Đêm Đầu Tiên
Chương 23
Transsiberian
Keira nằm dài cả ngày trên giường, bị hành hạ bởi chứng đau nửa đầu. Tôi đã cẩn thận để cô ấy không đổ lỗi cho việc chèn ché be bét quá mức ngày hôm qua, kể cả khi cô ấy cầu xin tôi ngừng lại để kết thúc nổi thống khổ này. Cứ mỗi nửa giờ tôi lại đến cuối toa xe nơi đặt ấm samova để thấm nước ấm lên khăn tay rồi ngay lặp tức quay về chườm lên trán cho cô. Ngay sau khi cô ấy lại ngủ thiếp đi, tôi đưa mặt ra ngoài cửa sổ để nhìn ngắm vùng nông thôn. Theo thời gian, đoàn tàu chạy dọc theo một ngôi làng với những căn nhà được làm từ gỗ cây bulo. Khi chúng tôi dừng lại một trạm xe nhỏ, những người dân địa phương đã đứng đông nghịt trên sân để bán những sản phẩm bản địa của họ cho khách du lịch, salad khoai tây, bánh tvarok, mứt, bắp cải xào hay thịt. Chúng tôi không dừng lại lâu, sau đó tàu đi qua vùng sa mạc tuyệt vời của Urals. Vào cuối buổi trưa, Keira bắt đầu cảm thấy khá hơn một chút. Cô uống trà và ăn một chút trái cây khô. Chúng tôi đang đến gần Yekaterinburg, nơi chúng tôi phải tạm biệt cặp vợ chồng người Ý để bắt một chuyến xe khác đến Ulaanbaatar.
-Em đã muốn được đến thăm thành phố này, Keira thở dài, Church of the spilled blood (nhà thờ đổ máu) , nó trong có vẻ rất lộng lẫy.
Đó là một tên gọi rất lạ đối với một nhà thờ, nhưng nó được xây dựng trên đống tàn tích của biệt thự Ipatiev nơi hoàng đế Nicholas II, bà vợ Alexandra của ông ta cùng năm đứa con bị hành hình vào tháng 7 năm 1918.
Không may là chúng tôi không có thời gian để đi tham quan, tàu sẽ chỉ dừng lại nữa tiếng, để thay đầu máy, việc này được giao cho người trông coi toa chúng tôi. Chúng tôi chỉ có thể duỗi chân, mua ít thức ăn, điều đó thì tốt cho Keira.
-Em không có đói, cô ấy rên rỉ.
Vùng ngoại ô xuất hiện, nó trông giống như các thành phố công nghiệp, tàu dừng lại tại ga.
Keira đồng ý rời khỏi giường để đi bộ, màn đêm đã buông xuống trên bến, những người phụ nữ lớn tuổi (tác giả viết cụm từ này bằng tiếng Nga babushka) bán hàng của mình tại một cuộc đấu giá. Những người mới đến lên tàu, hai cảnh sát đi tuần xung quanh, thái độ thoải mái của họ khiến tôi yên tâm, vấn đề của chúng tôi dường như vẫn còn để lại Moscow, chúng tôi đã đi được hơn một ngàn năm trăm cây số.
Không có còi báo khởi hành, chỉ có sự di chuyển của đám đông cho tôi biết chúng tôi đến giờ phải lên xe. Tôi mua một hộp nước khoáng, một ít bánh pirojkis để thưởng thức một mình. Keira đã trở lại giường và ngủ thiếp đi. Sau khi ăn xong tôi trở về chổ của mình, nằm lắc lư theo đoàn tàu, âm thanh đều đều của giá chuyển hướng kéo tôi vào giấc ngủ sâu.
Khoảng hai giờ sáng, theo giờ Moscow, tôi nghe tiếng ồn ào ngoài cửa, dường như ai đó đangcố vào khoang của chúng tôi. Tôi bật dậy và kéo bức màn, lú đầu ra xem nhưng không có ai cả, hành lang vắng vẻ một cách bất thường, kể cả những nhân viên cũng bỏ rơi ấm samova của họ.
Tôi đóng chốt cửa và quyết định đánh thức Keira, có một điều gì đó không ổn. Cô tỉnh dậy, tôi đặt tay mình lên miệng cô ấy và ra hiệu cho cô ngồi dậy.
-Có vấn đề gì thế? Cô ấy thì thầm.
-Anh vẫn chưa biết chuyện gì hết, nhưng chuồn nhanh lên.
-Nhưng mà đi đâu?
Câu hỏi đó vô nghĩa. Chúng tôi bị giam trong một khoang sáu mét vuông, toa ăn uống cách chổ chúng tôi sáu toa xe, và ý tưởng phải đi đến đó không khiến tôi vui mừng. Tôi dọn trống vali, nhồi quần áo của chúng tôi vào giường, phủ chăn lên. Sau đó tôi giúp Keira trèo lên mái, tắt đèn và đi theo cô.
