Cô Gái Có Hình Xăm Rồng
Chương 16
Chủ nhật, 1 tháng Sáu
Thứ Ba, 10 tháng Sáu
Sau sáu tháng nghiền ngẫm không hiệu quả, vụ Harriet bỗng nứt rạn. Tuần đầu tháng Sáu, Blomkvist phát hiện ra ba miếng mới toanh trong bảng ghép hình. Hai trong ba miếng đó la anh tìm ra. Miếng thứ ba có người giúp.
Sau lần Berger đến thăm vào tháng Năm, anh lại nghiên cứu quyển album lần nữa, ngồi hàng ba giờ đồng hồ liền, xem lần lượt từng tấm ảnh một, cố phát hiện thêm những chi tiết đã từng gây ấn tượng cho anh. Vẫn không ăn thua cho nên anh để quyển album sang bên và quay về với quyển biên niên của gia đình.
Một hôm vào tháng Sáu, ở Hedestad anh đang nghĩ đến một chuyện hoàn toàn khác thì chiếc xe buýt nhỏ chở anh rẽ vào Jarnvagsgatan và cái điều đang ủ mầm trong đầu anh bỗng hiện ra như sét đánh giữa trời xanh. Anh thấy bàng hoàng đến nỗi cứ đứng đực ra ở trên xe buýt cho tới tận trạm đỗ sau cạnh ga xe lửa. Anh bắt ngay chuyến xe buýt đầu tiên quay về Hedeby để kiểm tra xem anh nhớ có đúng hay không.
Đó là bức ảnh đầu tiên trong album, bức Harriet Vanger chụp lần cuối cùng vào cái ngày định mệnh ấy, ở Jarnvagsgatan tại Hedestad trong khi cô đang xem cuộc diễu hành của Ngày Trẻ con.
Bức ảnh này là một bức lạ lùng đã được cho vào album. Nó được để vào đây vì nó được chụp cùng ngày hôm ấy, nhưng nó là bức duy nhất không phải về tai nạn xe trên cầu. Mỗi lần Blomkvist và mỗi ai khác (anh cho là vậy) xem quyển album thì sự chú ý đều bị hút mất vào con người và các chi tiết trong các bức ảnh của cây cầu. Không có kịch tính nào trong bức ảnh về một đám đông tại cuộc diễu hành Ngày Trẻ Con, vài giờ trước đó.
Blomkvist xem bức ảnh dễ có đến cả nghìn lần, một việc làm nó cứ gợi cho anh đau buồn nhớ rằng anh sẽ không còn bao giờ thấy lại cô gái nữa.
Nhưng Blomkvist không phản ứng lại với điều đó.
Nó được chụp từ bên kia đường, chắc là từ một cửa sổ tầng hai. Ống kính mở ở góc độ rộng nên đã chụp được mũi đằng trước của một trong những con thuyền diễu hành. Trên thuyền là những phụ nữ mặc những bộ đồ bơi lấp lánh hay những quần áo của cung tần thị nữ, ném kẹo xuống cho đám đông. Một số người trong họ nhảy múa. Ba anh hề nhảy nhót ở trước mũi con thuyền.
Harriet ở trong hàng đầu của đám đông đứng trên đường lát đá. Cạnh cô là ba cô gái, rõ ràng là bạn học của cô, và ít nhất một trăm người xem khác ở quanh và sau lưng họ.
Từ trong tiềm thức Blomkvist đã lưu lại điều này và khi chiếc xe buýt đi qua vào đúng chỗ ấy thì nó chợt bừng tỉnh.
Đám đông cũng giống như một công chúng khán, thính giả vậy. Mắt họ dõi theo quả bóng trên sân tennis hay quả cầu trên mặt băng đánh khúc côn cầu. Những người ở đầu cùng bên trái bức ảnh nhìn những anh hề ngày đằng trước mặt họ. Những người ở gần con thuyền hơn thì đều nhìn vào những cô gái ăn mặc hở hang. Vẻ mặt của họ bình thản. Trẻ con chỉ trỏ. Một vài người cười toe toét. Nom đều vui vẻ.
Trừ một.
Harriet lại nhìn chéo sang bên. Ba cô bạn và những người khác ở quanh cô đều đang nhìn những anh hề. Mặt Harriet quay đi gần đến 30, 35 độ sang bên phải. Mắt cô như đang tập trung vào một cái gì ở bên kia đường nhưng ở ngoài rìa trái của bức ảnh.
Blomkvist lấy kính phóng to ra cố cho nổi rõ mọi chi tiết. Bức ảnh chụp từ một khoảng cách quá xa khiến cho anh không thể cầm chắc hoàn toàn nhưng không như mọi người ở xung quanh, mặt Harriet không hớn hở. Miệng cô thành một đường ngang mỏng. Mắt cô mở to. Hai tay buông thõng vô hồn. Cô nom có vẻ sợ. Sợ hay giận dữ.
