Cô Gái Có Hình Xăm Rồng

Chương 20

Thứ Ba, 1 tháng Bảy

Thứ Tư, 2 tháng Bảy

Sáng hôm sau quay về Hedestad, việc đầu tiên Blomkvist làm là đến nhà Frode hỏi thăm tình hình Vanger. Anh mừng hay tin ông già đã khá lên chút ít trong tuần qua. Ông vẫn còn yếu, mong manh nhưng nay đã có thể ngồi được ở trên giường. Sức khỏe của ông không còn bị coi là đáng ngại nữa.

- Nhờ Chúa, - anh nói, - tôi nhận ra tôi mến ông già thật.

Frode nói:

- Tôi biết thế. Henrik cũng mến anh. Norrland sao?

- Có kết quả những không thỏa mãn. Khoan chút rồi tôi sẽ nói rõ sau. Ngay bây giờ tôi có một câu hỏi.

- Hỏi đi.

- Nếu Henrik chết thì thật sự cái gì sẽ xảy ra với lợi ích của ông ở Millennium?

- Chả có gì cả. Martin sẽ thế chân ở ban lãnh đạo báo.

- Giả định ngộ như tôi không ngừng cuộc điều tra vụ Harriet mất tích thì liệu có cơ là Martin sẽ gây chuyện gì cho Millennium không?

Frode nhìn anh soi mói.

- Có gì đấy?

- Không, thật mà. – Mikael kể với ông câu chuyện giữa anh và Martin đêm Giữa hè. – Khi tôi ở Nosjo, Erika bảo tôi là Martin có gọi cho cô ấy bảo rằng rất cần tôi trở về tòa soạn.

- Tôi hiểu. Tôi đoán là Cecilia ở đằng sau anh ta. Nhưng tôi không nghĩ là Martin sẽ gây áp lực lên anh giống như lên với chính anh ta. Anh ta rất có lương tri. Và nhớ cho là tôi cũng ở trong ban lãnh đạo của một công ty con mà chúng tôi đã lập ra khi mua vào Millennium đấy nhá.

- Nhưng nếu xảy ra chuyện cứ lẵng nhẵng gây khó khăn, thì ông sẽ làm sao lúc ấy?

- Phải trọng sự tồn tại của các cái nghịch. Tôi làm việc cho Henrik. Henrik và tôi đã thành bạn bè trong bốn mươi lăm năm và chúng tôi nhất trí với nhau hoàn toàn trong các vấn đề như thế. Nếu Henrik chết thì có một điểm thực tế là tôi – chứ không phải Martin – sẽ kế thừa cổ phẩn của Henrik ở trong công ty nhỏ. Chúng ta đã có một hợp đồng trong đó chúng tôi cam kết ủng hộ Millennium trong ba năm. Nếu Martin bắt đầu làm cái gì sai – tôi không tin anh ta sẽ làm thế - thì về lý thuyết anh ta có thể nhấn phanh hãm vào một số lượng nhỏ những khác hàng mới đặt thuê quảng cáo.

- Và là máu huyết sinh tồn của Millennium.

- Vâng, nhưng hãy nhìn chuyện đó ở phía này – lo với các trò tầm phào ấy chỉ là phí thì giờ. Hiện Martin đang phấn đấu cho sự sống của ngành công nghiệp mà anh ta đeo đuổi, mỗi ngày làm tới mười bốn giờ đồng hồ. Anh ta không có thời gian cho các thứ khác đâu.

- Tôi hỏi có được không – tôi biết đây không phải là việc của tôi – tình hình chung của tập đoàn như thế nào nhỉ?

Frode nom vẻ nghiêm trọng.

- Chúng tôi có những vấn đề.

- Vâng, ngay một phóng viên tài chính thường thường như tôi mà còn có thể thấy cái đó. Tôi ý nói là nghiêm trọng đến đâu?

- Không được ghi nhớ.

- Giữa chúng ta mà.

- Mấy tuần qua chúng tôi mất hai đơn đặt hàng lớn trong công nghiệp điện tử và sắp bị hất ra khỏi thị trường Nga. Tháng Chín chúng tôi sẽ phải thải 1.600 công nhân viên ở Orebro và Trollhattan. Không phải là một phần thưởng lớn cho những người đã làm việc cho công ty trong nhiều năm. Mỗi lần chúng ta đóng cửa một nhà máy, lòng tin vào công ty lại bị mất đi nhiều hơn.

- Martin đang bị sức ép.

- Anh ta đang như một con bò kéo một cỗ xe đi trên vỏ trứng.

Blomkvist về đến nhà thì gọi Berger. Cô không ở tòa soạn, Malm bảo anh như vậy.

- Chuyện là khi tôi ở Norsjo, Erika có gọi tôi, Martin tìm cô ấy và như tôi nghe nói, thì anh ấy đã động viên Erika đề nghị tôi bắt đầu phụ trách lại công việc biên tập.

- Tôi nghĩ anh nên thế. – Malm nói.

- Tôi biết thế nhưng vấn đề là tôi đã có một hợp đồng với Henrik Vanger mà tôi không thể vi phạm còn Martin thì với tư cách một người ở đây muốn tôi ngừng việc đang làm và rời thị trấn. Vậy đề nghị của anh ấy coi như là có ý định bỏ tôi.

- Tôi biết.

- Chào Erika hộ. Bảo cô ấy là tôi sẽ trở về Stockholm khi tôi xong việc ở trên này.

- Tôi hiểu. Anh say việc như điên, ai chả thấy nhưng tôi sẽ báo chị ấy ý kiến của anh.

- Christer, một cái gì đó đang diễn ra ở trên này, tôi không có ý lùi.

Blomkvist gõ cửa nhà Martin Vanger. Eva mở cửa và chào anh niềm nở.

- Chào, có phải nhà Martin không?

Như để trả lời anh, Martin đi ra với một cái cặp hồ sơ trong tay. Anh hôn má Eva rồi chào Blomkvist.

- Tôi đi làm. Anh muốn nói chuyện với tôi ư?

- Ta có thể nói sau nếu anh gấp.

- Cứ nói đi.

- Tôi chưa làm xong công việc Henrik giao thì tôi chưa trở về tòa soạn. Bây giờ tôi báo với anh việc đó để anh đừng tính đến tôi ở trong ban lãnh đạo trước năm mới.

Martin đu đưa người trước sau một lúc.

- Tôi hiểu. Anh nghĩ là tôi muốn thải anh. – Anh ngừng lại – Mikael, sau đây chúng tay sẽ phải nói chuyện này. Tôi thật sự không có thì giờ hiến mình cho cái thú riêng của tôi ở Millennium, và tôi mong tôi sẽ không bao giờ đồng ý với đề nghị của Henrik. Nhưng tin tôi đi – tôi đang làm hết sức cho Millennium sống sót.

- Tôi không bao giờ nghi ngờ điều ấy.

- Nếu tôi hẹn được một lúc nào đó trong tuần sau chúng ta có thể bàn đến chuyện tài chính và tôi có thể cho anh biết ý kiến của tôi về vấn đề này. Nhưng thái độ cơ bản của tôi là Millennium thật sự không thể cho phép một trong những người chủ chốt của nó lại ngồi chờ đợi ở tít tận trên đảo Hedeby. Tôi thích tờ tạp chí và tôi nghĩ chúng ta có thể cùng nhau làm cho nó mạnh hơn lên nhưng anh phải là then chốt. Chúng ta đã đi đến một xung đột về lòng trung thành ở đây. Hoặc là tôi đi ngược lại mong muốn của Henrik hoặc là việc tôi làm ở ban lãnh đạo Millennium.

Blomkvist mặc bộ quần áo thể thao vào và đi ra ngoài để chạy đến Pháo đài rồi xuống căn nhà gỗ nhỏ của Gottfield trước khi quay về nhà dọc theo bờ nước, chậm bước hơn. Frode đang ngồi ở cái bàn trong vườn. Ông kiên nhẫn chờ Mikael uống hết chai nước và lau mồ hôi trên mặt.

- Nóng thế này nom không được khỏe lắm nhỉ.

- Ồ, không sao. – Blomkvist nói.

- Tôi lầm. Cecilia không phải là người đằng sau Martin. Là Isabella. Bà ta đang bận rộn huy động dòng họ Vanger phang anh và có thể cho anh lên cả giàn hỏa thiêu nữa. Bà ấy được Birger ủng hộ.

- Isabella?

- Bà ta là một người tai quái và nói chung không thích người khác. Ngay bây giờ khi bà ấy ghét anh đặc biệt. Bà ấy đang loan truyền anh là một tay xúc xiểm đang lừa để cho Henrik mướn anh và anh đã bắt ông ấy lao lực quá sức nên mới bị đau tim.