-Anh có thể nói cho em biết anh đang chơi trò gì không?
-Đừng làm ồn, đó là tất cả những gì anh yêu cầu.
Mười phút trôi qua, và tôi nghe tiếng mở chốt cửa lần nữa. Bốn cú đá và thật khó để nó vẫn còn đóng. Chúng tôi ngồi chen chút với nhau trong một thời gian dài cho đến khi Keira cảnh báo với tôi rằng chân cô ấy bị chuột rút và cô sẽ sớm la lên thôi. Chúng tôi rời khỏi chổ trốn, Keira mở đèn trần, tôi vén nữa bức màn đẻ ánh trăng xuyên vào. Chúng tôi kinh hoàng nhận ra rằng, giường chúng tôi bị thủng hai lỗ, nơi mà chúng tôi đặt mình nằm ngủ. Chúng đột nhập vào khoang để bắn chúng tôi. Keira quỳ xuống bên giường mình và lướt tay qua chổ chăn bị thủng.
-Thật đáng sợ… cô thì thầm.
-Qủa thực, anh sợ cái giường đã bị hỏng!
-Khốn nạn thật,cuối cùng thì, sao lại có vụ truy đuổi này? chúng ta thậm chí còn không biết chúng ta muốn gì, chẳng để cho chúng ta một ngày bình yên, nên…
-Có vẻ như những người đó biết nhiều hơn chúng ta. Giờ, ta cần phải bình tĩnh thoát khỏi cái bẫy này. Và tốt hơn là ta nên suy nghĩ nhanh lên.
Kẻ muốn giết chúng tôi vẫn đang ở trên xe lửa, ít nhất là cho đến trạm dừng chân tiếp theo, trừ khi chúng quyết định đợi đến khi tìm thấy thi thể của chúng tôi để đảm bảo kế hoạch của chúng thành công. Trong trường hợp đầu tiên, chúng tôi không cần quan tâm đến sự thảm hại trong cái khoang này, ở trường hợp thứ hai, tốt hơn là nên xuống trước hắn. Đoàn xe đi chậm lại, chúng tôi sắp đến Omsk, điểm dừng chân tiếp theo là vào sáng sớm, khi tàu vào ga Novosibirsk.
Bản năng đầu tiên của tôi là tìm cách khóa cửa. Tôi quấn thắt lưng của mình thành một vòng quanh tay nắm cửa rồi nối nói với giá để hành lý. Da đủ bền để ngăn không cho ai phá cửa vào. Keira và tôi cúi thấp xuống để có thể theo dõi từ hai hướng mà không bị phát hiện.
Đoàn xe dừng lại. từ chổ chúng tôi thật khó để phát hiện ra những ai đã đi xuống và chúng tôi nhận ra không có gì để hy vọng rằng kẻ giết người đã rời khỏi đoàn tàu.
Trong những giờ sau đó, chúng tôi gói ghém hành lý, từ chổ nấp cố nghe ngóng những tiếng động nhỏ nhất. Khoảng 6 giờ sáng, chúng tôi nghe tiếng la hét. Những vị khách ở khoang kế bên chạy nháo nhào ra hành lang. Keira nhảy dựng lên.
-Em không thể chịu được cảnh chết dí ở đây! Cô ấy nói, mở tay nắm cửa.
Cô mở cửa và đưa thắt lưng lại cho tôi.
-Bước ra ngoài mau! Có quá nhiều người nên chúng ta sẽ không bị gì đâu.
Một hành khách phát hiện ra người điều hành toa nằm dưới chân ấm smova, hoàn toàn không có dự sống, với một vết thương trên trán. Đồng nghiệp của anh ta, những người phục vụ thường ngày, ra lệnh cho chúng tôi trở về giường, cảnh sát đã đến Novosibirsk. Trong khi đó, mọi người bị nhốt vào khoang của mình.
-Trở về cái nhà tù đó á! Keira phát hỏa.
-Nếu cảnh sát kiểm tra từng khoang, tốt hơn là chúng ta nên về chổ của mình, tôi nói, gài lại thắt lưng, đây không phải là lúc gây chú ý.
-Anh có nghĩ tên này vẫn còn rình rập xung quanh không?
-Anh không biết, nhưng giớ hắn sẽ cố làm bất kỳ điều gì.
