Cuộc Gọi Từ Thiên Thần
Chương 36: Finding alice
“Yếu tố duy nhất có thể thay thế cảm giác phụ thuộc vào quá khứ là cảm giác phụ thuộc vào tương lai."
John DOS PASSOS
Lower East Side
Một tòa nhà gần quảng trường công viên Tompkins
Một giờ sáng
Jonnathan đẩy cửa phòng tắm, Madeline đang ngủ gật trong bồn tắm. Anh tìm thấy một chiếc áo choàng tắm móc sau cửa và tiến lại gần để khẽ khàng đánh thức cô. Cô xanh xao, ánh nhìn trống rỗng, cử chỉ uể oải. Cô ngoan ngoãn để anh khoác áo cho rồi xoa khắp người trong tấm áo vải xốp.
Lúc này quá nguy hiểm nếu quay trở lại nhà Claire hoặc thuê phòng trong một khách sạn chuẩn nào đó nơi người ta có thể dễ dàng phát hiện ra họ. Sau khi đỗ xe
cách con phố, họ đã lánh vào một phòng trọ nhỏ của Anita Kruk, một bà lão người Ba Lan đang quản lý một cửa hàng thực phẩm khô nằm ở trung tâm Alphabet City. Ngày trước Jonathan từng tuyển con gái bà vào vị trí bồi bàn của nhà hàng Thống Soái và Anita vẫn nhận ra anh. Để chắc chắn không bị định vị, họ đã tắt điện thoại rồi bỏ lại trong xe. Họ chỉ mang theo người chiếc laptop cùng khẩu súng của Danny.
Có tiếng gõ cửa. Trong khi Madeline lùi sâu vào giường, Jonathan ra mở cửa cho Anita. Bà lão đem cho họ một khay đồ ăn có hai bát súp zurek bốc khói, loại súp quấy bột với rau và lúa mạch đen lên men.
Jonathan cảm ơn bà lão rồi đưa cho Madeline một bát súp:
- Em nếm thử đi, rồi sẽ thấy, vị... đặc biệt lắm.
Cô nhấp thử một thìa rồi nhổ ra luôn, bụng dạ nôn nao.
- Đúng là hơi chua thật, nhưng thiện ý mới đáng kể, phải không em?
Không trả lời anh, cô tắt đèn rồi ngủ thiếp đi.
Trước khi đến nằm cạnh cô, anh lại gần cửa sổ nhìn qua cửa kính. Tuyết vẫn rơi không ngớt. Một lớp tuyết dày hơn chục xăng-ti-mét đang phủ trên mặt đường và vỉa hè. Giờ này, Alice đang ở đâu trong cái lạnh thấu xương kia? Liệu cô bé có còn sống không? Họ có thể giải thoát cô bé khỏi địa ngục kia không?
Anh cần phải suy nghĩ thực tế: Mọi chuyện đã khởi đầu tệ hại. Cái chết của Blythe đã khiến cho khả năng lần đến nơi giam giữ cô bé trở nên cực kỳ mong manh.
Lời Madeline nói trở lại trong trí nhớ anh như một tiếng vọng của điềm báo: “Chuyện này đã bắt đầu trong máu và cũng sẽ kết thúc trong máu."
Anh còn chưa biết cô nói đúng đến mức nào.
Nhà kho trên đảo Coney
2 giờ sáng
Trong gian phòng lạnh căm im lìm, người ta chỉ nghe thấy tiếng thở khản đặc và thoi thóp.
Chính cái lạnh đã đánh thức Alice. Cái lạnh và nỗi đau: Một nỗi đau cào xé đang dội lên từ vùng thắt lưng sau mỗi cử động nhỏ nhất. Nằm nghiêng, tay vặn ra sau, cô bé hầu như đã mất toàn bộ cảm giác trên phần cơ thể hoàn toàn tê cóng này. Mạch máu phập phồng nơi hai thái dương và cơn đau đầu hòa lẫn với tiếng trống ngực thình thịch cùng cơn choáng váng.
Cô ho để thông phế quản, cố nuốt nước bọt, nhưng cảm giác lưỡi mình đã cứng lại như thạch cao.
Cô không biết mình đã bị bắt cóc bao lâu? Vài giờ? Một ngày? Cõ lẽ là hai ngày? Cô vẫn buồn tiểu, nhưng các cơ bàng quang của cô hình như đã tê liệt rồi.
Cô nghẹt thở. Suy nghĩ không liền mạch, mắt mờ, cơn sốt khiến cô mê sảng. Cô hình dung một con chuột khổng lỗ đang moi gan móc ruột mình, cái đuôi dài ram ráp của nó thít quanh cổ cô.
8 giờ sáng
- Dậy đi nào!
Jonathan mở hé một mắt và khó nhọc tỉnh giấc.
- Dậy đi anh! Madeline nhắc lại. Ta phải đi thôi.
Một tia trắng đục xuyên qua cửa kính. Ngày vừa rạng.
Jonathan nén một cái ngáp rồi khó nhọc rời khỏi giường. Madeline đã mặc xong quần áo. Sau giấc ngủ ngắn đêm qua, cô đã lấy lại thần sắc và có vẻ quyết tâm hơn bao giờ hết.
Anh đang tìm đường ra nhà tắm thì cô tung cho anh một bộ quần áo.
- Để hôm khác hãy tắm! Chúng ta không rảnh đâu.
Họ bước ra phố sau khi để lại một số tiền cho bà chủ nhà. Sáng nay không còn là mười xăng-ti-mét nữa, mà ít nhất là gấp đôi độ dày đó đang bao phủ thành phố. Tuyết vẫn tiếp tục rơi khiến giao thông đình trệ. Trên các bờ hè, dân chúng đang quét sạch tuyết trước lối vào nhà, nhân viên sở giao thông công chính đang chà muối lên mặt đường và trên khu Bowery, hai chiếc xe chuyên dụng to đùng đang gạt tuyết sang hai bên lề đường, đẩy chúng vào chỗ những chiếc xe đạp và ô tô đậu không đúng chỗ.
Họ quay lại chỗ đỗ chiếc Pontiac và lấy lại điện thoại rồi tiếp tục thả bộ về phía quán Peels, tổng hành dinh mới của họ.
