối, nhưng ta không phải là trộm cướp đào vong, cần gì phải hỏi kỹ lai lịch?". Doãn xin lỗi, sai mang rượu ra mời, trò chuyện cười nói rất vui vẻ.
Đến tối có hai tên đầy tớ dắt ngựa cầm đèn tới đón Dư về. Hôm sau Dư gởi thư mời chủ nhân để đáp lễ, Doãn tới nhà thấy trên tường đều dán loại giấy sáng loáng trong suốt như gương, lò đồng hình sư tử đốt trầm hương, mùi thơm rất lạ. Trên bàn có bình ngọc xanh cắm hai cái lông đuôi chim phụng, hai cái lông cánh chim công, đều dài hơn hai thước, một bình pha lê cắm nhánh cây đầy hoa không biết tên gì, cũng cao khoảng hai thước, cành rủ xuống bàn, lá thưa hoa dày mà đều chưa nở, dáng như con bướm khép cánh, đài hoa như râu bướm. Trên tiệc chỉ có tám món ăn mà thơm ngon lạ thường.
Kế Dư sai tiểu đồng đánh trống giục hoa làm tửu lệnh, tiếng trống vừa nổi lên thì những nụ hoa trong bình đều run rẩy như muốn rụng xuống. Giây lát cánh hoa như cánh bướm từ từ giương ra, kế đến tiếng trống cuối cùng ầm một tiếng, những đài hoa rơi cả xuống, hoa biến thành một con bướm bay sa vào lòng Doãn. Dư cười đứng dậy mời một chén lớn, Doãn vừa uống cạn thì con bướm cũng bay mất. Lúc sau trống lại nổi, hai con bướm bay xuống đậu trên mũ Dư. Dư cười nói "Kẻ làm luật lệ hóa ra lại tự phạt mình", rồi cũng uống hai chén lớn. Hổi trống thứ ba kết thúc thì hoa rụng tơi bời dính cả vào áo vào mũ hai người, đứa tiểu đồng đánh trống cười bước lên đếm, Doãn dược chín bông, Dư được bốn bông. Doãn đã say không thể uống hết, gượng uống ba chén rồi rời tiệc bước ra, vì thế càng lấy làm lạ về Dư.
Nhưng Dư tính ít giao du, thường đóng cửa ở nhà không đi lại với người chung quanh. Doãn gặp mọi người cứ kể vung lên, những kẻ nghe chuyện lạ tranh nhau tới xin gặp Dư, mũ lọng chen chúc ở cửa, Dư không chịu được, chợt tới từ giã chủ nhân. Dư đi rồi, Doãn vào nhà thấy sân trống quét dọn sạch sẽ không vương chút bụi, sáp đèn đọng lại vun đầy dưới thềm, những giấy dán cửa sổ bị rách vẫn còn dấu tay, duy sau nhà còn sót lại một cái vò bằng đá trắng chứa khoảng một thạch, trông rất khả ái.
Doãn cầm về đổ nước vào nuôi cá vàng, hơn một năm nước vẫn trong như mới đổ vào. Sau người đầy tớ dọn dẹp nhà cửa bưng đi lỡ tay làm mẻ, nước trong vò cũng không đổ ra, nhìn thì thấy mép vò vẫn còn nguyên mà sờ lên thì thấy trống không, đưa tay vào trong thì nước theo tay rẽ ra, rút tay ra thì nước lại hợp lại, mùa đông cũng không đóng băng. Một hôm nước trong vò chợt kết lại thành khối pha lê, cá bên trong vẫn bơi lội như cũ. Doãn sợ người ta biết mang để trong phòng kín, nếu không phải là trai gái dâu rể trong nhà thì không đưa ra cho xem.
Lâu ngày tin tức đồn rộng ra, những người đòi xem vật lạ tới chen chúc ở cổng. Một đêm tháng chạp chợt cái vò tan ra thành nước ướt đầm mặt đất, cá bên trong cũng cũng biến mất nhưng mảnh vò mẻ vẫn còn nguyên như cũ. Chợt có đạo sĩ tới xin, Doãn lấy đưa cho xem, đạo sĩ nói "Đây là vật chứa nước ở Long cung". Doãn kể chuyện lạ vò mẻ mà nước không chảy ra, đạo sĩ nói “Đó là hồn của cái vò" rồi nài nỉ xin một mảnh nhỏ. Doãn hỏi dùng làm gì, đạo sĩ đáp “Lấy đó chế thuốc uống thì có thể trường sinh". Doãn lấy cho một mảnh, đạo sĩ mừng rỡ cảm tạ ra về.
Tác giả :
Bồ Tùng Linh