ở ga Novosibirsk, mỗi hành khách lần lượt bị hai cảnh sát đặt câu hỏi, không có ai thấy bất kỳ điều gì. Người nhân viên trẻ đã được đưa đi bằng xe cứu thương và được thay thế bằng một người khác. Có nhiều người nước ngoài ở đây đủ để sự hiện diện của chúng tôi không gây chú ý từ các cơ quan có thẫm quyền. Chỉ trong xe tôi thôi đã có người Hà Lan, Ý, Đức, thậm chí là một cặp người Nhật Bản, chỉ có hai người Anh trong số họ, chúng tôi đưa thẻ căn cước. Hai người cảnh sát xuống xe và đoàn tàu khởi hành.
Chúng tôi băng qua những đầm lầy băng giá, cảnh quan được điểm tô bởi những ngọn núi phủ đầy tuyết trắng, dọc theo vùng đồng bằng của Siberia. Vào buổi trưa, tàu chạy qua một cây cầu bằng kim loại dài bắt ngang sông Yenisey dữ dội, nó dừng lại ở Novosibirsk khoảng nửa tiếng. Chúng tôi cho rằng tốt hơn hết là không nên rời khỏi chổ của mình, nhưng Keira còn làm nhiều hơn thế. Nhiệt độ bây giờ là khoảng mười độ C. Chúng tôi ra khỏi chổ nấp nhỏ bé của mình và mua chút gì để ăn.
-Em chẳng thấy có điều gì đáng ngờ, Keira nói, cắn món rau tẩm bột rán giòn rụm trong răng.
-Miễn là nó duy trì cho đến sáng.
Những vị hành khách trở lại toa, tôi nhìn xung quanh lần cuối và giúp Keira trèo lên. Người nhân viên mới hét lên và cánh cửa vội vàng đóng lại phía sau tôi.
Tôi đề nghị với Keira rằng chúng tôi nên đến toa tàu phục vụ ăn uống vào buổi tối cuối cùng. Người Nga và những du khách từ khắp nơi trên thế giới ăn uống suốt đêm, chúng tôi sẽ được an toàn hơn. Keira nhận lời làm tôi cảm thấy nhẹ nhỏm. chúng tôi chia bàn với bốn người Hà Lan.
-Ở Irkutsk, làm thế nào chúng ta bắt tay vào tìm kiếm? hồ Baikal phải rộng sáu trăm cây số.
-Đến đó chúng ta sẽ tìm một quán cà phê internet và tìm kiếm một chút, nếu may mắn chúng ta sẽ tìm thấy dấu vết của người đàn ông đó.
-Bởi vì anh có thể tìm kiếm bằng chữ Cyrillic, anh á?
Tôi nhìn Keira, nụ cười của cô ấy nhắc nhở tôi cô ấy quyến rũ đến nhường nào. Chúng tôi thật sự cần đến một dịch vụ phiên dịch viên.
-Ở Irkusrk, cô ấy cười tôi, chúng ta sẽ tìm người theo đạo saman, ông ta sẽ cho chúng ta biết về địa lý và dân cư tại đó nhiều hơn bất kỳ công cụ tìm kiếm web đầy may rủi nào!
Khi chúng tôi ăn, Keira giải thích vì sao hồ Baikal lại là một mảnh đất màu mỡ cho các sinh vật cổ. Việc phát hiện ra vào thế kỷ Paleolithic thứ nhất đã có sự hiện diện của con người ở Siberia Transbaikalia cách đây hai mươi lăm ngàn năm vào đầu thế kỷ XXI. Họ đã có lịch và thực hiện các nghi lễ tôn giáo.
-Châu Á là nơi sinh ra đạo saman. Ở khu vực này, Keira tiếp tục, Saman được xem như là tôn giáo đầu tiên của con người. Theo thần thoại, đạo saman được sinh ra cùng với sự hình thành vũ trụ và người saman đầu tiên là con trai của Thiên đàng. Anh thấy đó, công việc của chúng ta được liên kết từ buổi bình minh của thời gian. Siberia có rất nhiều huyền thoại về thuyết nguồn gốc của vũ trụ. Một tác phẩm điêu khắc bằng xương có niên đại từ thiên niên kỷ thứ năm trước Công Nguyên đã được tìm thấy trên trên một nghĩa trang của hòn đảo tại Onega Rennes. Đó là chiếc mũ của người saman được trang trí với phần mặt nhô lên. Nó được đội bởi một người chủ tế đang bay về vương quốc thiên đàn, bao quanh là hai người phụ nữ.
-Sao em lại nói với anh điều đó?
-Bởi vì, tại nơi đây, trong tất cả các ngôi làng của Buryat, nếu anh muốn biết điều gì đó, hãy hỏi một người Saman. Giờ anh có thể giải thích vì sao anh đá em dưới gầm bàn không?
-Anh sẽ cho nó một trận!
-Vậy anh đang làm gì?