Vì tuyết rơi dày đặc và hãy còn sớm nên quán vẫn thưa vắng. Họ ngồi đúng bàn đã ngồi hôm trước rồi gọi cà phê, sữa chua, ngũ cốc.
Vì quán không lắp đặt truyền hình, Madeline lấy laptop ra rồi kết nối wifi.
- Kênh thông tin địa phương quan trọng nhất ở đây là gì?
- Bật thử kênh NY1 News đi.
Madeline truy cập trang web của kênh đó. Trang chủ mở ra một trình duyệt video – NY1 Từng phút – đang tóm lược thời sự trong ngày trong khoảng thời gian sáu mươi giây. Ba phần tư thời lượng bản tin vắn này được dành cho những đợt tuyết rơi bất ngờ đang có nguy cơ khiến cả New York tê liệt, phần cuối bản tin có nhắc đến “vụ ám sát bí ẩn hồi đêm qua, nạn nhân là một nữ mật vụ Mỹ, Blythe Blake, qua đời sau khi nhận một phát đạn vào đầu. Thi thể nạn nhân được tìm thấy dưới sông Hudson. Cựu quân nhân đang phụ trách bảo vệ một công dân thứ Hai tới sẽ đưa ra một lời chứng quan trọng liên quan tới phiên xử bà trùm ma túy Jezebel Cortes. Nhân chứng chủ chốt này hiện đang được FBI bảo vệ".
Madeline thở dài: Không thể biết liệu cảnh sát đã xác lập được bằng chứng phạm tội của Blythe chưa, nhưng ít ra Danny cũng không gặp nguy hiểm. Cảm giác mãn nguyện này kéo dài không lâu, cần phải tìm ra cô bé, vậy mà họ không có chút manh mối nào hết.
- Hẳn Blythe phải có đồng lõa, cô nhận định.
Jonathan rót đầy cà phê vào tách của cô rồi mới tự rói thêm cho mình.
- Phải điều tra lại từ đầu thôi. Rõ ràng là trong những giờ tiếp theo sau vụ bắt cóc Alice, Blythe đã thu xếp để xóa hết dấu vết và ngầm phá hoại công tác điều tra.
- Anh nghĩ sao?
- Cần phải thử định vị điện thoại di động của Alice.
- Chúng ta làm gì có trang thiết bị. Đó là công việc của cảnh sát.
Jonathan lắc đầu.
- Ngày nay thì không hẳn thế. Với nạn đánh cắp điện thoại ngày càng phổ biến, nhiều nhà mạng đã khuyến cáo khách hàng nên kích hoạt chức năng định vị từ xa. Nếu chiếc smartphone của Alice là loại đời mới thì chắc chắn sẽ có cài đặt sẵn chức năng này.
Madeline nghi hoặc.
- Thậm chí chúng ta còn không biết số điện thoại của cô bé...
- Chức năng này không hoạt động với số điện thoại, mà với địa chỉ thư điện tử.
Jonathan xoay màn hình laptop về phía mình để truy cập trang web “Định vị smartphone của tôi" của một thương hiệu tin học nổi tiếng. Để có thể xác định vị trí của điện thoại, thực ra cần phải cung cấp địa chỉ thư điện tử kèm mật khẩu.
- Chúng ta chẳng có địa chỉ hòm thư điện tử lẫn mật khẩu, như vậy là vấn đề được giải quyết rồi đấy, Madeline cáu kỉnh nói khi nhìn anh gõ bàn phím.
Lần này, Jonathan cao giọng:
- Anh có thể biết tạo sao mỗi lần anh nêu ra ý tưởng nào đó là em lại gạt phắt đi không?
- Bởi vì ta sẽ mất thời gian mà chẳng thu được kết quả gì hết!
- Anh nhắc để em nhớ là nói gì thì nói, chính NHỜ CÓ ANH mà chúng ta mới lật tẩy được chân tướng của Blythe đấy nhé!
- Nhưng cũng chính TẠI ANH mà em vừa buộc phải bắn hạ cô ta! Cô lên giọng trách móc anh.
Ra là thế đấy. Cảm giác tội lỗi khiến Madeline day dứt vừa trỗi dậy mãnh liệt. Jonathan chọn cách cố gắng khuyên giải cô.
- Em từng nói thế nào ấy nhỉ? Thế giới bớt đi một kẻ xấu xa thôi mà... Nghe anh nói này, dù có xảy ra chuyện gì thì Blythe cũng không đời nào cho chúng ta biết chỗ giam Alice.
- Nếu chuyện đõ có thể giúp lương tâm anh đỡ cắn rứt hơn...
- Điều sẽ khiến lương tâm anh đỡ cắn rứt hơn là em giúp anh tìm ra Alice!
Cô đang chỉ tay vào anh sắp sửa vặc lại anh một lần nữa thì bỗng nhận ra rằng anh không hề nhầm.
- Khỉ thật! Chúng ta cãi nhau chẳng khác nào một cặp vợ chồng già! Cô bực tức.
Cô lại gần máy tính.
“Vui lòng điền tên đăng nhập"
- Được rồi, Sherlock, anh có ý tưởng nào không?
- Chúng ta có thể thử một tài khoản Hotmail hoặc Gmail, Jonathan đề xuất. Hoặc giả... tại sao không phải là tài khoản thư điện tử của trường nghệ thuật nơi cô bé theo học nhỉ?
Cho rằng ý tưởng đó khá thú vị, Madeline mở một cửa số mới để truy cập website của trường Juilliard School. Có vẻ như từ giáo viên đến học sinh trong trường đều có một tài khoản thư điện tử dưới dạng cơ bản: tên.họ.@juilliard.edu. Vậy nên Madeline cẩn thận gõ vào ô đăng nhập dòng chữ: alice.kowalski@ juilliard.edu
“Vui lòng đăng nhập mật khẩu"
- Đến đây thì anh bó tay rồi, Jonathan thú nhận.
- Khoan đã! Không biết liệu cô bé có tiếp tục dùng mật khẩu cũ không nhỉ?
- Mật khẩu cô bé đã dùng từ khi mười bốn tuổi ư?
- Mọi người vẫn thường làm vậy đúng không? Nói gì thì nói, em cũng dùng mãi một mật khẩu từ cả chục năm nay rồi.
- Mật khẩu là gì vậy?
- Mind your business[1]!