Blomkvist lấy bức ảnh in ở album ra cho vào một cặp nhựa cứng rồi chờ chuyến xe buýt sau quay về Hedestad. Anh xuống xe ở Jarnvagsgatan, đứng ở dưới cái cửa sổ là nơi có thể đã chụp bức ảnh kia. Nó là ở rìa của trung tâm thị trấn Hedestad. Đó là một tòa nhà gỗ ba tầng, trong là cửa hàng video cùng với hiệu Haberdashery của Sundstrom thành lập năm 1932 theo như ghi trên tấm biển ở trên cổng chính. Anh đi vào, thấy cửa hàng là ở trên tầng ba, có một cầu thang xoáy trôn ốc đưa lên tầng thượng.
Hai cửa sổ trên đỉnh cầu thang xoáy trôn ốc nhìn ra phố.
- Tôi có thể giúp gì ông không? – một nhân viên bán hàng có tuổi hỏi khi anh lấy cái cặp nhựa cùng tấm ảnh ra. Chỉ có vài ba người trong cửa hàng.
- Tôi chỉ muốn xem bức ảnh này được chụp ở chỗ nào. Tôi mở cửa sổ ra một lát thôi có được không ạ?
Người đàn ông nói có thể được. Vậy là Blomkvist có thể trông thấy chính xác cái chỗ Harriet đã đứng. Một trong những tòa nhà gỗ ở đằng sau cô đã không còn, thay vào là một tòa nhà góc cạnh. Tòa nhà gỗ khác từng là một cửa hàng bán văn phòng phẩm năm 1966 thì nay là một cửa hàng bán thực phẩm bổ dưỡng và một tiệm săn sóc da. Blomkvist đóng cửa sổ lại, cảm ơn người nhân viên và xin lỗi đã làm mất thì giờ của ông.
Anh qua đường và đứng vào chỗ Harriet đã đứng. Anh đã có được những cột mốc ở giữa cửa sổ của tầng thượng nhà Haberdashery và cửa ra vào cửa tiệm săn sóc da. Anh quay đầu và nhìn theo hướng nhìn của Harriet. Cô gái nhìn về góc của tòa nhà có cửa hiệu Haberdashery, một cái góc hoàn toàn bình thường của một tòa nhà, nó che khuất một ngã tư phố. Harriet, chị nhìn thấy cái gì ở đằng ấy đấy?
Blomkvist cho bức ảnh vào trong ba lô rồi đi đến quảng trường gần ga. Anh bước vào một quán cà phê vỉa hè. Anh bỗng thấy hồi hộp.
Ở tiếng Anh họ gọi đó là “bằng chứng mới", rất khác với tiếng Thụy Điển: "vật liệu chứng minh mới". Anh đã nhìn thấy một cái hoàn toàn mới, một cái mà trong suốt cuộc điều tra kéo dài ba mươi bảy năm, không ai khác ngoài anh đã để ý thấy.
Vấn đề là anh không chắc cái thông tin mới này của anh nó có giá trị gì nếu quả như có một giá trị nào đấy. Nhưng anh cảm thấy sắp chứng minh được là nó có ý nghĩa.
Cái ngày tháng Chín mà Harriet mất tích kia đã thành ra quan trọng ở nhiều mặt. Nó là ngày lễ Hedestad với một đám đông hàng nghìn người, trẻ già, trên đường phố. Nó là ngày gia đình gặp mặt ở trên đảo Hedeby. Riêng hai việc ấy đã làm cho khu vực này ra khỏi nếp sống quen thuộc của nó. Vụ đâm xe đã che khuất đi mất mọi chuyện khác.
Sĩ quan cảnh sát Morell, Henrik Vanger và những người khác từng nghiền ngẫm về vụ Harriet mất tích đã tập trung chú ý vào đảo Hedeby. Morell thậm chí viết ông không sao dứt đi nỗi nghi ngờ rằng hai vụ mất tích và đâm xe là có dính líu đến nhau. Nay Blomkvist tin rằng ông đã nghĩ sai.
Dây chuyền sự việc không phải bắt đầu ở trên đảo Hedeby mà là ở Hedestad trước đó vài giờ. Harriet đã trông thấy một cái gì khiến cô khiếp sợ và giục giã cô về nhà, đi thẳng đến nhà ông chú nhưng không may là ông chú lại không có thì giờ nghe cô. Rồi xảy ra tai nạn xe trên cầu. Rồi tên giết người giáng đòn xuống.
Blomkvist nghĩ ngợi. Đây là lần đầu tiên anh có ý thức nói ra thành lời cái ý nghĩ cho rằng Harriet bị ám sát. Anh chấp nhận niềm tin của Henrik, Harriet đã chết và anh đang săn lùng một kẻ giết người.