-Anh đang tìm cuốn sách du lịch mà em đã bỏ ở đâu đó. Đừng nói với anh rằng em biết nhiều về đạo Saman, anh không tin đâu!
-Đừng ngớ ngẩn thế, Keira cười khi tôi trượt tay qua hông cô, không có quyển sách nào ở mông em đâu! Em học những điều đó bằng cả trái tim, và không có cái gì ở ngực em hết, đủ rồi, Adrian!
-Lý do gì chứ?
-Em đã biết được điều đó khi em theo thuyết thần bí ở trường đại học, em rất… thích đạo saman. Hương , đá từ tính, nhảy múa, sự nhập định, nhập hồn, cuối cùng đó là một giai đoạn của cuộc sống của em ở New Age nếu anh biết ý em là gì và em cấm anh cười. Adiran, dừng lại, anh đang cù em, không ai giấu quyển sách ở đó cả.
-vậy làm sao chúng ta tìm ra một người saman? Tôi hỏi, ngồi dậy.
-Đứa trẻ đầu tiên trên đường sẽ nói cho anh biết người saman sống ở đâu, tin em đi. Khi em hai mươi tuổi em đã muốn có chuyến đi này. Đối với một số người, thiên đường là ở Kathmandu, giờ thì em đã ở đây và giấc mơ của em đã thành sự thật.
-Thật chứ?
-Vâng, thật chứ! Giờ thì em không có gì để chóng lại thực tế là anh đang đào sâu cuộc tìm kiếm của mình, trở lại khoang đi đã.
Tôi không để cô ấy lặp lại điều đó lần nữa. Vào buổi sáng, tôi cẩn thận kiểm tra cơ thể Keira và không thể tìm thấy bất kỳ tờ giấy nhắn nào được đính vào đó!
Luân Đôn
Sir Ashton di chuyển khỏi chiếc bàn để đến phòng ăn. Ông đọc báo buổi sáng, uống trà. Người thư ký riêng của ông bước vào phòng, mang theo một chiếc điện thoại được đặt trên một cái khay bạc. Ashton cầm lấy cái máy, nghe những gì người của ông nói lại, và đặt nó về chổ cũ. Người thư ký lẽ ra, như thường lệ, nên đi khỏi, nhưng dường như còn có thêm điều gì đó và ông ta chờ Sir Ashton nói với mình.
-gì nữa đây? Ta có thể ăn sáng mà không bị làm phiền không?
-giám đốc an ninh muốn nói chuyện với ông càng sớm càng tốt, thưa ông.
-Tốt thôi, để ông ta đến gặp ta vào buổi trưa.
-Ông ta ở tầng dưới, thưa ông, và dường như rất khẩn cấp.
-giám đốc an ninh đến nhà ta vào chín giờ sáng, chuyện này là sao?
-Tôi nghĩ rằng, thưa ông, nếu ông muốn tôi nói về ông ta, ông ta sẽ không cho tôi biết, trừ khi ông gặp ông ta càng sớm càng tốt.
-Vậy, thay vì ba hoa, điều đó khiến ta phiều nhiễu, hãy phục vụ chúng ta trà ở nhiệt độ chính xác chứ không phải thứ nước ốc lạnh ngắt mà ta đang dùng. Nào, nhanh lên vì nó lả việc gấp!
Người thư ký rút lui, nhường chổ cho người đứng đầu ban an ninh.
-Ông muốn gì?
Giám đốc an ninh đưa một phong bì được dán kín cho Sir Ashton. Ông mở nó ra và thấy một loạt các bức ảnh. ông nhận ra Inovy, ngồi trên một chiếc ghế dài ở công viên nhỏ cạnh nhà ông.
-Lão ngu xuẩn này làm gì ở đây? Ashton hỏi và tiến đến cửa sổ.
-Họ chụp nó vào cuối buổi chiều hôm qua, thưa ông. Sir Ashton kéo rèm lại và qua sang người đứng đầu ban an ninh.
-Nếu lão già ngu ngốc đó thích thú với việc nuôi chim bồ câu trước nhà ta, đó là chuyện của lão. Ta hy vọng ông không đến đây từ sáng sớm chỉ vì một vấn đề ngu ngốc.
-Một ưu tiên, việc ở Nga đã được hoàn thành đúng như ông yêu cầu.
-Tốt, sao ông không bắt đầu với tin tức tuyệt vời này, ông có muốn một tách trà không?
-Cảm ơn, thưa ông, nhưng tôi phải đi, tôi phải nó.
-Đợi một giây, sao ông lại nói “một ưu tiên"?
-Phái viên của chúng ta buộc phải rời tàu sớm hơn dự kiến, tuy vậy hai mục tiêu đã tử vong.
-Được rồi, ông có thể đi.