[1]. Tiếng Anh trong nguyên bản: Lo chuyện của anh đi! (Chú thích của tác giả)
- Thôi nào, nói cho anh biết đi!
- Không có chuyện đó đâu!
- Đi mà!
- “violette1978", cô thở dài. Giờ thì em chỉ việc đổi mật khẩu đó đi là xong.
- 1978 là năm sinh của em sao?
- Vâng. Sao anh lại hỏi vậy, anh nghĩ em bao nhiêu tuổi? Nhiều hơn hay ít hơn thế?
Anh đáp lại câu hỏi của cô bằng một nụ cười, mừng khi thấy họ lại trở nên thân thiết.
- Mật khẩu của Alice dùng khi đó là gì?
- Heathcliff, nhân vật chính trong Đồi gió hú.
Jonathan gõ mật khẩu trên bàn phím.
- Cùng chắp tay câu nguyện nào, anh nói rồi ấn lên nút chấp nhận.
Máy tính chạy mất vài giây, họ im lặng nhìn nhau, vừa lo âu vừa ngờ vực. Việc này không thể đơn giản đến thế được. Từ khi bắt đầu tới giờ, vận may vẫn luôn tuột khỏi tay họ. Chẳng vận may nào mỉm cười với họ hết. Chướng ngại vật cứ nhân lên gấp bội, mỗi lần lại khó vượt qua hơn, kéo theo đó là những hậu quả mỗi lúc một thêm tệ hại. Lần này không thể may mắn như vậy được...
Ấy vậy mà, họ lại gặp may...
Một tấm bản đồ Manhattan hiển thị trên màn hình máy tính và trên đó là một chấm màu xanh lơ bao quanh
bởi một quầng sáng đang nhấp nháy: Điện thoai của Alice không chỉ xuất hiện tại New York, mà nó còn ở cách nơi họ ngồi chưa đầy ba cây số.
Họ đứng bật dậy rồi hét toáng lên khiến những khách hàng hiếm hoi đang ngồi trong quán đồng loạt ngẩng đầu nhìn lên. Vỏn vẹn hai phút là đủ để hy vọng quay trở lại.
Jonathan cúi cuống mặt bàn chân quỳ để định vị điểm sáng kia một cách chính xác: Một tòa nhà đồ sộ nằm ở góc Đại lộ 5 giao với Phố 23.
- Anh biết đó là tòa nhà nào không? Madeline hỏi, gần như đứt hơi vì phấn khích.
- “Chợ" Italy đối diện Flatiron[2].
[2]. Một trong những tòa cao ốc chọc trời nổi tiếng và lâu đời nhất Manhattan có hình tam giác giống như “bàn là".
Họ chuyển dữ liệu ra điện thoại của cả hai rồi rời quán bước ra khu Bowery. Tuyết rơi dày đặc đến nỗi họ không nghĩ đến chuyện sử dụng ô tô.
- Chúng ta cuốc bộ tới đó nhé? Madeline đề xuất.
- Không, với thời tiết thế này chúng ta sẽ mất nửa giờ mới tới được đó! Tốt hơn hết là thử gọi một chiếc taxi.
Nhưng vì trời đang có bão nên nhiều chiếc taxi màu vàng đã ở lại trong bãi đậu, họ phải chiến đấu hơn năm phút mới vẫy được một chiếc taxi trên đường Broadway.
Ngồi vào xe rồi, họ kiểm tra vị trí điện thoại của Alicetrên màn hình điện thoại của mỗi người. Chấm xanh đó có vẻ như không nhúc nhích.
- Anh hy vọng chiếc điện thoại di động đó không bị bỏ lại, Jonathan lo lắng.
- Khu chợ anh vừa nói với em là chợ gì thế?
- Nó tên là Eataly: Thánh địa ẩm thực Italy tại Manhattan. Một dạng siêu thị hạng sang rộng mênh mông.
Họ đến trước siêu thị. Tài xế taxi nhận lời chờ họ với điều kiện thời gian mua sắm của họ không quá mười phút, đổi lại là khoản bồi dưỡng 20 đô la.
Khu chợ có mái che chỉ vừa mở cửa nhưng đúng vào ngày lễ chính nên bên trong đã đông nghịt người, khác hẳn bên ngoài đường phố.
- Đi theo em!
Mắt dán vào màn hình điện thoại, họ dạo qua một phần của mặt bằng hàng nghìn mét vuông hoàn toàn những nhà hàng, cửa hiệu và những giá bày bán các sản phẩm tinh chế.
Cứ sau ba mươi giây, điện thoại của Alice lại phát tín hiệu một lần để việc định vị khớp với thời gian thực. Phần mềm GPS mạnh mẽ của điện thoại cho phép định vị nó với độ chính xác bán kính mười mét.
- Đằng kia!
Họ chen lấn xô đẩy rồi luồn lách qua những kim tự tháp xếp bằng bánh mì bột men, những hộp pasta và risotto, những tảng pho mát Parmesan, giăm bông Parma treo lủng lẳng trên trần, nhà hàng chuyên phục vụ đồ chay, tiệm pizza...
- Phía này!
Lúc này họ đang ở trên một lối đi tập trung các quầy hàng cho phép nếm kem và cà phê.
Họ căng mắt qua sát chăm chú hàng chục người đang bước hối hả trên lối đi. Có quá nhiều chuyển động, đám đông chen chúc, tiếng động ồn ào.
- Chuyện này sẽ không dễ dàng chút nào, Madeline thở dài. Anh không có ý tưởng thiên tài nào khác sao?
Jonathan nhìn xuống màn hình điện thoại.
- Trang web cho phép hiển thị một tin nhắn trên màn hình điện thoại đó hoặc làm nó đổ chuông không ngừng trong hai phút, kể cả khi máy đã chuyển sang chế độ im lặng.
- Thử xem!
Anh kích hoạt chức năng đó và cả hai căng tai lắng nghe.
Nhưng giữa đám đông lúc nhúc và ồn ã, không thể nghe ra bất kỳ tiếng chuông nào, ngay cả trong bán kính vài mét.
- Anh chuẩn bị làm lại nhé! Madeline dặn Jonathan rồi rút súng ra.
- Có phải em đang định...?
Không chút ngần ngại, cô bắn một phát chỉ thiên.
- Làm luôn đi!