- Tôi hy vọng không ai tin điều đó.

- Vẫn luôn có một ai đó thích tin các lời đồn độc địa.

- Tôi đang cố tìm cái gì xảy ra với con gái bà ấy – thế mà bà ấy lại căm ghét tôi. Nếu Harriet là con gái tôi, tôi sẽ có phản ứng khác đấy.

2 giờ chiều, di động của anh kêu.

- Chào, tôi là Conny Torsson làm việc ở Hedestad Courier. Ông có thì giờ trả lời một vài câu hỏi không? Chúng tôi nghe hóng được là ông đang ở Hedeby.

- Ông Horsson, cái máy của ông bắt tin hơi chậm một tí. Tôi đã ở đây từ mồng một đầu năm.

- Tôi không biết điều ấy. Ông đang làm gì ở Hedestad?

- Viết. Và nghỉ ngày Sabbath theo người Do thái.

- Ông đang làm về việc gì?

- Khi đăng báo ông sẽ biết.

- Ông vừa mới được tha tù…?

- Vâng?

- Ông nghĩ như thế nào về những nhà báo man trá tài liệu?

- Những nhà báo man trá tài liệu là những đứa ngu.

- Vậy theo quan niệm của ông thì ông là đứa ngu à?

- Nhưng sao tôi lại nghĩ thế? Tôi không man trá tài liệu.

- Nhưng ông bị tù vì vu cáo đó.

- Thế ư?

Torsson ngập ngừng đủ lâu để Blomkvist phải cho anh ta một cú.

- Tôi không bị tù vì vu cáo, không vì man trá tài liệu.

- Nhưng ông đăng tài liệu ấy lên.

- Nếu ông gọi tôi để thảo luận về phán xét chống lại tôi thì tôi không có bình luận.

- Tôi thích đi phỏng vấn ông.

- Tôi không có gì để nói với ông về vấn đề này.

- Vậy ông không muốn thảo luận về phiên tòa ư?

- Đúng đấy. – Anh nói và tắt máy. Anh ngồi nghĩ hồi lâu rồi đến với máy tính.

Theo lời chỉ dẫn đã nhận được, Salander lái chiếc Kawasaki qua cầu đến đảo Hedeby. Cô dừng lại ở căn nhà nhỏ đầu tiên bên trái. Cô thật sự đã hết ngô nghê nhưng chừng nào người mướn cô còn đang trả tiền thì nếu có đi lên Bắc cực cô cũng chả mùi. Ngoài ra, cho chiếc Kawasaki phòng một chuyến dài trên đường số E4 thì là nhất quá rồi. Cô gạt chân chống rồi cởi cái dây buộc giữ cái túi đựng đồ lề du lịch của cô.

Blomkvist mở cửa vẫy cô. Anh đi ra quan sát chiếc xe của cô, ngạc nhiên ra mặt.

Anh huýt sáo.

- Cô đi xe máy!

Salander không nói năng. Nhưng cô có ý theo dõi anh khi anh sờ vào ghi đông và thử bộ phận tăng tốc. Cô không thích bất cứ ai mó máy vào đồ lề của mình. Rồi cô trông thấy anh với nụ cười hồn nhiên thật thà, cái mà cô coi là một nét cứu vãn. Phần lớn người thích xe máy thường là cười cỗ xe nhẹ cân của cô.

- Mười chín tuổi tôi đã có một cái xe máy. – Anh nói, quay đi. – Vào đi, để cho cô còn nghỉ ngơi chứ.

Anh đã mượn một cái giường cắm trại của nhà Nilsson. Salander làm một vòng quanh căn nhà nhỏ, nom vẻ ngờ vực nhưng xem ra cô đã thấy thoái mái khi không tìm thấy những dấu hiệu lộ liễu nào về một cạm bẫy gian tà. Anh chỉ cho cô buồng tắm ở đâu.

- Để phòng khi cô cần tắm hay rửa ráy cho mát mẻ.

- Tôi phải thay quần áo. Tôi không ra ngoài loăng quăng với bộ đồ toàn là da này được.

- Ok. Cô tắm còn tôi làm bữa tối nhỉ.

Anh áp chảo sườn cừu với sốt vang đỏ rồi kê bàn ra ngoài nắng chiều trong khi Salander tắm. Cô chân đất đi ra, mặc cái áo yếm đen và váy ngắn bằng vải demin đã cũ. Thức ăn ngửi thơm ngon và cô lấy luôn hai suất lớn. Mê hoặc, Blomkvist liếc trộm một cái vào hình xăm trên lưng cô.

- Năm cộng ba. – Salander nói – Năm vụ trong danh sách của Harriet và ba vụ mà tôi nghĩ là nên có trong danh sách này.

- Nói tôi xem.

- Tôi mới làm cái này mười một hôm nay và tôi không có may mắn để được đào tung lên tất cả các báo cáo. Trong một số vụ, các báo cáo của cảnh sát đã được để vào sở văn khố của quốc gia còn ngoài ra thì vẫn được cất giữ ở cảnh sát quận. Tôi đã đi ba ngày đến cảnh sát của nhiều quận nhưng tôi không có thì giờ xem hết của họ. Năm vụ này đã được nhận diện.

Salander để một chồng giấy bề thế, khoảng 500 trang, lên bàn bếp. Cô nhanh chóng xếp tài liệu ra làm năm đống.

– Ta sắp xếp chúng theo thứ tự thời gian – Cô đưa danh sách cho Blomkvist.

1949 – REBECKA JACOBSSON, Hedestad (30112)

1954 – MARI HOLMBERG, Kalmar (32018)

1957 – RAKEL LUNDE, Lanskrona (32027)

1960 – (MAGDA) LOVISA SJOBERG, Karlstad (32016)

1960 – LIV GUSTAVSSON, Stockholm (32016)

1962 – LEA PERSSON, Liddevalla (31208)

1964 – SARA WITT, Ronneby (32109)

1966 – LENA ANDERSSON, Uppsala (30112)

Vụ đầu tiên trong loạt án này là Rebecka Jacobsson, 1949, chi tiết anh đã biết rồi. Vụ tiếp theo tôi tìm thấy là Mari Holmberg, một gái điếm ba mươi hai tuổi ở Kalmar bị giết ở nhà cô ta tháng Mười 1954. Không biết rõ chính xác bị giết vào lúc nào vì không tìm thấy được ngay thi thể, chắc là chín mười ngày sau.

- Sao cô lại gắn nó vào danh sách Harriet?

- Cô ấy bị trói và bị lạm dụng tệ hại nhưng chết là do bị thắt cổ bằng một cái khăn vệ sinh.

Blomkvist ngồi im một lúc rồi nhìn lên khổ thơ Leviticus 20:18.

“Nếu một người đàn ông nằm với một người đàn bà đang đau ốm và phơi trần truồng người đàn bà ra, làm lộ cái giếng của người đàn bà và người đàn bà cũng để lộ ra máu tháng của mình thì cả hai sẽ bị đồng loại ruồng bỏ".

Salander gật đầu.

- Harriet cũng gắn thế này. OK. Vụ sau?

- Tháng Năm 1957, Rakel Lunde, bốn mươi lăm tuổi. Chị này làm việc vệ sinh dọn dẹp nhà cửa và là một người vui vẻ có đôi chút kỳ cục ở trong làng. Chị ta xem bói và có thú riêng là xem bói bài, bói tay v.v… Chị sống ở ngoài Landskrona trong một ngôi nhà cách xa tất cả mọi nơi và bị giết một lúc nào đó vào sáng sớm. Người ta tìm thấy chị ấy bị trói trần truồng vào cái khung giá phơi quần áo giặt ở trong vườn sau nhà, mồm bị dán băng kín. Chết vì bị ném đá liên tục. Người đầy vết bầm tím và gãy xương.

- Lạy Chúa. Lisbeth, thật ghê gớm!

- Chuyện còn tồi tệ nữa. Các chữ tắt R.L. là đúng – anh tìm thấy thơ dẫn ở Kinh thánh chưa?

- Quá ư là rõ. “Một người đàn ông hay một người đàn bà làm đĩ hay phù thủy thì sẽ bị xử chết, chúng sẽ bị ném đá, máu sẽ phải nhuộm người chúng".

- Rồi đến Sjoberg ở Ranmo ngoài Karlstad. Chị này được Harriet gọi là Magda trong danh sách. Tên họ đầy đủ là Magda Lovisa, nhưng người ta gọi chị là Lovisa.

Blomkvist nghe trong khi Salander kể lại những chi tiết kỳ lạ của vụ án mạng ở Karlstad. Khi cô châm thuốc lá, anh chỉ tay vào bao thuốc và cô đẩy nó lại đằng anh.

