Dư Âm Còn Văng Vẳng Bên Tai
Chương 4: Gặp lại cố nhân
Rất nhanh, Lâm Tô Văn liền tìm được cây ghi-ta của mình. Từ trước tới nay cô luôn yêu quý và tôn trọng nhạc cụ. Mỗi khi đến đây cô đều đem chúng ra lau chùi thật sạch sẽ, xong rồi mới cất lại trong hòm trước khi rời đi, cho nên thoạt nhìn, đàn ghi-ta trông vẫn còn rất mới. Lâm Tô Văn vừa chỉnh âm vừa nghĩ.
“Vẫn chưa đến 7 giờ. Trên đường lúc này vẫn còn nhiều người qua lại, bây giờ đi chắc vẫn còn kịp."
Đến khi đã chỉnh âm hoàn chỉnh, cô liền tìm một cái đĩa trúc trong phòng, sau đó đeo đàn ghi-ta lên lưng rồi rời khỏi phòng.
Cô đã từng làm qua công việc biểu diễn trên đường phố như thế này. Lúc trước, để luyện sự tự tin và can đảm, mỗi ngày Lâm Tô Văn sẽ ra đường lớn để vừa hát vừa đàn. Điều duy nhất khác biệt giữa ngày trước và bây giờ đó là, ngày trước biểu diễn là để luyện tập, còn bây giờ biểu diễn là để kiếm sống.
Lâm Tô Văn đi đến một phố buôn bán ở bên cạnh. Bởi vì hiện tại là giờ “vàng", người qua lại trên phố rất đông. Cô lưu loát lôi ghi-ta ra, cầm đĩa trúc thảy xuống mặt đất, xong bắt đầu ca hát.
Tiềm lực của khối thân thể này thực sự không tồi, nhưng chưa được luyện tập thanh nhạc chuyên nghiệp, nên sau khi hát một hồi, Lâm Tô Văn liền phát hiện bây giờ bản thân cần phải luyện tập rất nhiều. Với trình độ hiện tại, chỉ sợ là khi cô hát lên, tất cả TONE (2) sẽ chạy mất, chứ nói gì đến việc sẽ lên được KEY (3). Nếu muốn đạt trình độ như ngày trước, không luyện tập ít nhất một năm rưỡi thì cũng đừng mong đạt được như vậy. Bây giờ cô chỉ có thể đánh đàn và hát mấy bài hát lưu hành hiện thời, những bài hát đơn giản không yêu cầu kỹ thuật ca hát phức tạp.
Mặc kệ điều kiện bên ngoài của thân thể này có như thế nào đi chăng nữa, thì linh hồn bên trong vẫn là Lâm Tô Văn. Ở giới ca nhạc, nếu cô đã tự xưng mình đứng thứ hai, thì cũng không có ai dám xưng đứng thứ nhất cả. Tại cả hai phương diện biểu đạt tình cảm và khống chế thanh sắc, Lâm Tô Văn đều rất tài tình trong việc che dấu khuyết điểm của bản thân. Cô hiểu rất rõ, hiện tại không phải lúc lo lắng về kỹ xảo thanh nhạc. Việc cần phải lo lắng chính là, nếu cô không trở về kịp, bà lão kia nhất định sẽ nôn nóng, chỉ sợ hiện giờ bà ấy đã phát điên lên vì không tìm thấy mình rồi.
Lâm Tô Văn chính là một ca sĩ trời sinh, chỉ cần bắt đầu ca hát, cô liền hoàn toàn nhập tâm. Cho dù lúc mới bắt đầu có hơi lo lắng, nhưng sức quyến rũ của âm nhạc chính là thuốc giảm đau hấp dẫn nhất đối với cô. Cảm giác may mắn khi được trùng sinh khiến cô cảm thấy cho dù chỉ hát một bài hát thiếu nhi, cũng hạnh phúc vô cùng.