Tiếng súng nổ vang khiến tất cả mọi người đang có mặt đều rung động. Trước khi nhường chỗ cho những tiếng la hét, có nửa giây sững sờ gần như im lặng hoàn toàn. Nửa giây đó đủ để người ta nghe thấy tiếng bíp kéo dài của một hồi chuông điện thoại.
- Là cô ta! Madeline chĩa mũi súng vào một nữ nhân viên bán hàng của quầy espresso.
Đó là một cô gái xinh xắn, tuổi chừng mười tám đôi mươi. Một cô gái lai với mái tóc dài màu đen duỗi thẳng. Chiếc điện thoại di động nhô ra khỏi túi trước tạp dề của cô. Madeline chạy vội về phía đó rồi lôi cô ta ra khỏi quầy.
- Đi theo chúng rôi! Cô ra lệnh.
Nửa áp giải nửa dìu cô gái đang nước mắt lưng tròng, Madeline và Jonathan đã kịp rời khỏi hiện trường trước khi có sự can thiệp của lực lượng an ninh.
Tạ ơn Chúa, xe taxi vẫn đợi họ.
- Này, cái thứ đó là sao? Tài xế rên rỉ khi nhìn thấy khẩu Colt.
- Chạy xe đi, nếu không viên đạn tiếp theo sẽ dành cho anh đấy! Madeline thét.
Rồi quay sang cô gái vẫn đang rấm rứt khóc.
- Cô tên gì?
- Tôi tên Maya.
- Cô có chiếc điện thoại này bao lâu rồi?
- Từ... từ sáng hôm qua, lời đáp của cô ta hòa lần với tiếng thổn thức.
- Thôi đừng có khóc nữa đi! Ai đưa nó cho cô?
- Đó là quà của Anthony, bạn trai tôi tặng.
- Một món quà ư?
- Một thứ anh ấy xoáy được khi làm việc, cô ta giải thích thêm. Anh ấy dặn tôi đừng tắt máy, vì anh ấy không có mật khẩu để khởi động lại máy.
- Cậu ta làm nghề gì?
- Anthony làm tại phòng vật chứng của đồn cảnh sát Brooklyn nằm trên phố Columbia.
Một phòng vật chứng... Đó có thể là một nơi giam giữ lắm. Hướng điều tra này trở nên thú vị rồi đây.
- Hôm nay cậu ta có đi làm không?
- Không, anh ấy đang ở nhà bố mẹ tại khu Stuyvesant.
Madeline quay sang Jonathan, chuyên gia về địa hình thành phố.
- Chỗ đó không xa đây lắm: Thẳng hướng Đông, giữa phố 14 và Phố 23.
Cô gõ hai nhịp vào tấm kính chắn giữa họ với buồng lái.
- Anh nghe rõ rồi chứ? Fangio[3]?
[3]. Juan Manuel Fangio (1911-1995): Tay đua công thức một kiệt xuất người Achentina từng 5 lần đoạt chức vô địch thế giới.
Được xây dựng vào thời điểm Thế chiến II vừa kết thúc, khu Stuyvesant là một cụm khoảng một trăm tòa nhà nhỏ xây bằng gạch đỏ. Nhờ mức giá cho thuê luôn được kiểm soát, nhiều thế hệ những người thuộc tầng lớp trung lưu – cảnh sát, lính cứu hỏa, giáo viên, y tá – có thể tiếp tục sinh sống giữa Manhattan bất chấp bối cảnh giá cả bất động sản tăng chóng mặt.
Chiếc taxi đi theo chỉ dẫn của Maya, luồn lách giữa những khối nhà.
- Toàn nhà này ạ. Tầng chín. Từ thang máy ra là cửa thứ hai bên phải.
- Cô đi lên cùng chúng tôi. Còn anh, biến đi cho khuất mắt! Cô ra lệnh cho tài xế taxi, anh chàng vội lái đi ngay không buồn hỏi han gì thêm.
Cửa ra vào căn hộ dành cho người có thu nhập thấp chịu thua trước cú đá của Madeline. Cô không chỉ tìm lại những phản xạ xưa cũ ngày còn làm cảnh sát mà còn tìm thấy cả sự quyết tâm gần như bốc đồng. Cô chuyển từ suy nghĩ sang hành động, chóng vánh đến nỗi Jonathan đâm lo, ngay cả khi anh biết rằng đó là điều kiện tiên quyết để tìm ra Alice.
Căn hộ trống huếch trống hoác ngoại trừ anh chàng Anthony đang ngủ nướng. Trước khi kịp định thần, cậu ta đã thấy mình trần như nhộng với khẩu súng của Madeline đang chĩa xuống hạ bộ.
Gã trai cao gầy với phần bụng dưới chia múi và nhữn hình xăm kiểu ca sĩ nhạc rap. Phản xạ đầu tiên của cậu ta là che phần thân dưới, nhưng Madeline đã bắt cậu ta giơ tay lên trời.
- Nếu không muốn tôi bắn tung cái thứ này, cậu phải trả lời các câu hỏi của tôi, hiểu chứ?
- Hiểu... hiểu ạ.
Jonathan khua khua máy điện thoại của Alice trước mũi gã trai.
- Tôi tìm thấy nó đấy chứ!
- Tìm thấy ở đâu?
- Trong một chiếc xe mà tôi đã dùng xe moóc kéo về tối ngày hôm kia.
- Chiếc xe đó hiệu gì?
- Một chiếc Dodge to đùng mới cứng, Anthony giải thích. Chiếc điện thoại nằm bên trong xe, dưới gầm ghế sau.
- Thế còn chiếc Dodge, cậu kéo từ đâu về?
- Đảo Coney.
- Nói rõ hơn xem nào! Jonathan xen ngang. Nói rõ cho chúng tôi biết tên phố, tên đường đi.
- Tôi không biết nữa! Gần bãi biển. Ngay cạnh đoàn tàu ma cũ kỹ. Không xa hàng bán bánh mì xúc xích lắm. Tôi còn nhớ khu đất đối diện có lũ chó lúc nào cũng sủa inh tai...
Jonathan tra bản đồ trên điện thoại di động.
- Đây hả? Anh hỏi và chỉ một chấm trên bản đồ.
- Gần biển hơn chút nữa. Đây, mé phải này...
Madeline lưu lại dữ liệu.