- Vậy là tên giết người cũng tấn công vào giống vật nữa?

- Trong thơ Leviticus nói nếu một người phụ nữ có chuyện tình dục với một con vật thì cả hai đều phải bị giết.

- Chuyện người phụ nữ này có chuyện tình dục với một con bò xem vẻ là không có.

- Có thể đọc rồi hiểu máy móc câu thơ. Người phụ nữ “lại gần" con vật là cũng đã đủ bị rồi, mà vợ một người chủ trại thì tránh sao được ngày nào mà chả “lại gần".

- Hiểu.

- Vụ tiếp theo ở danh sách Harriet là Sara. Tôi đã dò ra được là Sara Witt, ba mươi bảy tuổi, sống ở Ronneby. Chị này bị giết hồi tháng Giêng năm 1960, người ta tìm thấy bị trói vào giường, bị hiếp thô bạo nhưng chết là do ngạt thở, bị bóp cổ. Kẻ giết người đã châm lửa, chắc có ý thiêu cháy cho ngôi nhà sụp xuống nhưng lửa đã tự tắt đi phần nào, còn lại thì sau đó rất nhanh lính cứu hỏa đã đến dập tắt được.

- Thế mối liên quan?

- Hãy nghe cái này. Sara Witt là con gái một mục sư vừa là vợ một mục sư. Chồng chị ta cuối tuần ấy đi vắng.

- “Và nếu con gái của bất cứ thầy tế nào, tự làm ô uế nó bằng hành nghề đĩ thì cũng làm ô uế cả chính bố nó; đứa con gái sẽ bị lửa thiêu". OK. Cái này phù hợp với bản danh sách. Cô bảo cô tìm ra thêm mấy vụ.

- Tôi đã tìm ra ba người phụ nữ khác cũng bị giết trong những trường hợp kỳ lạ tương tự và họ có thể là đã ở trong danh sách của Harriet. Người đầu tiên là một thiếu phụ tên là Liv Gustavsson. Cô này hai mươi tuổi và sống ở Farsta. Là một cô gái thích ngựa – cô chơi đua ngựa và là một tài năng khá hứa hẹn. Cô cũng có một cửa hiệu nhỏ bán các thú cưng cùng với bà chị. Cô được tìm thấy ở trong cửa hiệu. Cô ở lại một mình để vào sổ sách. Cô đã bị hiếp và bị bóp cổ chết.

- Vụ này nghe không giống hẳn như danh sách của Harriet đúng không?

- Giống chứ, bởi vì có một điều này. Tên giết người kết thúc trò man rợ của hắn bằng đem cắm một con vẹt đuôi dài vào âm hộ của cô gái rồi thả xổng hết các con vật ở cửa hiệu ra. Mèo, rùa, chuột bạch, thỏ, chim. Kể cả cá trong bình thủy tinh. Để sáng sau bà chị gặp phải một cảnh kinh hoàng như thế nào.

Blomkvist lưu ý:

- Cô ấy bị giết tháng Tám 1960, bốn tháng sau vụ giết Magda Lovisa, vợ người chủ trại ở Karlstad. Trong hai trường hợp này, hai người phụ nữ đều làm việc với giống vật và cả trong hai trường hợp đều có con vật bị hiến tế. Con bò ở Karlstad có thể đã sống sót – nhưng tôi khó hình dung ra chuyện có thể giết một con bò bằng một con dao. Một con vẹt đuôi dài thì ý tứ có lộ ra trắng trợn hơn. Ngoài ra đã có thêm vật hiến tế nữa.

- Vật nào?

Salander bằng kể chuyện “vụ án mạng bồ câu" của Lea Persson. Blomkvist ngồi lặng im quá lâu đến nỗi Salander phát sốt ruột.

- Tôi chịu cái ý này của cô, - cuối cùng anh nói. – Còn lại một vụ.

- Một vụ mà tôi phát hiện nhờ may. Tôi không biết đã để tuột lỡ mất bao nhiêu rồi.

- Nói tôi nghe về vụ này đi.

- Tháng Hai 1966 ở Uppsala. Nạn nhân là một vận động viên thể dục mười bảy tuổi tên là Lena Andersson. Cô mất tích sau buổi liên hoan lớp học rồi ba ngày sau thì tìm thấy cô ở trong một cái rạch trên bình nguyên Uppsala, xa hẳn ra ngoài thị trấn. Cô đã bị giết đâu đó rồi thi thể bị dìm xuống ở đây. Vụ án mạng này đã khuấy truyền thông đại chúng lên nhưng các trường hợp xác thực xung quanh cái chết của cô không bao giờ được báo cáo. Cô gái đã bị hành hạ kỳ dị. Tôi có đọc báo cáo của nhà bệnh lý học. Cô gái đã bị tra tấn bằng lửa. Hai tay và ngực cô bị đốt tàn nhẫn và khắp người cô đã bị đốt ở nhiều nơi. Người ta tìm thấy vết paraphin trên người cô, tức là cô đã bị đốt bằng nến, nhưng hai tay cô bị cháy thành than thì tức là chúng đã bị giữ lâu ở trên một ngọn lửa lớn hơn. Cuối cùng tên giết người cửa đứt đầu cô ta, ném vào cạnh cái xác.

Blomkvist trắng nhợt mặt lại.

- Chúa ơi. – Anh nói.

- Tôi không tìm ra câu thơ nào trong Kinh thánh hợp với cái đó nhưng có nhiều đoạn bàn đến cúng tế bằng lửa và cúng tế tội lỗi, ở một số nơi người ta còn yêu cầu hiến tế bằng con vật – phần lớn trường hợp là một con bò đực – phải được cắt ra sao cho cái thủ phải rời khỏi thân. Chuyện lửa này lại làm cho tôi nhớ lại vụ án mạng đầu tiên, về Rebecka ở Hedestad đây.

Tối đến, khi muỗi đã bâu lại hàng đàn, họ dọn dẹp cái bàn ngoài vườn, chuyển vào bếp để nói chuyện nốt.

- Việc anh không tìm được trích dẫn chính xác ở Kinh thánh không hề gì. Không phải là chuyện trích dẫn, mà là đem nhái lố bịch những cái viết trong Kinh thánh thôi – đúng ra là nó lấy các trích dẫn đã bị rút ra khỏi bối cảnh văn bản rồi gắn vào vụ án.

- Tôi đồng ý. Nó cũng không logic nữa cơ. Chẳng hạn lấy câu trích cả hai đều bị cắt rời ra với đồng loại của chúng nếu một ai đó có chuyện tình dục với một cô gái đang thấy tháng. Nếu câu này được hiểu theo kiểu máy móc thì kẻ giết người cũng sẽ phải tự sát.

- Thế thì cái này dẫn đến đâu? – Blomkvist băn khoăn nói.

- Harriet của anh hoặc có một thú vui riêng kỳ lạ hoặc là đã biết rằng có một mối dây giữa các vụ án mạng.

- Giữa 1949 và 1966, có thể cả trước hay sau nữa.Với tôi, không thể nào tin được rằng ít nhất trong mười bảy năm có một hung thủ bạo dâm bệnh hoạn giết người hàng loạt đang tàn sát phụ nữ, thế mà chả có ai nhìn ra mối liên quan nào giữa chúng.

Salander đẩy ghế lùi lại, rót thêm cà phê trong bình trên lò ra. Cô châm một điếu thuốc. Mikael tự rủa thầm và cũng thấu trộm của cô một điếu.

- Không, không thể tin được chuyện ấy. – Cô giơ một ngón tay lên nói. – Trong thế kỷ XX ở Thụy Điển chúng ta có vài chục vụ phụ nữ bị giết mà không tìm ra thủ phạm. Ông Persson, giáo sư tội phạm học, có nói trên tivi một lần rằng các sát nhân hàng loạt theo dây chuyền là hiếm có ở Thụy Điển, nhưng chắc chúng ta cũng có một số đứa chưa bị tóm.

Cô giơ một ngón tay lên nữa.

- Các án mạng gây ra trong một thời gian rất dài và ở khắp đất nước. Năm 1960, hai vụ xảy ra gần nhau những hoàn cảnh lại hoàn toàn khác nhau – vợ một chủ trại ở Karltad và một cô gái hai mươi tuổi ở Stockholm.

Ba ngón tay dựng lên.

- Không có hình mẫu dễ dàng để cho nhận thấy được ngay. Những kẻ sát nhân tiến hành những chỗ khác nhau và không có chữ ký thực sự nhưng có một số điều đã được lặp lại. Những con vật này. Lửa này. Hiếp thô bạo này. Và như anh đã chỉ ra, việc nhái các thơ trích ở Kinh thánh. Nhưng hình như không một thám tử điều tra nào đã giải một vụ án nào theo các trích dẫn ở Kinh thánh.