Keira nằm dài cả ngày trên giường, bị hành hạ bởi chứng đau nửa đầu. Tôi đã cẩn thận để cô ấy không đổ lỗi cho việc chèn ché be bét quá mức ngày hôm qua, kể cả khi cô ấy cầu xin tôi ngừng lại để kết thúc nổi thống khổ này. Cứ mỗi nửa giờ tôi lại đến cuối toa xe nơi đặt ấm samova để thấm nước ấm lên khăn tay rồi ngay lặp tức quay về chườm lên trán cho cô. Ngay sau khi cô ấy lại ngủ thiếp đi, tôi đưa mặt ra ngoài cửa sổ để nhìn ngắm vùng nông thôn. Theo thời gian, đoàn tàu chạy dọc theo một ngôi làng với những căn nhà được làm từ gỗ cây bulo. Khi chúng tôi dừng lại một trạm xe nhỏ, những người dân địa phương đã đứng đông nghịt trên sân để bán những sản phẩm bản địa của họ cho khách du lịch, salad khoai tây, bánh tvarok, mứt, bắp cải xào hay thịt. Chúng tôi không dừng lại lâu, sau đó tàu đi qua vùng sa mạc tuyệt vời của Urals. Vào cuối buổi trưa, Keira bắt đầu cảm thấy khá hơn một chút. Cô uống trà và ăn một chút trái cây khô. Chúng tôi đang đến gần Yekaterinburg, nơi chúng tôi phải tạm biệt cặp vợ chồng người Ý để bắt một chuyến xe khác đến Ulaanbaatar.
-Em đã muốn được đến thăm thành phố này, Keira thở dài, Church of the spilled blood (nhà thờ đổ máu) , nó trong có vẻ rất lộng lẫy.
Đó là một tên gọi rất lạ đối với một nhà thờ, nhưng nó được xây dựng trên đống tàn tích của biệt thự Ipatiev nơi hoàng đế Nicholas II, bà vợ Alexandra của ông ta cùng năm đứa con bị hành hình vào tháng 7 năm 1918.
Không may là chúng tôi không có thời gian để đi tham quan, tàu sẽ chỉ dừng lại nữa tiếng, để thay đầu máy, việc này được giao cho người trông coi toa chúng tôi. Chúng tôi chỉ có thể duỗi chân, mua ít thức ăn, điều đó thì tốt cho Keira.
-Em không có đói, cô ấy rên rỉ.
Vùng ngoại ô xuất hiện, nó trông giống như các thành phố công nghiệp, tàu dừng lại tại ga.
Keira đồng ý rời khỏi giường để đi bộ, màn đêm đã buông xuống trên bến, những người phụ nữ lớn tuổi (tác giả viết cụm từ này bằng tiếng Nga babushka) bán hàng của mình tại một cuộc đấu giá. Những người mới đến lên tàu, hai cảnh sát đi tuần xung quanh, thái độ thoải mái của họ khiến tôi yên tâm, vấn đề của chúng tôi dường như vẫn còn để lại Moscow, chúng tôi đã đi được hơn một ngàn năm trăm cây số.
Không có còi báo khởi hành, chỉ có sự di chuyển của đám đông cho tôi biết chúng tôi đến giờ phải lên xe. Tôi mua một hộp nước khoáng, một ít bánh pirojkis để thưởng thức một mình. Keira đã trở lại giường và ngủ thiếp đi. Sau khi ăn xong tôi trở về chổ của mình, nằm lắc lư theo đoàn tàu, âm thanh đều đều của giá chuyển hướng kéo tôi vào giấc ngủ sâu.
Khoảng hai giờ sáng, theo giờ Moscow, tôi nghe tiếng ồn ào ngoài cửa, dường như ai đó đangcố vào khoang của chúng tôi. Tôi bật dậy và kéo bức màn, lú đầu ra xem nhưng không có ai cả, hành lang vắng vẻ một cách bất thường, kể cả những nhân viên cũng bỏ rơi ấm samova của họ.
Tôi đóng chốt cửa và quyết định đánh thức Keira, có một điều gì đó không ổn. Cô tỉnh dậy, tôi đặt tay mình lên miệng cô ấy và ra hiệu cho cô ngồi dậy.
-Có vấn đề gì thế? Cô ấy thì thầm.
-Anh vẫn chưa biết chuyện gì hết, nhưng chuồn nhanh lên.
-Nhưng mà đi đâu?
Câu hỏi đó vô nghĩa. Chúng tôi bị giam trong một khoang sáu mét vuông, toa ăn uống cách chổ chúng tôi sáu toa xe, và ý tưởng phải đi đến đó không khiến tôi vui mừng. Tôi dọn trống vali, nhồi quần áo của chúng tôi vào giường, phủ chăn lên. Sau đó tôi giúp Keira trèo lên mái, tắt đèn và đi theo cô.