Anh quay lại với các báo cáo của cảnh sát. Trong cả nghìn trang giấy chỉ có một phần xét đến các sự kiện ở Hedestad. Harriet đã ở đây với ba cô bạn học, cả ba đều đã được thẩm vấn. Họ đã gặp nhau ở quảng trường gần ga lúc 9 giờ. Một cô còn mua quần jean và có các bạn đi cùng. Các cô đã uống cà phê ở quán cà phê của nhà hàng EPA rồi đi thẳng đến sân vận động, loăng quăng trong những lán của liên hoan hóa trang và các ao câu cá, ở đấy họ lại tình cờ gặp một số bạn khác ở trường. Trưa họ dễu dện về lại thị trấn để xem diễu hành. Ngay trước 2 giờ chiều, Harriet thình lình bảo họ cô phải về nhà. Họ chia tay nhau ở bến xe gần Jarnvagsgatan.
Không cô bạn nào của cô để ý thấy có điều gì khác thường. Một trong họ, Inger Stenberg, người đã tả sự thay đổi của Harriet trong năm trước bằng câu nói rằng cô ấy đã rất “bàng quan cuộc sống". Cô nói hôm ấy Harriet lì xì, không bình thường, phần lớn là làm theo người khác.
Sĩ quan Morell đã nói chuyện với tất cả những ai gặp Harriet hôm ấy, cho dù họ chỉ là chào nhau nhân có cuộc gặp mặt của gia đình. Một bức ảnh của cô đã được đăng trên tờ báo địa phương khi cuộc tìm kiếm đang tiếp diễn. Sau khi cô gái mất tích, mấy người dân ở Hedestad đã gặp cảnh sát để nói họ đã trông thấy cô gái trong hôm diễu hành, nhưng không ai báo được gì khác thường cả.
Sáng hôm sau, Blomkvist tìm Henrik Vanger ở bàn ăn điểm tâm của ông.
- Ông nói gia đình Vanger vẫn có một món lãi trong tờ Hedestad Courier?
- Đúng.
- Tôi muốn xem hồ sơ ảnh của nó. Từ 1966.
Vanger đặt cốc sữa xuống, lau miệng rồi hỏi:
- Mikael, anh đã phát hiện ra cái gì rồi?
Anh nhìn thẳng vào mắt ông già.
- Không có gì là chắc chắn. Nhưng tôi nghĩ chúng ta đã bị lầm cả một chuỗi các sự kiện.
Anh đưa cho ông già xem bức ảnh và nói những điều anh đang suy nghĩ. Vanger ngồi nghe im lặng một hồi lâu.
- Nếu tôi đúng, chúng ta cần phải nhìn xa tới những gì đã xảy ra ở Hedestad hôm ấy chứ không phải chỉ ở đảo Hedeby. – Blomkvist nói, - Tôi không biết làm chuyện đó như thế nào sau một thời gian quá dài như vậy nhưng nhiều ảnh chắc là đã được chụp trong Ngày Trẻ con mà chưa đăng lên bao giờ. Tôi muốn xem các bức đó.
Vanger dùng điện thoại trong bếp. Ông gọi Martin, nói rõ ông muốn gì và hỏi ai là biên tập viên ảnh hôm ấy. Trong mười phút đã xác định được người cần tìm và thu xếp xong việc tìm trong hồ sơ ảnh.
Biên tập viên ảnh của tờ Hedestad Courier là Madeleine Blomberg, thường gọi là Maja. Chị là nữ biên tập viên ảnh đầu tiên mà Blomkvist gặp trong nghề báo, nơi mà nhiếp ảnh trước hết vẫn được coi là loại hình thức nghệ thuật dành cho đàn ông.
Do là chủ nhật, tòa soạn vắng tanh nhưng Maja Blomberg lại sống cách đấy có năm phút, chị gặp Blomkvist ở cổng tòa báo. Chị làm cho Hedestad gần hết đời mình. Chị bắt đầu làm người đọc bản in thử năm 1964, đổi sang làm việc in tráng ảnh và đã qua nhiều năm tháng trong buồng tối, thỉnh thoảng có được cử ra ngoài làm phóng viên ảnh khi nguồn ảnh quen thuộc không đủ. Chị lên được chức biên tập viên, kiếm được một ghế chính thức ở bộ phận ảnh tại tờ báo, mười năm trước, khi người biên tập viên ảnh về hưu, chị tiếp quản vai trưởng ban ảnh.
Blomkvist hỏi hồ sơ ảnh ở đây sắp đặt thế nào.