Blomkvist đang quan sát cô gái. Với thân hình thanh mảnh, chiếc áo yếm đen, những hình xăm và những cái nhẫn xuyên trên mặt, Salander nom lạc chỗ, ít ra thì cũng lạc với một căn nhà khách bằng gỗ ở Hedeby. Trong bữa tối, khi anh tỏ ra chan hòa, thì cô lầm lỳ đến mức thô cứng. Nhưng khi vào việc thì cô, từ cái ngón tay trở đi, cứ như là một nhà chuyên nghiệp. Căn nhà của cô ở Stockholm nom ngỡ cứ như có một quả bom vừa nổ xong, nhưng về đầu óc thì cô cực kỳ giỏi tổ chức.

- Khó nhìn ra mối liên hệ giữa một cô điếm ở Uddevalla bị giết ở trong một khu công nghiệp và vợ một mục sư bị thắt cổ chết, nhà thì bị đốt ở Ronneby. Nếu anh không có cái chìa khóa nà Harriet cho thì cái này là chìa khóa đó.

- Điều này dẫn đến câu hỏi tiếp theo. – Blomkvist nói.

- Harriet dính líu vào tất cả các câu chuyện này như thế nào đây? Một cô gái mười bảy tuổi giữa chốn thâm nghiêm kín cổng cao tường như thế này.

- Chỉ có một câu trả lời, - Salander nói. – Chắc là phải có một liên hệ với gia đình Vanger.

Vào 11 giờ đêm ấy, họ duyệt hết xê ri án mạng và thảo luận các mối liên hệ cũng như các chi tiết dù nhỏ về chỗ giống nhau và khác nhau, bàn nhiều quá đến nỗi đầu Blomkvist quay cuồng. Anh dụi dụi mắt, rồi hỏi Salander có thích đi bộ một lúc không. Vẻ mặt cô cho thấy cô nghĩ kiểu này là một trò phí thì giờ nhưng cô đồng ý. Blomkvist khuyên cô nên mặc quần dài vì muỗi.

Họ đi qua bến tàu nhỏ rồi đi qua dưới gầm cầu và ra ngoài tới mũi đất nhà Martin Vanger. Blomkvist chỉ các ngôi nhà khác nhau và nói về những người sống ở trong đó. Anh hơi khó nói khi tới nhà Cecillia Vanger. Salander tò mò nhìn anh. Họ đi qua chiếc du thuyền máy của Martin và tới mũi đất, họ ngồi xuống một tảng đá và hút thuốc.

- Có thêm một mối liên hệ. – Blomkvist thình lình nói.

- Là gì?

- Tên của họ.

Salander nghĩ một lúc rồi lắc.

- Những tên ấy là ở trong Kinh thánh.

- Không đúng, - cô nói. – Liv với Lena thì ở chỗ nào trong Kinh thánh?

- Có trong ấy đấy. Trong những ngôn ngữ khác là Eva, Liv có nghĩa là sống. và tiếp tục nào – Lena là tắt của cái gì?

Salander ngán ngẩm nhăn mặt. Anh đã nhanh hơn cô. Cô không thích điều đó.

- Magdalena. – Cô nói.

- Cô điếm, người phụ nữ đầu tiên, mary trinh trắng… họ đều ở đây, trong cái nhóm này. Trò này kỳ quái đến mức đầu một nhà tâm lý học khéo cũng phải nháo nhào lên mất. Nhưng có một cái khác nữa liên quan đến những cái tên.

Salander kiên nhẫn chờ.

- Đây rõ ràng là những tên Do thái truyền thống. Gia đình Vanger có một phần khá lớn các lý luận gia về âm mưu và các phần tử Quốc xã cuồng tín bài Do thái. Tôi gặp Harald Vanger chỉ một lần, hắn đứng ở giữa đường chửi con gái hắn là con điếm. Lão chắc chắn có vấn đề với phụ nữ.

Trở lại căn nhà gỗ, họ ăn qua loa bữa nửa đêm và hâm nóng cà phê. Mikael nhìn vào tập giấy gần 500 trang mà điều tra viên cưng của Dragan Armansky đã làm cho anh.

- Đào tung cái này lên chỉ trong một thời gian ngắn như thế, cô thật là tuyệt vời.- Anh nói – Cảm ơn. Cảm ơn cả việc quá bộ lên đến tận đây để báo cáo về chuyện kia.

- Tiếp là chuyện gì bây giờ? – Salander muốn biết.

- Ngày mai tôi sẽ nói với Dirch Frode để thu xếp thanh toán tiền công cho cô.

- Tôi không có ý nói cái đó.

Blomkvist nhìn cô.

- Được, tôi nhận là việc tôi nhờ cô đã được làm xong.

- Tôi làm không phải vì cái đó.

Blomkvist ngả lưng vào tường bếp và bắt gặp cái nhìn của cô gái. Anh không thể đọc được gì trong mắt cô. Trong nửa năm nay anh một mình làm về vụ Harriet mất tích thì đây có một người nữa – một người điều tra có kinh nghiệm – nắm giữ mọi sự. Anh đã bồng bột có quyết định.

- Tôi biết. Chuyện này tôi cũng đã nghĩ đến lắm. Tôi sẽ nói chuyện với Frode. Chúng tôi sẽ mướn cô trong một hay hai tuần làm… trợ lý điều tra viên. Tôi không hiểu ông ấy có trả công như trả cho Armansky hay không nhưng chúng tôi có thể sẽ thu xếp một đồng lương cơ bản khả dĩ sống được cho cô.

Thình lình Salander mỉm cười. Cô không muốn bị gạt ra và cô có thể sẵn sàng làm không lương cho việc này.

- Tôi buồn ngủ. – Cô nói và lập tức đi vào phòng mình, đóng cửa lại.

Hai phút sau, cô lại mở cửa thò đầu ra.

- Tôi nghĩ anh sai. Không phải một tên sát nhân hàng loạt điên loạn đọc sai Kinh thánh. Chính là một dân bình thường hoặc một cha bố láo ghét phụ nữ nào đấy thôi.

21

Thứ Năm, 3 tháng Bảy

Thứ Năm, 10 tháng Bảy

Salander dậy trước Blomkvist, quãng 6 giờ. Cô đặt ít nước pha cà phê rồi đi tắm. 7 rưỡi, khi Blomkvist dậy, cô đang ngồi đọc tóm tắt vụ Harriet ở trên iBook của anh. Anh vào bếp, khăn tắm quấn quanh mình, day day mắt cho hết vẻ ngái ngủ.

- Có cà phê trên bếp lò đấy. – Cô nói.

Anh nhìn qua vai cô.

- Này, tư liệu này là mật mã được bảo vệ đấy. – Anh nói.

Cô quay lại nhìn anh.

- Chỉ mất có nửa phút tải từ Net xuống một chương trình là phá được bảo vệ mã khóa của Word thôi.

- Chúng ta cần nói chuyện về vấn đề cái gì là của cô, cái gì là của tôi. – Anh nói và đi tắm.

Khi anh trở lại, Salander đã tắt máy tính của anh và đặt nó về chỗ của nó ở trong phòng làm việc. Cô đã cho chạy chiếc PowerBook của cô. Blomkvist cầm chắc nội dung trong máy tính của anh đã bị chuyển sang máy tính của cô.

Salander là một kẻ nghiền thông tin với một cái vốn về luân lý và đạo đức của một đứa trẻ hư.

Anh vừa ngồi xuống ăn sáng thì có tiếng gõ ở cửa chính. Martin Vanger nom quá trịnh trọng khiến trong một thoáng Blomkvist đã ngỡ anh ta đến báo tin chú anh ta đã chết.

- Không, sức khỏe của Henrik vẫn như hôm qua. Tôi đến vì một lý do khác hẳn. Tôi có thể vào một lúc không?

Blomkvist để anh ta vào, giới thiệu với “người trợ lý nghiên cứu của tôi". Cô chỉ liếc một cái vào ông trùm công nghiệp và khẽ gật đầu rồi lại quay về chiếc máy tính. Martin theo thói quen chào mừng cô nhưng nom anh ta quá thoải mái đến nỗi có vẻ như anh ta không mấy để ý đến cô. Blomkvist rót cho Martin một tách cà phê và mời ngồi.

- Chuyện gì thế ạ?

- Anh không đặt mua Hedestad Courier ư?

- Không. Nhưng đôi khi tôi đọc nó ở quán Cà phê & bánh đầu cầu Sussane.

- Vậy anh không đọc báo sáng nay.

- Anh nói nghe như tôi cần phải đọc vậy.