- Ta đi thôi! Cô nói rồi rời khỏi căn hộ.
John DOS PASSOS
Lower East Side
Một tòa nhà gần quảng trường công viên Tompkins
Một giờ sáng
Jonnathan đẩy cửa phòng tắm, Madeline đang ngủ gật trong bồn tắm. Anh tìm thấy một chiếc áo choàng tắm móc sau cửa và tiến lại gần để khẽ khàng đánh thức cô. Cô xanh xao, ánh nhìn trống rỗng, cử chỉ uể oải. Cô ngoan ngoãn để anh khoác áo cho rồi xoa khắp người trong tấm áo vải xốp.
Lúc này quá nguy hiểm nếu quay trở lại nhà Claire hoặc thuê phòng trong một khách sạn chuẩn nào đó nơi người ta có thể dễ dàng phát hiện ra họ. Sau khi đỗ xe
cách con phố, họ đã lánh vào một phòng trọ nhỏ của Anita Kruk, một bà lão người Ba Lan đang quản lý một cửa hàng thực phẩm khô nằm ở trung tâm Alphabet City. Ngày trước Jonathan từng tuyển con gái bà vào vị trí bồi bàn của nhà hàng Thống Soái và Anita vẫn nhận ra anh. Để chắc chắn không bị định vị, họ đã tắt điện thoại rồi bỏ lại trong xe. Họ chỉ mang theo người chiếc laptop cùng khẩu súng của Danny.
Có tiếng gõ cửa. Trong khi Madeline lùi sâu vào giường, Jonathan ra mở cửa cho Anita. Bà lão đem cho họ một khay đồ ăn có hai bát súp zurek bốc khói, loại súp quấy bột với rau và lúa mạch đen lên men.
Jonathan cảm ơn bà lão rồi đưa cho Madeline một bát súp:
- Em nếm thử đi, rồi sẽ thấy, vị... đặc biệt lắm.
Cô nhấp thử một thìa rồi nhổ ra luôn, bụng dạ nôn nao.
- Đúng là hơi chua thật, nhưng thiện ý mới đáng kể, phải không em?
Không trả lời anh, cô tắt đèn rồi ngủ thiếp đi.
Trước khi đến nằm cạnh cô, anh lại gần cửa sổ nhìn qua cửa kính. Tuyết vẫn rơi không ngớt. Một lớp tuyết dày hơn chục xăng-ti-mét đang phủ trên mặt đường và vỉa hè. Giờ này, Alice đang ở đâu trong cái lạnh thấu xương kia? Liệu cô bé có còn sống không? Họ có thể giải thoát cô bé khỏi địa ngục kia không?
Anh cần phải suy nghĩ thực tế: Mọi chuyện đã khởi đầu tệ hại. Cái chết của Blythe đã khiến cho khả năng lần đến nơi giam giữ cô bé trở nên cực kỳ mong manh.
Lời Madeline nói trở lại trong trí nhớ anh như một tiếng vọng của điềm báo: “Chuyện này đã bắt đầu trong máu và cũng sẽ kết thúc trong máu."
Anh còn chưa biết cô nói đúng đến mức nào.
Nhà kho trên đảo Coney
2 giờ sáng
Trong gian phòng lạnh căm im lìm, người ta chỉ nghe thấy tiếng thở khản đặc và thoi thóp.
Chính cái lạnh đã đánh thức Alice. Cái lạnh và nỗi đau: Một nỗi đau cào xé đang dội lên từ vùng thắt lưng sau mỗi cử động nhỏ nhất. Nằm nghiêng, tay vặn ra sau, cô bé hầu như đã mất toàn bộ cảm giác trên phần cơ thể hoàn toàn tê cóng này. Mạch máu phập phồng nơi hai thái dương và cơn đau đầu hòa lẫn với tiếng trống ngực thình thịch cùng cơn choáng váng.
Cô ho để thông phế quản, cố nuốt nước bọt, nhưng cảm giác lưỡi mình đã cứng lại như thạch cao.
Cô không biết mình đã bị bắt cóc bao lâu? Vài giờ? Một ngày? Cõ lẽ là hai ngày? Cô vẫn buồn tiểu, nhưng các cơ bàng quang của cô hình như đã tê liệt rồi.
Cô nghẹt thở. Suy nghĩ không liền mạch, mắt mờ, cơn sốt khiến cô mê sảng. Cô hình dung một con chuột khổng lỗ đang moi gan móc ruột mình, cái đuôi dài ram ráp của nó thít quanh cổ cô.
8 giờ sáng
- Dậy đi nào!
Jonathan mở hé một mắt và khó nhọc tỉnh giấc.
- Dậy đi anh! Madeline nhắc lại. Ta phải đi thôi.
Một tia trắng đục xuyên qua cửa kính. Ngày vừa rạng.
Jonathan nén một cái ngáp rồi khó nhọc rời khỏi giường. Madeline đã mặc xong quần áo. Sau giấc ngủ ngắn đêm qua, cô đã lấy lại thần sắc và có vẻ quyết tâm hơn bao giờ hết.
Anh đang tìm đường ra nhà tắm thì cô tung cho anh một bộ quần áo.
- Để hôm khác hãy tắm! Chúng ta không rảnh đâu.
Họ bước ra phố sau khi để lại một số tiền cho bà chủ nhà. Sáng nay không còn là mười xăng-ti-mét nữa, mà ít nhất là gấp đôi độ dày đó đang bao phủ thành phố. Tuyết vẫn tiếp tục rơi khiến giao thông đình trệ. Trên các bờ hè, dân chúng đang quét sạch tuyết trước lối vào nhà, nhân viên sở giao thông công chính đang chà muối lên mặt đường và trên khu Bowery, hai chiếc xe chuyên dụng to đùng đang gạt tuyết sang hai bên lề đường, đẩy chúng vào chỗ những chiếc xe đạp và ô tô đậu không đúng chỗ.
Họ quay lại chỗ đỗ chiếc Pontiac và lấy lại điện thoại rồi tiếp tục thả bộ về phía quán Peels, tổng hành dinh mới của họ.
Vì tuyết rơi dày đặc và hãy còn sớm nên quán vẫn thưa vắng. Họ ngồi đúng bàn đã ngồi hôm trước rồi gọi cà phê, sữa chua, ngũ cốc.