-Anh có thể nói cho em biết anh đang chơi trò gì không?
-Đừng làm ồn, đó là tất cả những gì anh yêu cầu.
Mười phút trôi qua, và tôi nghe tiếng mở chốt cửa lần nữa. Bốn cú đá và thật khó để nó vẫn còn đóng. Chúng tôi ngồi chen chút với nhau trong một thời gian dài cho đến khi Keira cảnh báo với tôi rằng chân cô ấy bị chuột rút và cô sẽ sớm la lên thôi. Chúng tôi rời khỏi chổ trốn, Keira mở đèn trần, tôi vén nữa bức màn đẻ ánh trăng xuyên vào. Chúng tôi kinh hoàng nhận ra rằng, giường chúng tôi bị thủng hai lỗ, nơi mà chúng tôi đặt mình nằm ngủ. Chúng đột nhập vào khoang để bắn chúng tôi. Keira quỳ xuống bên giường mình và lướt tay qua chổ chăn bị thủng.
-Thật đáng sợ… cô thì thầm.
-Qủa thực, anh sợ cái giường đã bị hỏng!
-Khốn nạn thật,cuối cùng thì, sao lại có vụ truy đuổi này? chúng ta thậm chí còn không biết chúng ta muốn gì, chẳng để cho chúng ta một ngày bình yên, nên…
-Có vẻ như những người đó biết nhiều hơn chúng ta. Giờ, ta cần phải bình tĩnh thoát khỏi cái bẫy này. Và tốt hơn là ta nên suy nghĩ nhanh lên.
Kẻ muốn giết chúng tôi vẫn đang ở trên xe lửa, ít nhất là cho đến trạm dừng chân tiếp theo, trừ khi chúng quyết định đợi đến khi tìm thấy thi thể của chúng tôi để đảm bảo kế hoạch của chúng thành công. Trong trường hợp đầu tiên, chúng tôi không cần quan tâm đến sự thảm hại trong cái khoang này, ở trường hợp thứ hai, tốt hơn là nên xuống trước hắn. Đoàn xe đi chậm lại, chúng tôi sắp đến Omsk, điểm dừng chân tiếp theo là vào sáng sớm, khi tàu vào ga Novosibirsk.
Bản năng đầu tiên của tôi là tìm cách khóa cửa. Tôi quấn thắt lưng của mình thành một vòng quanh tay nắm cửa rồi nối nói với giá để hành lý. Da đủ bền để ngăn không cho ai phá cửa vào. Keira và tôi cúi thấp xuống để có thể theo dõi từ hai hướng mà không bị phát hiện.
Đoàn xe dừng lại. từ chổ chúng tôi thật khó để phát hiện ra những ai đã đi xuống và chúng tôi nhận ra không có gì để hy vọng rằng kẻ giết người đã rời khỏi đoàn tàu.
Trong những giờ sau đó, chúng tôi gói ghém hành lý, từ chổ nấp cố nghe ngóng những tiếng động nhỏ nhất. Khoảng 6 giờ sáng, chúng tôi nghe tiếng la hét. Những vị khách ở khoang kế bên chạy nháo nhào ra hành lang. Keira nhảy dựng lên.
-Em không thể chịu được cảnh chết dí ở đây! Cô ấy nói, mở tay nắm cửa.
Cô mở cửa và đưa thắt lưng lại cho tôi.
-Bước ra ngoài mau! Có quá nhiều người nên chúng ta sẽ không bị gì đâu.
Một hành khách phát hiện ra người điều hành toa nằm dưới chân ấm smova, hoàn toàn không có dự sống, với một vết thương trên trán. Đồng nghiệp của anh ta, những người phục vụ thường ngày, ra lệnh cho chúng tôi trở về giường, cảnh sát đã đến Novosibirsk. Trong khi đó, mọi người bị nhốt vào khoang của mình.
-Trở về cái nhà tù đó á! Keira phát hỏa.
-Nếu cảnh sát kiểm tra từng khoang, tốt hơn là chúng ta nên về chổ của mình, tôi nói, gài lại thắt lưng, đây không phải là lúc gây chú ý.
-Anh có nghĩ tên này vẫn còn rình rập xung quanh không?
-Anh không biết, nhưng giớ hắn sẽ cố làm bất kỳ điều gì.