Martin Vanger để tờ báo hôm nay xuống bàn trước mặt anh. Anh được dành cho hai cột báo ở trang nhất, tiếp theo ở trang tư. “Nhà báo vu khống bị tù nấp ở đây". Một bức ảnh chụp từ đồi nhà thờ bên kia cầu bằng ống kính télé cho thấy anh đi ở trong căn nhà gỗ ra.

Phóng viên, Torsson đã ghép các mẩu lại thành một ảnh thô bỉ. Anh ta nhắc lại vụ Wennerstrom và giải thích rằng Blomkvist đã bị mất uy tín mà phải rời khỏi Millennimum và vừa mới thụ án xong. Bài báo kết thúc với một dòng quen thuộc mà Blomkvist từ chối bình luận với Hedestad Courier. Tất cả cư dân tự trọng ở Hedestad đều được nhắc nhở rằng đồ rác rưởi từ Stockholm đang lẩn tránh ở khu vực này. Không tuyên bố nào ở trong bài báo có tính vu cáo nhưng được trình bày vẹo vọ để cho thấy Blomkvist không hay ho gì; cách trình bày và kiểu in là loại các tờ báo như thế này thường dùng khi nói về các phần tử khủng bố chính trị. Millennium được miêu tả là một tạp chí kém được tin cậy “thiên về khuấy đảo" và quyển sách của Blomkvist về báo chí tài chính thì được trình bày như là một tập hợp các “phát ngôn gây tranh cãi" về các nhà báo khác vốn được kính trọng.

- Mikael…, tôi không biết nói thế nào để bày tỏ cảm tưởng của tôi khi đọc bài báo này. Thật là bỉ ổi.

- Đây là một việc đã được bố trí. – Blomkvist nói với vẻ bình tĩnh.

- Tôi hy vọng anh hiểu là tôi không có dính dáng một chút nào đến trò này. Khi uống cà phê sáng nay, đọc nó tôi đã bị choáng.

- Vậy ai làm?

- Tôi có gọi vài nơi. Tay Torsson này đến học việc vào dịp hè. Cậu ta viết theo lệnh của Birger.

- Tôi nghĩ Birger không nói ở các tòa báo. Dẫu sao, ông ta cũng là một ủy viên hội đồng và một bộ mặt chính trị.

- Ông ta không có ảnh hưởng về mặt kỹ thuật. Nhưng Tổng biên tập của Courier là Gunnar Karlman, con trai của Ingrid, người thuộc về chi Johan Vanger. Birger và Gunnar trong nhiều năm đã thân với nhau.

- Tôi biết.

- Torsson sẽ bị sa thải tắp lự.

- Cậu ta bao nhiêu tuổi?

- Nói thật là tôi không biết. Khi cậu ta gọi, tôi nghe cậu ấy có vẻ là một phóng viên rất trẻ và không có kinh nghiệm.

- Chuyện này không thể để cho qua mà vô sự được.

- Nếu anh cần ý kiến của tôi thì tình hình xem ra có chút nào đó phi lý. Chả lẽ Tổng biên tập của một tờ báo do gia đình Vanger sở hữu lại đi công kích một tờ báo khác có Henrik Vanger là chủ đồng sở hữu ở đó và cả anh nữa cũng có ghế trong ban lãnh đạo của nó. Karlman, biên tập viên của anh đang công kích anh và Henrik.

- Tôi hiểu ý anh và tôi phải khiển trách ai chịu trách nhiệm chuyện này… Karlman là một chủ đồng sở hữu trong tập đoàn và ông ấy hay gây sự nhăng nhít với tôi. Nhưng chuyện này xem vẻ là Birger muốn trả thù việc anh cãi nhau với ông ta ở bệnh viện hôm nào. Anh là cái gai ở bên sườn ông ấy.

- Tôi tin như vậy. Vì thế mà tôi nói không nên khiển trách Torsson. Một anh thực tập thì sao dám nói không khi ông chủ chỉ thị anh ta viết một cái gì theo một kiểu nào đó.

- Tôi có thể yêu cầu ngày mai họ xin lỗi anh.

- Tốt hơn là không. Nó sẽ có thể quay ra thành một trận cãi vã dẳng dai làm cho tình hình càng xấu thêm.

- Vậy anh nghĩ là tôi nên im.

- Không được tích sự gì đâu mà. Karlman sẽ khuấy cho rối lên và xấu nhất là có khả năng anh sẽ bị vẽ ra thành một kẻ độc địa đang cố giẫm đạp lên tự do ngôn luận, vì ông ta vẫn có quyền là chủ sở hữu cơ mà.

- Xin lỗi, Mikael, nhưng tôi không đồng ý với anh. Sự thật là tôi cũng có quyền trình bày ý kiến của tôi chứ. Theo tôi thì bài bào này thối um – và tôi có ý định nói rõ quan điểm của tôi. Tuy miễn cưỡng thay Henrik ở ban lãnh đạo Millennium, nhưng tôi sẽ không để cho một bài báo công kích như thế này ra đòn mà không nếm đòn trả lại.

- Cũng đủ công bằng rồi.

- Vậy nên tôi sẽ yêu cầu quyền đáp lại. Và nếu tôi làm cho Karlman nom ra một đứa ngố thì ông ta chỉ có thể tự trách ông ta mà thôi.

- Anh cần làm cái mà anh tin là đúng.

- Với tôi thì việc quan trọng là anh tuyệt đối hiểu cho rằng tôi không có mảy may dính vào chuyện đả kích độc ác này.

- Tôi tin anh. – Blomkvist nói.

- Ngoài ra tôi, - Martin nói, - tôi thật lòng không muốn nêu chuyện này ra vào lúc này nhưng chính nó lại làm rõ ra được việc chúng ta đã bàn. Để anh trở lại vào ban biên tập của Millennium là quan trọng, làm như thế chúng ta có thể cho thế giới thấy một mặt trận thống nhất. Chừng nào anh còn đi xa, chừng ấy đồn bậy còn tiếp tục. Tôi tin ở Millennium và tôi chắc chắn chúng ta sẽ cùng nhau thắng trận đánh này.

- Tôi hiểu ý anh nhưng bây giờ đến lượt tôi không đồng ý với anh. Tôi không thể phá bản hợp đồng của tôi với Henrik và tôi cũng thật tình không muốn phá. Anh xem đấy, tôi thật lòng mến ông ấy. Rồi cái việc với Harriet kia…

- Vâng, thế thì sao?

- Tôi biết nó là nỗi đau buồn âm ỉ với anh nhưng tôi nhận thấy là Henrik đã bị ám ảnh với nó trong nhiều năm.

- Chỉ là giữa hai chúng ta thôi – tôi rất yêu Henrik và chú là người chỉ bảo tôi – nhưng khi đến chuyện Harriet thì đầu óc ông cụ gần như mất tỉnh táo.

- Khi bắt đầu việc này, tôi không thể không nghĩ rằng đây là chuyện phí thì giờ nhưng nay tôi lại thấy chúng ta sắp đến một đột phá, có thể là chúng ta có cơ biết được chuyện gì đã thật sự xảy ra.

Blomkvist đọc thấy hồ nghi trong mắt Martin. Cuối cùng anh quyết định.

- OK, trong trường hợp này điều tốt nhất chúng ta có thể làm là giải càng sớm càng tốt cái bí mật về Harriet. Tôi sẽ hết sức ủng hộ anh để anh hài lòng mà hoàn thành công việc của anh – và dĩ nhiên của cả Henrik – rồi tôi sẽ về Millennium.

- Tốt. Vậy tôi cũng sẽ không phải đấu với anh.

- Đúng. Anh có thể yêu cầu tôi giúp bất cứ lúc nào anh gặp phải vấn đề gì. Tôi dám đảm bảo là Birger sẽ không ngáng cản gì trên con đường của anh đâu. Và tôi sẽ cố nói chuyện với Cecilia để chị ấy bình tĩnh lại.

- Cảm ơn anh. Tôi cần hỏi chị ấy vài điều; tôi muốn nói chuyện với chị ấy nhưng cả tháng nay chị ấy cứ cưỡng lại.

Martin Vanger cười ầm.

- Có lẽ còn có những vấn đề khác mà anh cần san cho phẳng. Nhưng tôi sẽ không dính vào chuyện đó đâu.

Họ bắt tay nhau.

Salander đã nghe câu chuyện. khi Martin đi rồi, cô cầm lấy tờ Hedestad Courier rà bài báo. Cô đặt tờ báo xuống không bình luận.

Blomkvist ngồi im lặng nghĩ. Gunnar Karlman sinh năm 1948, năm 1966 thì mười tám tuổi. Anh ta là một trong những người ở trên đảo khi Harriet mất tích.