Chờ cho đến khi cô đã hát hết bài này đến bài khác, hát cho đến khi hết cả hơi, thì cũng đã gần 10 giờ tối. Nhìn một vòng người đứng lặng im trước mặt, cùng một đĩa trúc đầy tiền xu, Lâm Tô Văn cảm thấy thật kinh ngạc, nhưng cô cũng không khiếp đảm. Với thân phận của kiếp trước, cho dù cô có biểu diễn trước mặt mấy trăm ngàn khán giả thì vẫn rất ung dung tự nhiên. Điều khiến cô cảm thấy kỳ lạ chính là, cô chỉ hát mấy ca khúc có kỹ xảo thanh nhạc giống nhau, đâu đâu cũng có thể nghe thấy được, tại sao lại có thể hấp dẫn nhiều người nghe như vậy? Kiếp trước cô bán nghệ trên đường phố, cho dù hát có hay hơn hiện tại, nhưng cũng không kiếm được nhiều tiền như thế. Hơn nữa, có người còn cho hẳn một tờ tiền mặt mệnh giá lớn.
Thực ra, điều mà Lâm Tô Văn không chú ý tới, chính là hình tượng bây giờ của cô rất tốt, đẹp trai ôn hoà, lại đứng ở đó yên tĩnh ca hát một cách thâm tình, quả thật rất giống một thiên sứ. Thế cho nên có rất nhiều nữ sinh lấy điện thoại ra chụp ảnh không ngừng, còn khe khẽ hưng phấn bình luận.
Người quen đứng trước đám đông như Lâm Tô Văn bắt đầu bình tĩnh thu dọn. Thu hoạch của hôm nay thật sự không tồi. Nhưng vì Lâm Tô Văn không rõ chỗ ở hiện tại của thân thể này ở đâu, nên bây giờ dù có gấp gáp thì cũng tìm không được nơi đó. Vì thế, cô tính đi ăn cái gì đó trước, rồi trở về gian phòng nhỏ của mình mà ngủ qua tối nay. Sáng mai, cô sẽ quay về huyện SR.
Ngay tại thời điểm mọi người cho rằng Lâm Tô Văn sẽ rời đi, một đôi chân khoác trên người âu phục của Armani chợt xuất hiện trong tầm mắt của cô. Ngẩng đầu lên, cô nhìn thấy người đang che dấu khuôn mặt đằng sau cặp kính đen kia, không ai khác chính là Thần Mộ.
ulcimer hình thang, gõ bằng búa, có nguồn gốc từ Trung Á (ngày nay là Iran). Nhạc cụ này có nhiều kiểu khác nhau, rất phổ biến không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở Đông Âu, Trung Đông, Ấn Độ và Pakistan. Đôi khi, người ta còn gọi nó là đàn santur và cimbalom. Theo truyền thống, loại đàn này gắn những dây đồng thiếc (dù những nhạc cụ dây xưa hơn của Trung Quốc sử dụng dây tơ, do đó, có thể người ta gắn dây tơ cho Dương cầm, vì nó được phân loại là nhạc cụ dây tơ). Kể từ năm 1950, loại đàn này còn được gắn dây hợp kim (thép pha đồng đỏ) để giúp nó có âm sắc sáng hơn và giọng lớn hơn. Loại Dương cầm hiện đại có thể có 5 nguồn ngựa đàn và có thể bố trí dây theo thang âm nửa cung. Loại Dương cầm truyền thống chỉ có 3 hoặc 4 nguồn ngựa đàn và vẫn được sử dụng rộng rải. Khi diễn tấu, người ta dùng hai dùi tre nhẹ bịt đầu cao su (còn gọi là búa) gõ vào các dây đàn để tạo giai điệu âm thanh. Nhạc sĩ chuyên nghiệp thường mang theo một số bộ dùi, mỗi bộ sẽ tạo giọng khác biệt đôi chút cho loại đàn này. Nhìn chung, Dương cầm là nhạc cụ độc tấu lẫn hòa tấu.
Nhìn chung, Dương cầm là nhạc cụ độc tấu lẫn hòa tấu
(2) TONE: tông giọng, chủ âm
(3) KEY: khoá nhạc - là một ký hiệu trong soạn nhạc, dùng để biểu lộ cao độ của nốt nhạc được viết ra. Khóa nhạc được đặt trên một trong các dòng kẻ tại đầu khuông nhạc, biểu thị tên và cao độ của nốt nhạc nằm trên dòng kẻ đó. Dòng này đóng vai trò cột mốc tham chiếu để dựa vào đó suy ra tên của các nốt nhạc nằm trên các dòng và khe còn lại của khuông nhạc.