ở ga Novosibirsk, mỗi hành khách lần lượt bị hai cảnh sát đặt câu hỏi, không có ai thấy bất kỳ điều gì. Người nhân viên trẻ đã được đưa đi bằng xe cứu thương và được thay thế bằng một người khác. Có nhiều người nước ngoài ở đây đủ để sự hiện diện của chúng tôi không gây chú ý từ các cơ quan có thẫm quyền. Chỉ trong xe tôi thôi đã có người Hà Lan, Ý, Đức, thậm chí là một cặp người Nhật Bản, chỉ có hai người Anh trong số họ, chúng tôi đưa thẻ căn cước. Hai người cảnh sát xuống xe và đoàn tàu khởi hành.
Chúng tôi băng qua những đầm lầy băng giá, cảnh quan được điểm tô bởi những ngọn núi phủ đầy tuyết trắng, dọc theo vùng đồng bằng của Siberia. Vào buổi trưa, tàu chạy qua một cây cầu bằng kim loại dài bắt ngang sông Yenisey dữ dội, nó dừng lại ở Novosibirsk khoảng nửa tiếng. Chúng tôi cho rằng tốt hơn hết là không nên rời khỏi chổ của mình, nhưng Keira còn làm nhiều hơn thế. Nhiệt độ bây giờ là khoảng mười độ C. Chúng tôi ra khỏi chổ nấp nhỏ bé của mình và mua chút gì để ăn.
-Em chẳng thấy có điều gì đáng ngờ, Keira nói, cắn món rau tẩm bột rán giòn rụm trong răng.
-Miễn là nó duy trì cho đến sáng.
Những vị hành khách trở lại toa, tôi nhìn xung quanh lần cuối và giúp Keira trèo lên. Người nhân viên mới hét lên và cánh cửa vội vàng đóng lại phía sau tôi.
Tôi đề nghị với Keira rằng chúng tôi nên đến toa tàu phục vụ ăn uống vào buổi tối cuối cùng. Người Nga và những du khách từ khắp nơi trên thế giới ăn uống suốt đêm, chúng tôi sẽ được an toàn hơn. Keira nhận lời làm tôi cảm thấy nhẹ nhỏm. chúng tôi chia bàn với bốn người Hà Lan.
-Ở Irkutsk, làm thế nào chúng ta bắt tay vào tìm kiếm? hồ Baikal phải rộng sáu trăm cây số.
-Đến đó chúng ta sẽ tìm một quán cà phê internet và tìm kiếm một chút, nếu may mắn chúng ta sẽ tìm thấy dấu vết của người đàn ông đó.
-Bởi vì anh có thể tìm kiếm bằng chữ Cyrillic, anh á?
Tôi nhìn Keira, nụ cười của cô ấy nhắc nhở tôi cô ấy quyến rũ đến nhường nào. Chúng tôi thật sự cần đến một dịch vụ phiên dịch viên.
-Ở Irkusrk, cô ấy cười tôi, chúng ta sẽ tìm người theo đạo saman, ông ta sẽ cho chúng ta biết về địa lý và dân cư tại đó nhiều hơn bất kỳ công cụ tìm kiếm web đầy may rủi nào!
Khi chúng tôi ăn, Keira giải thích vì sao hồ Baikal lại là một mảnh đất màu mỡ cho các sinh vật cổ. Việc phát hiện ra vào thế kỷ Paleolithic thứ nhất đã có sự hiện diện của con người ở Siberia Transbaikalia cách đây hai mươi lăm ngàn năm vào đầu thế kỷ XXI. Họ đã có lịch và thực hiện các nghi lễ tôn giáo.
-Châu Á là nơi sinh ra đạo saman. Ở khu vực này, Keira tiếp tục, Saman được xem như là tôn giáo đầu tiên của con người. Theo thần thoại, đạo saman được sinh ra cùng với sự hình thành vũ trụ và người saman đầu tiên là con trai của Thiên đàng. Anh thấy đó, công việc của chúng ta được liên kết từ buổi bình minh của thời gian. Siberia có rất nhiều huyền thoại về thuyết nguồn gốc của vũ trụ. Một tác phẩm điêu khắc bằng xương có niên đại từ thiên niên kỷ thứ năm trước Công Nguyên đã được tìm thấy trên trên một nghĩa trang của hòn đảo tại Onega Rennes. Đó là chiếc mũ của người saman được trang trí với phần mặt nhô lên. Nó được đội bởi một người chủ tế đang bay về vương quốc thiên đàn, bao quanh là hai người phụ nữ.
-Sao em lại nói với anh điều đó?
-Bởi vì, tại nơi đây, trong tất cả các ngôi làng của Buryat, nếu anh muốn biết điều gì đó, hãy hỏi một người Saman. Giờ anh có thể giải thích vì sao anh đá em dưới gầm bàn không?
-Anh sẽ cho nó một trận!
-Vậy anh đang làm gì?