Sau bữa trưa lót dạ, anh bảo cô trợ lý điều tra đọc các báo cáo của cảnh sát. Anh đưa cho cô tất cả các ảnh về vụ tai nạn cũng như bản tóm tắt dài về cuộc điều tra của bản thân Henrik Vanger.

Rồi anh lái xe đến nhà Frode, nhã nhặn đề nghị ông thảo cho một bản thỏa thuận cho Salander làm trợ lý điều tra trong một tháng. Lúc anh về căn nhà gỗ, Salander đã chuồn ra vườn và ngập lút vào trong báo cáo của cảnh sát. Blomkvist đi vào pha cà phê. Anh quan sát cô qua cửa sổ bếp. Cô hình như đang đọc lướt, mỗi trang bỏ ra không quá mươi mười lăm giây. Cô lật các trang như máy và anh ngạc nhiên thấy cô thiếu tập trung; cái đó không sao, bởi báo cáo của cô lại quá ư là chi li tỉ mỉ. Anh lấy hai tách cà phê mang ra bàn ngoài vườn.

- Các nhận xét của anh là đã có trước khi anh biết chúng ta đang tìm một kẻ giết người hàng loạt.

- Đúng. Tôi chỉ viết ra các vấn đề mà tôi muốn hỏi Henrik và một vài điều khác nữa. Nó chả ra hình thù mạch lạc gì. Cho đến nay, tôi đang thật sự là vật nhau trong bóng tối, đang cố viết một chuyện – một chương trong tiểu sử của Henrik Vanger.

- Còn bây giờ?

- Trước kia mọi điều tra đều tập trung vào đảo Hedeby. Nay tôi chắc chắn rằng rằng câu chuyện, chuỗi các sự kiện dẫn đến vụ mất tích là bắt đầu ở Hedestad. Cái đó làm thay đổi hướng nhìn.

- Những cái anh phát hiện ra trong các bức ảnh là lý thú đấy.

Blomkvist ngạc nhiên. Salander không có vẻ là kiểu nguời quăng đi tơi tới những lời khen và anh thấy khoái. Mặt khác – xét từ một quan điểm thuần túy báo chí – thì đây cũng gần như đã là một thành thích.

- Đến lượt anh điền các chi tiết vào. Chuyện ra sao rồi với bức ảnh anh đang lùng tìm ở Nosjo?

- Cô muốn nói là cô không kiểm tra các ảnh trong máy tính của tôi?

- Không có thì giờ. Tôi cần đọc các tóm tắt, việc của anh chỉ liên quan với anh thôi.

Blomkvist mở iBook, vào hồ sơ ảnh.

- Thật hấp dẫn. Chuyến đi lên Nosjo là một tiến bộ nhưng cũng là một thất vọng. Tôi tìm ra bức ảnh nhưng nó chẳng nói được gì nhiều.

- Người phụ nữ này, Mildred Berggren đã lưu giữ tất cả ảnh vào trong album. Bức ảnh tôi tìm là ở trong đó. Nó được chụp bằng loại phim màu rẻ tiền, sau ba mươi bảy năm nước ảnh đã mờ đi đến mức không thể ngờ - thành ra một màu vàng nhạt. Nhưng, cô có tin được không, bà ấy vẫn còn âm bản để trong một cái hộp đựng giầy. Bà ấy cho tôi mượn tất cả các âm bản chụp ở Hedestad và tôi đã quét hình chúng. Đây là cái điều mà Harriet đã nhìn thấy.

Anh bấm vào một hình ảnh mà bây giờ có tên hồ sơ là HARRIET/bd-19.eps. Salander lập tức hiểu nỗi thất vọng của anh. Cô thấy một bức ảnh chụp toàn cảnh cho thấy các anh hề ở hàng đầu của cuộc diễu hành Ngày Trẻ con. Ở đằng sau có thể thấy góc nhà cửa hàng đồ mộc Sundstrom. Khoảng mười người đứng trên con đường lát đá trước nhà Sundstrom.

- Tôi nghĩ cô ta nhìn người này đây. Một phần vì tôi tạo lấy đường tam giác cho cái điểm mà cô ấy đang nhìn, xét theo cái góc mà mặt cô ấy quay vào – tôi vẽ ra một ngã tư ở đây – và một phần vì đây là người duy nhất hình như đang nhìn thẳng vào máy ảnh. Có nghĩa là đang nhìn Harriet.

Salander nhìn thấy một bộ mặt nhòa nhạt đứng lui lại sau các khán giả một ít, gần như ở phố bên cạnh. Anh ta mặc jacket độn vai, thẫm màu có một vạch đỏ trên vai và quần có thể là jean thẫm màu. Blomkvist đã phóng to nên hình người từ eo trở lên choán mất hết màn hình. Lập tức bức ảnh hóa ra nhòa hơn.

- Đó là một người đàn ông. Khoảng trên mét bảy, tầm thước. Tóc vàng thẫm, tóc dài vừa phải và râu cạo nhẵn nhụi. Nhưng không thể làm rõ được nét mặt hay thậm chí ước lượng được tuổi. Quãng giữa tuổi mười mấy và trung niên.

- Anh có thể chỉnh bức ảnh…

- Tôi đã chỉnh, mẹ kiếp. Tôi còn gửi bức ảnh sao đến bộ phận chỉnh ảnh bằng máy tính ở Millennium nữa. – Blomkvist bấm vào một bức ảnh mới chụp. - Ảnh này là bức tốt nhất mà tôi lấy ra từ bức ảnh kia. Chỉ là vì máy ảnh kia quá xoàng và cự ly thì quá xa.

- Anh đã đưa cho ai xem chưa? Một ai đó có thể nhận ra dáng vẻ của người đàn ông hay là…

- Tôi đưa nó cho Frode. Ông ta không biết người đàn ông này là ai.

- Ông Frode chắc không phải là người có óc quan sát nhất ở Hedestad.

- Đúng, nhưng tôi đang làm việc với ông ta và Henrik Vanger. Tôi muốn đưa bức ảnh cho Henrik xem trước khi tôi cho nó lên mạng rộng hơn.

- Có thể người này chỉ là một người đứng xem.

- Có thể. Thế nhưng hắn đã làm bật ra được ở Harriet một phản ứng lạ lùng như vậy đấy.

Trong mấy ngày sau đó, Blomkvist và Salander gần như làm không nghỉ lúc nào về vụ Harriet. Salander đọc tiếp báo cáo của cảnh sát, lia hết câu hỏi này sang câu hỏi khác. Chỉ có thể có một sự thật là mỗi câu trả lời mơ hồ hay lưỡng lự đều lại dẫn đến một câu hỏi khác lớn hơn.

Hai người bỏ cả một ngày xem xét thời gian biểu xuất hiện các nhân vật tại hiện trường của vụ tai nạn xe trên cầu. Sanlander ngày càng thành một bí ẩn với anh. Mặc dù cô chỉ đọc lướt nhanh các tài liệu trong báo cáo, cô hình như vẫn luôn luôn đậu được vào các chi tiết tối tăm nhất, mâu thuẫn nhất.

Buổi chiều họ nghỉ, khi không thể nào chịu nổi được cái nóng ở trong vườn. Họ sẽ bơi ở eo biển hay đi bộ lên sân trời của quán Cà phê & bánh đầu cầu Sussane. Nay Sussane đối xử lạnh ra mặt với Blomkvist. Anh nhận thấy Salander coi bộ ít hợp pháp và cô rõ là đang sống trong căn nhà gỗ cùng anh vậy thì điều đó – trong mắt Sussane – đã khiến cho anh trở thành một gã trung niên nhơ bẩn. Không hay.

Tối nào Blomkvist cũng ra ngoài chạy. Khi anh trở về căn nhà gỗ thở hồng hộc, Salander không bình luận. Rõ ràng chạy không phải là món của cô.

- Tôi hơn bốn chục rồi, - anh nói. – Tôi phải tập để giữ cho khúc giữa không quá béo.

- Tôi thấy rồi.

- Cô không tập tành gì à?

- Tôi có đánh bốc một dạo.

- Đánh bốc?

- À, anh biết đấy, với găng đấm.

- Cô bốc ở hạng cân nào? – Anh hỏi khi ở vòi tắm sen ra.

- Chả hạng nào. Thỉnh thoảng tôi chọi chút ít lại đám con trai trong câu lạc bộ ở Soder.

Sao mà không ngạc nhiên được chứ? Nhưng ít nhất cô đã nói với anh một cái gì đó về cô. Sao cô lại đến làm việc với Armansky? Cô đã được giáo dục học hành như thế nào? Bố mẹ cô làm gì? Hễ Blomkvist vừa thử hỏi về đời sống của cô, cô liền im như hến, chỉ trả lời nhát gừng hay lờ anh đi.