Cóba loại khóa nhạc dùng trong hệ thống ký hiệu nhạc hiện đại: F (khóa Fa), C(khóa Đô) và G (khóa Sol). Mỗi loại gắn với nốt nhạc tham chiếu của riêng mình(tức nốt nhạc nằm cùng dòng kẻ với khóa nhạc đó)
“Vẫn chưa đến 7 giờ. Trên đường lúc này vẫn còn nhiều người qua lại, bây giờ đi chắc vẫn còn kịp."
Đến khi đã chỉnh âm hoàn chỉnh, cô liền tìm một cái đĩa trúc trong phòng, sau đó đeo đàn ghi-ta lên lưng rồi rời khỏi phòng.
Cô đã từng làm qua công việc biểu diễn trên đường phố như thế này. Lúc trước, để luyện sự tự tin và can đảm, mỗi ngày Lâm Tô Văn sẽ ra đường lớn để vừa hát vừa đàn. Điều duy nhất khác biệt giữa ngày trước và bây giờ đó là, ngày trước biểu diễn là để luyện tập, còn bây giờ biểu diễn là để kiếm sống.
Lâm Tô Văn đi đến một phố buôn bán ở bên cạnh. Bởi vì hiện tại là giờ “vàng", người qua lại trên phố rất đông. Cô lưu loát lôi ghi-ta ra, cầm đĩa trúc thảy xuống mặt đất, xong bắt đầu ca hát.
Tiềm lực của khối thân thể này thực sự không tồi, nhưng chưa được luyện tập thanh nhạc chuyên nghiệp, nên sau khi hát một hồi, Lâm Tô Văn liền phát hiện bây giờ bản thân cần phải luyện tập rất nhiều. Với trình độ hiện tại, chỉ sợ là khi cô hát lên, tất cả TONE (2) sẽ chạy mất, chứ nói gì đến việc sẽ lên được KEY (3). Nếu muốn đạt trình độ như ngày trước, không luyện tập ít nhất một năm rưỡi thì cũng đừng mong đạt được như vậy. Bây giờ cô chỉ có thể đánh đàn và hát mấy bài hát lưu hành hiện thời, những bài hát đơn giản không yêu cầu kỹ thuật ca hát phức tạp.
Mặc kệ điều kiện bên ngoài của thân thể này có như thế nào đi chăng nữa, thì linh hồn bên trong vẫn là Lâm Tô Văn. Ở giới ca nhạc, nếu cô đã tự xưng mình đứng thứ hai, thì cũng không có ai dám xưng đứng thứ nhất cả. Tại cả hai phương diện biểu đạt tình cảm và khống chế thanh sắc, Lâm Tô Văn đều rất tài tình trong việc che dấu khuyết điểm của bản thân. Cô hiểu rất rõ, hiện tại không phải lúc lo lắng về kỹ xảo thanh nhạc. Việc cần phải lo lắng chính là, nếu cô không trở về kịp, bà lão kia nhất định sẽ nôn nóng, chỉ sợ hiện giờ bà ấy đã phát điên lên vì không tìm thấy mình rồi.
Lâm Tô Văn chính là một ca sĩ trời sinh, chỉ cần bắt đầu ca hát, cô liền hoàn toàn nhập tâm. Cho dù lúc mới bắt đầu có hơi lo lắng, nhưng sức quyến rũ của âm nhạc chính là thuốc giảm đau hấp dẫn nhất đối với cô. Cảm giác may mắn khi được trùng sinh khiến cô cảm thấy cho dù chỉ hát một bài hát thiếu nhi, cũng hạnh phúc vô cùng.
Chờ cho đến khi cô đã hát hết bài này đến bài khác, hát cho đến khi hết cả hơi, thì cũng đã gần 10 giờ tối. Nhìn một vòng người đứng lặng im trước mặt, cùng một đĩa trúc đầy tiền xu, Lâm Tô Văn cảm thấy thật kinh ngạc, nhưng cô cũng không khiếp đảm. Với thân phận của kiếp trước, cho dù cô có biểu diễn trước mặt mấy trăm ngàn khán giả thì vẫn rất ung dung tự nhiên. Điều khiến cô cảm thấy kỳ lạ chính là, cô chỉ hát mấy ca khúc có kỹ xảo thanh nhạc giống nhau, đâu đâu cũng có thể nghe thấy được, tại sao lại có thể hấp dẫn nhiều người nghe như vậy? Kiếp trước cô bán nghệ trên đường phố, cho dù hát có hay hơn hiện tại, nhưng cũng không kiếm được nhiều tiền như thế. Hơn nữa, có người còn cho hẳn một tờ tiền mặt mệnh giá lớn.