-Anh đang tìm cuốn sách du lịch mà em đã bỏ ở đâu đó. Đừng nói với anh rằng em biết nhiều về đạo Saman, anh không tin đâu!
-Đừng ngớ ngẩn thế, Keira cười khi tôi trượt tay qua hông cô, không có quyển sách nào ở mông em đâu! Em học những điều đó bằng cả trái tim, và không có cái gì ở ngực em hết, đủ rồi, Adrian!
-Lý do gì chứ?
-Em đã biết được điều đó khi em theo thuyết thần bí ở trường đại học, em rất… thích đạo saman. Hương , đá từ tính, nhảy múa, sự nhập định, nhập hồn, cuối cùng đó là một giai đoạn của cuộc sống của em ở New Age nếu anh biết ý em là gì và em cấm anh cười. Adiran, dừng lại, anh đang cù em, không ai giấu quyển sách ở đó cả.
-vậy làm sao chúng ta tìm ra một người saman? Tôi hỏi, ngồi dậy.
-Đứa trẻ đầu tiên trên đường sẽ nói cho anh biết người saman sống ở đâu, tin em đi. Khi em hai mươi tuổi em đã muốn có chuyến đi này. Đối với một số người, thiên đường là ở Kathmandu, giờ thì em đã ở đây và giấc mơ của em đã thành sự thật.
-Thật chứ?
-Vâng, thật chứ! Giờ thì em không có gì để chóng lại thực tế là anh đang đào sâu cuộc tìm kiếm của mình, trở lại khoang đi đã.
Tôi không để cô ấy lặp lại điều đó lần nữa. Vào buổi sáng, tôi cẩn thận kiểm tra cơ thể Keira và không thể tìm thấy bất kỳ tờ giấy nhắn nào được đính vào đó!
Luân Đôn
Sir Ashton di chuyển khỏi chiếc bàn để đến phòng ăn. Ông đọc báo buổi sáng, uống trà. Người thư ký riêng của ông bước vào phòng, mang theo một chiếc điện thoại được đặt trên một cái khay bạc. Ashton cầm lấy cái máy, nghe những gì người của ông nói lại, và đặt nó về chổ cũ. Người thư ký lẽ ra, như thường lệ, nên đi khỏi, nhưng dường như còn có thêm điều gì đó và ông ta chờ Sir Ashton nói với mình.
-gì nữa đây? Ta có thể ăn sáng mà không bị làm phiền không?
-giám đốc an ninh muốn nói chuyện với ông càng sớm càng tốt, thưa ông.
-Tốt thôi, để ông ta đến gặp ta vào buổi trưa.
-Ông ta ở tầng dưới, thưa ông, và dường như rất khẩn cấp.
-giám đốc an ninh đến nhà ta vào chín giờ sáng, chuyện này là sao?
-Tôi nghĩ rằng, thưa ông, nếu ông muốn tôi nói về ông ta, ông ta sẽ không cho tôi biết, trừ khi ông gặp ông ta càng sớm càng tốt.
-Vậy, thay vì ba hoa, điều đó khiến ta phiều nhiễu, hãy phục vụ chúng ta trà ở nhiệt độ chính xác chứ không phải thứ nước ốc lạnh ngắt mà ta đang dùng. Nào, nhanh lên vì nó lả việc gấp!
Người thư ký rút lui, nhường chổ cho người đứng đầu ban an ninh.
-Ông muốn gì?
Giám đốc an ninh đưa một phong bì được dán kín cho Sir Ashton. Ông mở nó ra và thấy một loạt các bức ảnh. ông nhận ra Inovy, ngồi trên một chiếc ghế dài ở công viên nhỏ cạnh nhà ông.
-Lão ngu xuẩn này làm gì ở đây? Ashton hỏi và tiến đến cửa sổ.
-Họ chụp nó vào cuối buổi chiều hôm qua, thưa ông. Sir Ashton kéo rèm lại và qua sang người đứng đầu ban an ninh.
-Nếu lão già ngu ngốc đó thích thú với việc nuôi chim bồ câu trước nhà ta, đó là chuyện của lão. Ta hy vọng ông không đến đây từ sáng sớm chỉ vì một vấn đề ngu ngốc.
-Một ưu tiên, việc ở Nga đã được hoàn thành đúng như ông yêu cầu.
-Tốt, sao ông không bắt đầu với tin tức tuyệt vời này, ông có muốn một tách trà không?
-Cảm ơn, thưa ông, nhưng tôi phải đi, tôi phải nó.
-Đợi một giây, sao ông lại nói “một ưu tiên"?
-Phái viên của chúng ta buộc phải rời tàu sớm hơn dự kiến, tuy vậy hai mục tiêu đã tử vong.
-Được rồi, ông có thể đi.
Tác giả :
Marc Levy