Vì quán không lắp đặt truyền hình, Madeline lấy laptop ra rồi kết nối wifi.
- Kênh thông tin địa phương quan trọng nhất ở đây là gì?
- Bật thử kênh NY1 News đi.
Madeline truy cập trang web của kênh đó. Trang chủ mở ra một trình duyệt video – NY1 Từng phút – đang tóm lược thời sự trong ngày trong khoảng thời gian sáu mươi giây. Ba phần tư thời lượng bản tin vắn này được dành cho những đợt tuyết rơi bất ngờ đang có nguy cơ khiến cả New York tê liệt, phần cuối bản tin có nhắc đến “vụ ám sát bí ẩn hồi đêm qua, nạn nhân là một nữ mật vụ Mỹ, Blythe Blake, qua đời sau khi nhận một phát đạn vào đầu. Thi thể nạn nhân được tìm thấy dưới sông Hudson. Cựu quân nhân đang phụ trách bảo vệ một công dân thứ Hai tới sẽ đưa ra một lời chứng quan trọng liên quan tới phiên xử bà trùm ma túy Jezebel Cortes. Nhân chứng chủ chốt này hiện đang được FBI bảo vệ".
Madeline thở dài: Không thể biết liệu cảnh sát đã xác lập được bằng chứng phạm tội của Blythe chưa, nhưng ít ra Danny cũng không gặp nguy hiểm. Cảm giác mãn nguyện này kéo dài không lâu, cần phải tìm ra cô bé, vậy mà họ không có chút manh mối nào hết.
- Hẳn Blythe phải có đồng lõa, cô nhận định.
Jonathan rót đầy cà phê vào tách của cô rồi mới tự rói thêm cho mình.
- Phải điều tra lại từ đầu thôi. Rõ ràng là trong những giờ tiếp theo sau vụ bắt cóc Alice, Blythe đã thu xếp để xóa hết dấu vết và ngầm phá hoại công tác điều tra.
- Anh nghĩ sao?
- Cần phải thử định vị điện thoại di động của Alice.
- Chúng ta làm gì có trang thiết bị. Đó là công việc của cảnh sát.
Jonathan lắc đầu.
- Ngày nay thì không hẳn thế. Với nạn đánh cắp điện thoại ngày càng phổ biến, nhiều nhà mạng đã khuyến cáo khách hàng nên kích hoạt chức năng định vị từ xa. Nếu chiếc smartphone của Alice là loại đời mới thì chắc chắn sẽ có cài đặt sẵn chức năng này.
Madeline nghi hoặc.
- Thậm chí chúng ta còn không biết số điện thoại của cô bé...
- Chức năng này không hoạt động với số điện thoại, mà với địa chỉ thư điện tử.
Jonathan xoay màn hình laptop về phía mình để truy cập trang web “Định vị smartphone của tôi" của một thương hiệu tin học nổi tiếng. Để có thể xác định vị trí của điện thoại, thực ra cần phải cung cấp địa chỉ thư điện tử kèm mật khẩu.
- Chúng ta chẳng có địa chỉ hòm thư điện tử lẫn mật khẩu, như vậy là vấn đề được giải quyết rồi đấy, Madeline cáu kỉnh nói khi nhìn anh gõ bàn phím.
Lần này, Jonathan cao giọng:
- Anh có thể biết tạo sao mỗi lần anh nêu ra ý tưởng nào đó là em lại gạt phắt đi không?
- Bởi vì ta sẽ mất thời gian mà chẳng thu được kết quả gì hết!
- Anh nhắc để em nhớ là nói gì thì nói, chính NHỜ CÓ ANH mà chúng ta mới lật tẩy được chân tướng của Blythe đấy nhé!
- Nhưng cũng chính TẠI ANH mà em vừa buộc phải bắn hạ cô ta! Cô lên giọng trách móc anh.
Ra là thế đấy. Cảm giác tội lỗi khiến Madeline day dứt vừa trỗi dậy mãnh liệt. Jonathan chọn cách cố gắng khuyên giải cô.
- Em từng nói thế nào ấy nhỉ? Thế giới bớt đi một kẻ xấu xa thôi mà... Nghe anh nói này, dù có xảy ra chuyện gì thì Blythe cũng không đời nào cho chúng ta biết chỗ giam Alice.
- Nếu chuyện đõ có thể giúp lương tâm anh đỡ cắn rứt hơn...
- Điều sẽ khiến lương tâm anh đỡ cắn rứt hơn là em giúp anh tìm ra Alice!
Cô đang chỉ tay vào anh sắp sửa vặc lại anh một lần nữa thì bỗng nhận ra rằng anh không hề nhầm.
- Khỉ thật! Chúng ta cãi nhau chẳng khác nào một cặp vợ chồng già! Cô bực tức.
Cô lại gần máy tính.
“Vui lòng điền tên đăng nhập"
- Được rồi, Sherlock, anh có ý tưởng nào không?
- Chúng ta có thể thử một tài khoản Hotmail hoặc Gmail, Jonathan đề xuất. Hoặc giả... tại sao không phải là tài khoản thư điện tử của trường nghệ thuật nơi cô bé theo học nhỉ?
Cho rằng ý tưởng đó khá thú vị, Madeline mở một cửa số mới để truy cập website của trường Juilliard School. Có vẻ như từ giáo viên đến học sinh trong trường đều có một tài khoản thư điện tử dưới dạng cơ bản: tên.họ.@juilliard.edu. Vậy nên Madeline cẩn thận gõ vào ô đăng nhập dòng chữ: alice.kowalski@ juilliard.edu
“Vui lòng đăng nhập mật khẩu"
- Đến đây thì anh bó tay rồi, Jonathan thú nhận.
- Khoan đã! Không biết liệu cô bé có tiếp tục dùng mật khẩu cũ không nhỉ?
- Mật khẩu cô bé đã dùng từ khi mười bốn tuổi ư?
- Mọi người vẫn thường làm vậy đúng không? Nói gì thì nói, em cũng dùng mãi một mật khẩu từ cả chục năm nay rồi.
- Mật khẩu là gì vậy?
- Mind your business[1]!
[1]. Tiếng Anh trong nguyên bản: Lo chuyện của anh đi! (Chú thích của tác giả)
- Thôi nào, nói cho anh biết đi!