Thực ra, điều mà Lâm Tô Văn không chú ý tới, chính là hình tượng bây giờ của cô rất tốt, đẹp trai ôn hoà, lại đứng ở đó yên tĩnh ca hát một cách thâm tình, quả thật rất giống một thiên sứ. Thế cho nên có rất nhiều nữ sinh lấy điện thoại ra chụp ảnh không ngừng, còn khe khẽ hưng phấn bình luận.
Người quen đứng trước đám đông như Lâm Tô Văn bắt đầu bình tĩnh thu dọn. Thu hoạch của hôm nay thật sự không tồi. Nhưng vì Lâm Tô Văn không rõ chỗ ở hiện tại của thân thể này ở đâu, nên bây giờ dù có gấp gáp thì cũng tìm không được nơi đó. Vì thế, cô tính đi ăn cái gì đó trước, rồi trở về gian phòng nhỏ của mình mà ngủ qua tối nay. Sáng mai, cô sẽ quay về huyện SR.
Ngay tại thời điểm mọi người cho rằng Lâm Tô Văn sẽ rời đi, một đôi chân khoác trên người âu phục của Armani chợt xuất hiện trong tầm mắt của cô. Ngẩng đầu lên, cô nhìn thấy người đang che dấu khuôn mặt đằng sau cặp kính đen kia, không ai khác chính là Thần Mộ.
ulcimer hình thang, gõ bằng búa, có nguồn gốc từ Trung Á (ngày nay là Iran). Nhạc cụ này có nhiều kiểu khác nhau, rất phổ biến không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở Đông Âu, Trung Đông, Ấn Độ và Pakistan. Đôi khi, người ta còn gọi nó là đàn santur và cimbalom. Theo truyền thống, loại đàn này gắn những dây đồng thiếc (dù những nhạc cụ dây xưa hơn của Trung Quốc sử dụng dây tơ, do đó, có thể người ta gắn dây tơ cho Dương cầm, vì nó được phân loại là nhạc cụ dây tơ). Kể từ năm 1950, loại đàn này còn được gắn dây hợp kim (thép pha đồng đỏ) để giúp nó có âm sắc sáng hơn và giọng lớn hơn. Loại Dương cầm hiện đại có thể có 5 nguồn ngựa đàn và có thể bố trí dây theo thang âm nửa cung. Loại Dương cầm truyền thống chỉ có 3 hoặc 4 nguồn ngựa đàn và vẫn được sử dụng rộng rải. Khi diễn tấu, người ta dùng hai dùi tre nhẹ bịt đầu cao su (còn gọi là búa) gõ vào các dây đàn để tạo giai điệu âm thanh. Nhạc sĩ chuyên nghiệp thường mang theo một số bộ dùi, mỗi bộ sẽ tạo giọng khác biệt đôi chút cho loại đàn này. Nhìn chung, Dương cầm là nhạc cụ độc tấu lẫn hòa tấu.
Nhìn chung, Dương cầm là nhạc cụ độc tấu lẫn hòa tấu
(2) TONE: tông giọng, chủ âm
(3) KEY: khoá nhạc - là một ký hiệu trong soạn nhạc, dùng để biểu lộ cao độ của nốt nhạc được viết ra. Khóa nhạc được đặt trên một trong các dòng kẻ tại đầu khuông nhạc, biểu thị tên và cao độ của nốt nhạc nằm trên dòng kẻ đó. Dòng này đóng vai trò cột mốc tham chiếu để dựa vào đó suy ra tên của các nốt nhạc nằm trên các dòng và khe còn lại của khuông nhạc.
Cóba loại khóa nhạc dùng trong hệ thống ký hiệu nhạc hiện đại: F (khóa Fa), C(khóa Đô) và G (khóa Sol). Mỗi loại gắn với nốt nhạc tham chiếu của riêng mình(tức nốt nhạc nằm cùng dòng kẻ với khóa nhạc đó)
Tác giả :
Cát Uyển Tử