Một chiều, Salander thình lình đặt một cặp hồ sơ xuống, nhăn mặt.

- Anh biết gì về Otto Falk không? Ông mục sư ấy.

- Không nhiều. Tôi gặp vị mục sư đương nhiệm một ít lần trong năm và được nghe nói là Falk sống trong một nhà dưỡng lão ở Hedestad. Bệnh Alzheimer, già lú.

- Ông ta người đâu?

- Ở Hedestad. Đã học ở Uppsala.

- Ông ta không có vợ. Và Harriet lẵng nhẵng bên ông ta.

- Tại sao cô hỏi?

- Tôi chỉ nói là Morell đã khá là dễ dãi với ông ta khi phỏng vấn.

- Trong những năm 60 các mục sư được hưởng một quy chế trong xã hội khác xa bây giờ. Với ông ta thì sống ở đây trên đảo, gần với những manh mối quyền lực là điều tự nhiên thôi, tạm nói như vậy.

- Tôi nghĩ liệu cảnh sát đã có kiểm tra kỹ lưỡng nhà mục sư hay không. Trong các bức ảnh thì xem vẻ đó là một tòa nhà gỗ to, có nhiều chỗ giấu được một cái xác trong một thời gian.

- Đúng thế, nhưng trong tài liệu không có gì chỉ ra rằng ông ta đã có quan hệ gì đó với những tên sát nhân hàng loạt hay với việc Harriet mất tích.

- Thật vậy, có thể, - Salander nói và cười châm biếm. – Trước hết, ông ta là một mục sư, và hơn ai hết các mục sư là có quan hệ đặc biệt đến Kinh thánh. Thứ hai, người ta biết ông ta là người cuối cùng trông thấy và nói chuyện với Harriet.

- Nhưng ông ta xuống chỗ xảy ra tai nạn và ở lại đó hàng giờ. Ông ta có ở trong nhiều bức ảnh, đặc biệt vào lúc Harriet chắc là đã biến mất.

- Được, tôi không bẻ được bằng chứng ngoại phạm của ông ta. Nhưng tôi quả là có nghĩ đến một cái gì đó khác đấy. Câu chuyện này là về một tên bạo dâm giết phụ nữ hàng loạt.

- Vậy thì?

- Tôi là… Mùa xuân này tôi có ít thì giờ cho bản thân, tôi đã đọc một ít về những kẻ bạo dâm ở trong các bối cảnh khác thể. Một trong những cái tôi đã đọc là sách huấn luyện của FBI. Có kết luận rằng một số lượng đáng ngạc nhiên từ những tên sát nhân hàng loạt bị tù là xuất thân từ các gia đình xộc xệch chức năng và lúc còn bé thì từng hành hạ giống vật. Một số những tên sát nhân hàng loạt, người Mỹ, cũng đã bị bắt vì có ý định phóng hỏa thiêu cháy nhà cửa. Giống vật bị hành hạ và bị phóng hỏa đã xuất hiện ở trong vài vụ án mà Harriet đã viết lại, nhưng điều mà tôi thật sự nghĩ đến là việc nhà mục sư bị phóng hỏa cháy hồi cuối những năm 70.

- Đó là một cú làm thử mà không chắc ăn.

Lisbeth gật đầu.

- Đồng ý. Nhưng ở trong báo cáo của cảnh sát tôi không tìm thấy nguyên nhân của vụ cháy này và sẽ rất thú vị nếu biết trong những năm 60 đã có những vụ cháy khác không giải thích được lý do. Cũng đáng kiểm tra xem dạo ấy, trong vùng này liệu đã có những vụ giống vật bị lạm dụng hay bị làm cho què quặt hay không.

Đêm thứ bảy ở Hedeby, khi Salander lên giường, cô hơi cáu Blomkvist. Trong gần một tuần cô thực tế đã bỏ tất cả những lúc không ngủ ra cho anh. Thường thì cứ bảy phút chung đụng với một người khác cô đã nhức đầu, cho nên cô bố trí công việc để sống như một ẩn tu. Thiên hạ để cho cô yên chừng nào là cô khoái vô cùng chừng nấy. Không may là xã hội lại không thông minh hay không thông cảm; cô đã phải tự vệ chống lại các quyền uy xã hội, các quyền uy phúc lợi trẻ con, cả quyền uy của chế độ giám hộ, quyền uy thuế má, cảnh sát, các nhà quản lý, các nhà tâm lý học, các nhà phân tâm học, các thầy cô giáo và các đầu gấu giữ trật tự, những kẻ (không phải những tay trông coi cửa ở Kvarnen lúc ấy đã biết cô là ai) không bao giờ để cô vào quán bar cho dù cô đã hai mươi lăm tuổi. Có cả một đạo quân những dân hình như không còn việc gì làm hay hơn là chọc phá vào cuộc đời cô, và nếu như có được cơ hội thì chúng liền uốn nắn luôn cái cách sống mà cô đã chọn.

Khóc chả có hay ho gì, điều này cô học được từ sớm. Cô cũng học biết được là mỗi lúc cô cố để cho ai đó hiểu được một điều gì về cô thì tình hình lại tồi tệ hơn. Kết quả là chính cô phải tự giải quyết lấy các chuyện cho cô, dùng bất cứ biện pháp nào mà cô thấy là cần thiết. Một cái gì thuộc kiểu chơi rắn mà Luật sư Bjurman đã nếm. Blomkvist cũng có cái thói quen chán phè như mọi ai khác, tọc mạch dò la vào đời cô rồi đặt câu hỏi. Nhưng mặt khác anh không phản ứng giống như phần lớn những người đàn ông khác mà cô đã gặp.

Khi cô lờ các câu anh hỏi thì anh chỉ đơn giản nhún vai rồi để cô yên. Đáng ngạc nhiên.

Cái sáng đầu tiên khi cô vớ được iBook của anh, chiêu tiếp theo tức thì của cô lúc ấy là chuyển hết thông tin sang ngay máy tính của cô. Nếu anh rũ cô ra khỏi vụ này thì cứ việc; cô vẫn sẽ vào được tài liệu.

Khi anh ra ăn sáng, cô đã nghĩ anh sẽ phát điên lên. Nhưng nom anh lại gần như là nhẫn chịu, lầm bầm câu gì đó châm biếm rồi bỏ đi tắm. Rồi anh bắt đầu thảo luận lại cái mà cô đã đọc. Một gã lạ đây. Thậm chí cô còn có thể nghĩ lầm ra là anh đã tin cô.

Blomkvist đã biết Salander là hacker, đây không phải chuyện đùa đối với cô, Salander hiểu rằng là một hacker, cả chuyên nghiệp lẫn vì thú vui riêng, đã được pháp luật miêu tả là “xâm phạm dữ liệu một cách bất hợp pháp", và cô có thể phải chịu hai năm tù ngồi. Cô không muốn bị nhốt. Trong trường hợp của cô, một án tù có nghĩa là cô sẽ bị tách ra khỏi máy tính và cùng với nó là cái nghề ngỗng duy nhất mà cô thật sự giỏi giang. Cô chưa bao giờ bảo Armansky cách cô thu thập những thông tin mà ông trả công cho cô để tìm. Trừ ngoại lệ Dịch Bệnh và một ít dân trên Net, những người giống như cô dâng hiến mình cho việc đột nhập máy tính ở trình độ chuyên nghiệp – phần lớn họ chỉ biết cô là “Ong Vò Vẽ" chứ không biết cô là ai và sống ở đâu – Kalle Blomkvist là người duy nhất đã loạng quạng vào bí mật của cô. Anh đến với cô vì cô đã phạm một sai lầm mà một đứa mười hai tuổi cũng không mắc phải, sai lầm ấm ớ ấy chỉ chứng tỏ rằng đầu óc cô đã bị sâu bọ ăn mất tiêu và cô thì chỉ có đáng là bị quất cho một trận đòn. Nhưng thay vì điên tiết lên, anh lại mướn cô. Kết quả là cô chỉ cáu anh vừa vừa thôi.

Khi họ ăn qua loa trước khi cô đi ngủ, anh thình lình hỏi cô có phải là một tay hacker giỏi không. Cô ngạc nhiên thấy mình đáp:

- Chắc tôi là tay giỏi nhất ở Thụy Điển. Có thể có độ hai hay ba người nữa ở trình độ tôi.

Trả lời thế là chính xác, cô không nghi ngờ. Có thời Dịch Bệnh giỏi hơn cô nhưng cô đã vượt anh ta từ lâu rồi.