- Không có chuyện đó đâu!
- Đi mà!
- “violette1978", cô thở dài. Giờ thì em chỉ việc đổi mật khẩu đó đi là xong.
- 1978 là năm sinh của em sao?
- Vâng. Sao anh lại hỏi vậy, anh nghĩ em bao nhiêu tuổi? Nhiều hơn hay ít hơn thế?
Anh đáp lại câu hỏi của cô bằng một nụ cười, mừng khi thấy họ lại trở nên thân thiết.
- Mật khẩu của Alice dùng khi đó là gì?
- Heathcliff, nhân vật chính trong Đồi gió hú.
Jonathan gõ mật khẩu trên bàn phím.
- Cùng chắp tay câu nguyện nào, anh nói rồi ấn lên nút chấp nhận.
Máy tính chạy mất vài giây, họ im lặng nhìn nhau, vừa lo âu vừa ngờ vực. Việc này không thể đơn giản đến thế được. Từ khi bắt đầu tới giờ, vận may vẫn luôn tuột khỏi tay họ. Chẳng vận may nào mỉm cười với họ hết. Chướng ngại vật cứ nhân lên gấp bội, mỗi lần lại khó vượt qua hơn, kéo theo đó là những hậu quả mỗi lúc một thêm tệ hại. Lần này không thể may mắn như vậy được...
Ấy vậy mà, họ lại gặp may...
Một tấm bản đồ Manhattan hiển thị trên màn hình máy tính và trên đó là một chấm màu xanh lơ bao quanh
bởi một quầng sáng đang nhấp nháy: Điện thoai của Alice không chỉ xuất hiện tại New York, mà nó còn ở cách nơi họ ngồi chưa đầy ba cây số.
Họ đứng bật dậy rồi hét toáng lên khiến những khách hàng hiếm hoi đang ngồi trong quán đồng loạt ngẩng đầu nhìn lên. Vỏn vẹn hai phút là đủ để hy vọng quay trở lại.
Jonathan cúi cuống mặt bàn chân quỳ để định vị điểm sáng kia một cách chính xác: Một tòa nhà đồ sộ nằm ở góc Đại lộ 5 giao với Phố 23.
- Anh biết đó là tòa nhà nào không? Madeline hỏi, gần như đứt hơi vì phấn khích.
- “Chợ" Italy đối diện Flatiron[2].
[2]. Một trong những tòa cao ốc chọc trời nổi tiếng và lâu đời nhất Manhattan có hình tam giác giống như “bàn là".
Họ chuyển dữ liệu ra điện thoại của cả hai rồi rời quán bước ra khu Bowery. Tuyết rơi dày đặc đến nỗi họ không nghĩ đến chuyện sử dụng ô tô.
- Chúng ta cuốc bộ tới đó nhé? Madeline đề xuất.
- Không, với thời tiết thế này chúng ta sẽ mất nửa giờ mới tới được đó! Tốt hơn hết là thử gọi một chiếc taxi.
Nhưng vì trời đang có bão nên nhiều chiếc taxi màu vàng đã ở lại trong bãi đậu, họ phải chiến đấu hơn năm phút mới vẫy được một chiếc taxi trên đường Broadway.
Ngồi vào xe rồi, họ kiểm tra vị trí điện thoại của Alicetrên màn hình điện thoại của mỗi người. Chấm xanh đó có vẻ như không nhúc nhích.
- Anh hy vọng chiếc điện thoại di động đó không bị bỏ lại, Jonathan lo lắng.
- Khu chợ anh vừa nói với em là chợ gì thế?
- Nó tên là Eataly: Thánh địa ẩm thực Italy tại Manhattan. Một dạng siêu thị hạng sang rộng mênh mông.
Họ đến trước siêu thị. Tài xế taxi nhận lời chờ họ với điều kiện thời gian mua sắm của họ không quá mười phút, đổi lại là khoản bồi dưỡng 20 đô la.
Khu chợ có mái che chỉ vừa mở cửa nhưng đúng vào ngày lễ chính nên bên trong đã đông nghịt người, khác hẳn bên ngoài đường phố.
- Đi theo em!
Mắt dán vào màn hình điện thoại, họ dạo qua một phần của mặt bằng hàng nghìn mét vuông hoàn toàn những nhà hàng, cửa hiệu và những giá bày bán các sản phẩm tinh chế.
Cứ sau ba mươi giây, điện thoại của Alice lại phát tín hiệu một lần để việc định vị khớp với thời gian thực. Phần mềm GPS mạnh mẽ của điện thoại cho phép định vị nó với độ chính xác bán kính mười mét.
- Đằng kia!
Họ chen lấn xô đẩy rồi luồn lách qua những kim tự tháp xếp bằng bánh mì bột men, những hộp pasta và risotto, những tảng pho mát Parmesan, giăm bông Parma treo lủng lẳng trên trần, nhà hàng chuyên phục vụ đồ chay, tiệm pizza...
- Phía này!
Lúc này họ đang ở trên một lối đi tập trung các quầy hàng cho phép nếm kem và cà phê.
Họ căng mắt qua sát chăm chú hàng chục người đang bước hối hả trên lối đi. Có quá nhiều chuyển động, đám đông chen chúc, tiếng động ồn ào.
- Chuyện này sẽ không dễ dàng chút nào, Madeline thở dài. Anh không có ý tưởng thiên tài nào khác sao?
Jonathan nhìn xuống màn hình điện thoại.
- Trang web cho phép hiển thị một tin nhắn trên màn hình điện thoại đó hoặc làm nó đổ chuông không ngừng trong hai phút, kể cả khi máy đã chuyển sang chế độ im lặng.
- Thử xem!
Anh kích hoạt chức năng đó và cả hai căng tai lắng nghe.
Nhưng giữa đám đông lúc nhúc và ồn ã, không thể nghe ra bất kỳ tiếng chuông nào, ngay cả trong bán kính vài mét.
- Anh chuẩn bị làm lại nhé! Madeline dặn Jonathan rồi rút súng ra.
- Có phải em đang định...?
Không chút ngần ngại, cô bắn một phát chỉ thiên.
- Làm luôn đi!
Tiếng súng nổ vang khiến tất cả mọi người đang có mặt đều rung động. Trước khi nhường chỗ cho những tiếng la hét, có nửa giây sững sờ gần như im lặng hoàn toàn. Nửa giây đó đủ để người ta nghe thấy tiếng bíp kéo dài của một hồi chuông điện thoại.
- Là cô ta! Madeline chĩa mũi súng vào một nữ nhân viên bán hàng của quầy espresso.
Đó là một cô gái xinh xắn, tuổi chừng mười tám đôi mươi. Một cô gái lai với mái tóc dài màu đen duỗi thẳng. Chiếc điện thoại di động nhô ra khỏi túi trước tạp dề của cô. Madeline chạy vội về phía đó rồi lôi cô ta ra khỏi quầy.
- Đi theo chúng rôi! Cô ra lệnh.
Nửa áp giải nửa dìu cô gái đang nước mắt lưng tròng, Madeline và Jonathan đã kịp rời khỏi hiện trường trước khi có sự can thiệp của lực lượng an ninh.
Tạ ơn Chúa, xe taxi vẫn đợi họ.
- Này, cái thứ đó là sao? Tài xế rên rỉ khi nhìn thấy khẩu Colt.
- Chạy xe đi, nếu không viên đạn tiếp theo sẽ dành cho anh đấy! Madeline thét.
Rồi quay sang cô gái vẫn đang rấm rứt khóc.
- Cô tên gì?
- Tôi tên Maya.
- Cô có chiếc điện thoại này bao lâu rồi?
- Từ... từ sáng hôm qua, lời đáp của cô ta hòa lần với tiếng thổn thức.
- Thôi đừng có khóc nữa đi! Ai đưa nó cho cô?
- Đó là quà của Anthony, bạn trai tôi tặng.
- Một món quà ư?
- Một thứ anh ấy xoáy được khi làm việc, cô ta giải thích thêm. Anh ấy dặn tôi đừng tắt máy, vì anh ấy không có mật khẩu để khởi động lại máy.
- Cậu ta làm nghề gì?
- Anthony làm tại phòng vật chứng của đồn cảnh sát Brooklyn nằm trên phố Columbia.
Một phòng vật chứng... Đó có thể là một nơi giam giữ lắm. Hướng điều tra này trở nên thú vị rồi đây.
- Hôm nay cậu ta có đi làm không?
- Không, anh ấy đang ở nhà bố mẹ tại khu Stuyvesant.
Madeline quay sang Jonathan, chuyên gia về địa hình thành phố.
- Chỗ đó không xa đây lắm: Thẳng hướng Đông, giữa phố 14 và Phố 23.
Cô gõ hai nhịp vào tấm kính chắn giữa họ với buồng lái.
- Anh nghe rõ rồi chứ? Fangio[3]?
[3]. Juan Manuel Fangio (1911-1995): Tay đua công thức một kiệt xuất người Achentina từng 5 lần đoạt chức vô địch thế giới.
Được xây dựng vào thời điểm Thế chiến II vừa kết thúc, khu Stuyvesant là một cụm khoảng một trăm tòa nhà nhỏ xây bằng gạch đỏ. Nhờ mức giá cho thuê luôn được kiểm soát, nhiều thế hệ những người thuộc tầng lớp trung lưu – cảnh sát, lính cứu hỏa, giáo viên, y tá – có thể tiếp tục sinh sống giữa Manhattan bất chấp bối cảnh giá cả bất động sản tăng chóng mặt.
Chiếc taxi đi theo chỉ dẫn của Maya, luồn lách giữa những khối nhà.
- Toàn nhà này ạ. Tầng chín. Từ thang máy ra là cửa thứ hai bên phải.
- Cô đi lên cùng chúng tôi. Còn anh, biến đi cho khuất mắt! Cô ra lệnh cho tài xế taxi, anh chàng vội lái đi ngay không buồn hỏi han gì thêm.
Cửa ra vào căn hộ dành cho người có thu nhập thấp chịu thua trước cú đá của Madeline. Cô không chỉ tìm lại những phản xạ xưa cũ ngày còn làm cảnh sát mà còn tìm thấy cả sự quyết tâm gần như bốc đồng. Cô chuyển từ suy nghĩ sang hành động, chóng vánh đến nỗi Jonathan đâm lo, ngay cả khi anh biết rằng đó là điều kiện tiên quyết để tìm ra Alice.
Căn hộ trống huếch trống hoác ngoại trừ anh chàng Anthony đang ngủ nướng. Trước khi kịp định thần, cậu ta đã thấy mình trần như nhộng với khẩu súng của Madeline đang chĩa xuống hạ bộ.
Gã trai cao gầy với phần bụng dưới chia múi và nhữn hình xăm kiểu ca sĩ nhạc rap. Phản xạ đầu tiên của cậu ta là che phần thân dưới, nhưng Madeline đã bắt cậu ta giơ tay lên trời.
- Nếu không muốn tôi bắn tung cái thứ này, cậu phải trả lời các câu hỏi của tôi, hiểu chứ?
- Hiểu... hiểu ạ.
Jonathan khua khua máy điện thoại của Alice trước mũi gã trai.
- Tôi tìm thấy nó đấy chứ!
- Tìm thấy ở đâu?
- Trong một chiếc xe mà tôi đã dùng xe moóc kéo về tối ngày hôm kia.
- Chiếc xe đó hiệu gì?
- Một chiếc Dodge to đùng mới cứng, Anthony giải thích. Chiếc điện thoại nằm bên trong xe, dưới gầm ghế sau.
- Thế còn chiếc Dodge, cậu kéo từ đâu về?
- Đảo Coney.
- Nói rõ hơn xem nào! Jonathan xen ngang. Nói rõ cho chúng tôi biết tên phố, tên đường đi.
- Tôi không biết nữa! Gần bãi biển. Ngay cạnh đoàn tàu ma cũ kỹ. Không xa hàng bán bánh mì xúc xích lắm. Tôi còn nhớ khu đất đối diện có lũ chó lúc nào cũng sủa inh tai...
Jonathan tra bản đồ trên điện thoại di động.
- Đây hả? Anh hỏi và chỉ một chấm trên bản đồ.
- Gần biển hơn chút nữa. Đây, mé phải này...
Madeline lưu lại dữ liệu.
- Ta đi thôi! Cô nói rồi rời khỏi căn hộ.
Tác giả :
Guillaume Musso