Mặt khác, nói ra như thế cũng thấy hay hay. Trước kia cô chưa từng có kiểu trò chuyện này với người ngoài cuộc bao giờ và cô thấy thích là hình như tài năng của cô đã làm cho anh choáng. Rồi anh phá mất cảm giác ấy khi hỏi câu nữa: cô tự học lấy đột nhập máy tính như thế nào.

Cô có thể nói như thế nào đây? Tôi luôn có khả năng làm được trò đó. Nhưng thay vì nói vậy, cô lẳng lặng đi ngủ, chả chúc cả ngủ ngon.

Khi cô quá đột ngột bỏ đi, anh không cáu, việc này lại làm cho cô cáu hơn. Cô nằm nghe anh đi đi lại lại trong bếp, dọn dẹp bàn và rửa đĩa tách. Anh luôn thức khuya hơn cô nhưng nay rõ ràng là anh cũng sắp lên giường nốt. Cô nghe thấy anh ở trong buồng tắm rồi đi vào phòng ngủ của anh, đóng cửa lại. Một lúc sau cô nghe thấy tiếng giường kêu khi anh leo lên nó, cách cô không tới một mét nhưng ở bên kia bức tường. Cô đã ở chung nhà với anh một tuần và anh chưa hề tán tỉnh cô. Anh đã làm việc với cô, hỏi ý kiến cô, đập khẽ vào các đốt ngón tay cô, ấy là nói cho có hình tượng, khi cô dò lầm đường rồi lại nhận là cô đúng sau khi cô uốn nắn anh. Mẹ kiếp, anh đối xử với cô như với một con người.

Cô ra khỏi giường đến đứng bên cửa sổ, bồn chồn nhìn vào bóng đêm. Điều gay go nhất với cô là để cho một người khác lần đầu tiên trông thấy cô trần truồng. Cô đinh ninh mình mẩy xương xẩu của cô nom ghê. Ngực cô không ra sao. Cô chả có cả mông để mà nói nữa. Chả có gì nhiều để hiến cho. Ngoài việc cô là một phụ nữ hoàn toàn bình thường với cũng các thèm muốn tương tự, cũng với các cơn giục giã của tính dục như mọi phụ nữ khác. Cô đứng ở đấy thêm hai chục phút nữa rồi quyết định.

Blomkvist đang đọc một cuốn tiểu thuyết của Sara Paretsky thì nghe thấy tay nắm cửa quay, anh nhìn lên và thấy Salander. Quấn một mảnh khăn trải giường quanh người, cô đứng ở cửa một lúc.

- Cô ổn chứ?

Cô lắc đầu.

- Sao vậy?

Cô đi đến bên giường anh, cầm quyển sách đặt nó lên bàn đầu giường. Rồi cô cúi xuống hôn vào miệng anh. Cô leo tót lên giường rồi ngồi nhìn anh, tìm anh. Cô để bàn tay lên mảnh chăn ở trên bụng anh. Khi anh không phản đối, cô cúi xuống cắn nụ hoa anh.

Blomkvist bàng hoàng. Anh cầm hai vai cô đẩy cô ra xa một ít để có thể nhìn được mặt cô.

- Lisbeth… tôi không biết thế này có phải là một ý hay không đây. Chúng ta phải làm việc với nhau.

- Em muốn làm tình với anh. Và em sẽ chẳng có chuyện gì để làm việc với anh hết nhưng nếu anh đá em đi thì em sẽ có một chuyện khốn kiếp với anh.

- Nhưng chúng ta mới biết nhau.

Cô cười to, một tiếng cười bất chợt nghe như một tiếng ho.

- Trước kia bất kỳ thứ gì giống như thế này là anh không để cho yên được ở trên giường của anh đâu. Thật ra trong báo cáo về lai lịch của anh, em đã không nói anh là một trong những dân không thể nào buông được tay ra khỏi phụ nữ. Vậy thì sai chỗ nào? Với anh, em không đủ kích dâm sao?

Blomkvist lắc đầu và cố tìm ra cái gì thông minh một tí để nói. Khi anh nghĩ không ra; cô bèn kéo tuột chăn ở trên người anh ra rồi leo lên anh.

- Anh không có bao cao su đâu. – Anh nói.

- Hê xừ nó đi.

Anh tỉnh dậy thấy tiếng cô ở trong bếp. Chưa đến 7 giờ. Anh có lẽ chỉ ngủ được hai giờ đồng hồ còn thì lơ ma lơ mơ trên giường.

Người phụ nữ này đã đánh bại anh. Tuyệt đối cô không có một điểm nào, thậm chí một cái liếc mắt cho thấy cô ít nhất cũng có chút nào thích thú anh.

- Chào. – Cô nói ở lối ra vào cửa. Cô thậm chí còn có thoáng một nụ cười.

- Chào.

- Chúng ta hết sữa rồi. Em sẽ ra trạm xăng dầu. Bảy giờ họ mở cửa. – Và cô đi.

Anh nghe thấy cô đi ra cổng chính. Anh nhắm lại. Rồi anh nghe thấy cửa chính lại mở chỉ vài giây sau, cô đã trở lại ở lối vào. Lần này cô không mỉm cười.

- Anh ra xem cái này thì hay hơn đấy. – Giọng cô nói nghe là lạ.

Lập tức Blomkvist đứng lên, lùa chân vào quần jean.

Trong đêm ai đó đã đến căn nhà gỗ với một món quà không mong đợi. Ở cổng có mái, xác một con mèo cháy đã gần thành than nằm đó. Chân và đầu con mèo đã bị cắt rời, mình con mèo bị mổ phanh và ruột gan nó đã bị moi ra lắt lẻo ở bên xác nó, cái xác như đã bị quay nướng trên lửa. Ở trên yên xe máy của Salander, đầu con mèo còn nguyên vẹn. Anh nhận ra bộ lông màu nâu đỏ.

22

Thứ Năm, 10 tháng Bảy

Họ im lặng ăn lót dạ ở ngoài vườn và cà phê không có sữa. Salander đã lấy máy ảnh số Cannon chụp cái cảnh ma quái trước khi Blomkvist lấy túi rác dọn sạch đi. Anh để con mèo vào cốp xe Volvo. Anh phải làm một cái đơn gửi cảnh sát về sự đối xử độc ác với loài vật, có thể là nhằm đe dọa nhưng anh nghĩ không muốn sẽ lại phải giải thích tại sao có chuyện đe dọa.

8 rưỡi, Isabella Vanger đi qua để tới cầu. Bà không trông thấy hai người, hay ít nhất vờ ra thế.

- Em thế nào? – Blomkvist hỏi.

- Ồ, em được, - Salander nhìn anh băn khoăn. Ok, được rồi. Anh ta nghĩ mình rụng rời. – Khi nào em tìm ra được cái thằng bỏ mẹ nào hành hạ đến chết một con mèo vô tội chỉ để cảnh cáo chúng ta thì em sẽ quật cho nó bằng cái gậy đánh bóng chày.

- Em nghĩ đó là một cảnh cáo à?

- Anh tìm ra được giải thích nào hay hơn không? Dứt khoát là nó muốn nói một cái gì.

- Trong chuyện này, dù sự thật là gì đi nữa thì chúng ta cũng đã làm phiền một ai đó đủ để cho hắn làm một việc đáng nôn ọe. Nhưng cũng có một vấn đề khác nữa.

- Em biết. Đây là một con vật hiến tế theo kiểu năm 1954 và 1960, nhưng xem ra thì khó có thể tin nổi rằng một ai đó hoạt động từ những năm 50 mà bây giờ lại vẫn đem xác một con vật bị hành hạ đến đặt ở lối vào cửa nhà anh.

Blomkvist đồng ý.

- Trong vụ này những người duy nhất có thể nghĩ được là Harald Vanger và Isabella Vanger. Ở phía Johan Vanger có một số họ hàng nhiều tuổi hơn nhưng không ai sống ở khu vực này.

Blomkvist thở dài.

- Isabella là một con chó cái thô bỉ chắc chắn là có thể giết con mèo nhưng anh không tin bà ta trong những năm 50 đã chạy quanh khắp nơi để giết phụ nữ. Harald Vanger… anh không biết, ông ta nom kiệt sức lắm khó mà đi bộ được, anh không thể hình dung nổi đêm hôm qua ông ta lại lén đến tận nhà anh bắt con mèo rồi làm tất cả các chuyện kia.

- Trừ phi hai người, một già, một trẻ hơn.

Nghe tiếng xe hơi đi qu
Tác giả : Stieg Larsson
5/5 của 1 đánh giá

Bình luận

Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi
Nguyen 1 năm trước
Đã ra chap mới rồi nhé mọi người, link đây nha: bit.ly/newchap247

Truyện cùng thể loại