- Nói thật với anh, hồ sơ khá là lộn xộn. Từ khi chúng tôi có máy tính và ảnh kỹ thuật số thì hồ sơ là ở trong các đĩa. Chúng tôi có một nhân viên tập sự ở đây quét các bức ảnh cũ quan trọng hơn, chỉ có một ít ảnh trong đống kho lộn xộn kia là đã được xếp loại. Các ảnh cũ hơn được xếp theo ngày tháng trong các hồ sơ âm bản. Chúng đang ở trong tòa soạn này hay ở trong nhà kho trên tầng áp mái.
- Tôi đang cần đến các ảnh chụp trong cuộc diễu hành Ngày Trẻ con năm 1966, nhưng kể cả bất cứ ảnh nào chụp trong tuần ấy.
Blomberg kỳ quặc nhìn anh.
- Anh muốn nói cái tuần Harriet Vanger mất tích chăng?
- Chị biết chuyện?
- Anh không biết chuyện ấy thì anh không làm ở đây cả đời được, sớm hôm nay là ngày nghỉ của tôi mà Vanger gọi là tôi đã rút ra kết luận. Có cái gì mới rồi thế?
Blomberg có cái mũi thính tin. Blomkvist mỉm cười lắc đầu rồi kể cho chị một câu chuyện hỏa mù.
- Không, tôi cho rằng không ai tìm ra được lời giải cho bài đố này đâu. Chuyện này khá riêng tư, nhưng sự thật là tôi đang viết tự truyện cho Henrik Vanger. Chuyện cô gái mất tích là một đề tài lạ nhưng nó là một chương thật sự không thể lờ đi. Tôi đang tìm một cái gì trước đây chưa được dùng đến mà lại có thể làm sáng tỏ cái ngày hôm ấy – về Harriet và các bạn của cô ấy.
Blomberg có vẻ nghi hoặc nhưng lời giải thích nghe hợp lý nên chị không hỏi thêm, vả chăng cũng là do chị đã biết vai trò của Blomkvist.
Một phóng viên nhiếp ảnh ở một tờ báo nhận chừng từ hai đến mười cuộn phim một ngày. Với các sự kiện lớn có thể gấp đôi. Mỗi cuộn được băm sáu âm bản và chỉ có một số ít trong đó được đăng lên mà thôi cho nên thường thường một tờ báo địa phương không tích quá ba trăm hình ảnh một ngày. Một ban ảnh giỏi tổ chức đem cắt rời các cuộn phim ra và để các âm bản ở trong một ống măng sông sáu khung ảnh. Một cuộn phim chiếm chừng một trang ở cặp hồ sơ âm bản. Một cặp hồ sơ giữ chừng 110 cuộn phim. Âm bản trong một năm được cất đầy trong chừng hai mươi tư cặp hồ sơ. Sau nhiều năm, một lượng lớn cặp hồ sơ đã tích lại và thường không có giá trị thương mại nên chúng được xếp đầy các ngăn giá của ban ảnh. Nhưng mỗi phóng viên ảnh và ban ảnh lại đinh ninh các bức ảnh đó đang chứa đựng một tư liệu lịch sử vô giá nên không vứt bất kì một tấm ảnh bao giờ.
Hedestad Courier thành lập năm 1922, bán ảnh thì tồn tại từ 1937. Kho ảnh trên tầng áp mái chứa chừng 1,200 cặp hồ sơ, dược Blomberg sắp xếp theo ngày tháng. Các âm bản của tháng Chín 1966 để ở trong bốn cặp lưu trữ bằng bìa các tông rẻ tiền.
- Chúng ta làm thế nào với những cái này nhỉ? – Blomkvist nói. - Tôi thật sự cần một cái bàn làng nhàng để ngồi sao lại những cái gì hay hay.
- Chúng tôi không còn buồng tối nữa rồi. Mọi cái đều đã cho scan. Anh có biết dùng máy scan âm bản không?
- Có, tôi đã làm và có riêng một máy scan âm bản Agfa. Tôi làm Photoshop trên máy tính.
- Vậy là anh dùng các thiết bị giống của chúng tôi.
Blomberg đưa anh đi một vòng quanh căn phòng nho nhỏ của ban ảnh, cho anh một chiếc ghế và một chiếc bàn gọn nhẹ rồi mở máy tính và máy scan hình. Chị chỉ cho anh chỗ máy cà phê trong khu căng tin. Họ nhất trí để Blomkvist tự làm lấy một mình nhưng khi nào anh muốn đi thì anh cần gọi chị để cho chị có thể đặt hệ thống báo động. Rồi chị chào “Thú vị nha!" và để anh ở lại.
Ngược trở lại giai đoạn ấy, Courier có hai phóng viên nhiếp ảnh. Người trực hôm ấy là Kurt Nylund và Blomkvist có quen biết anh ta. Vào năm 1966, Nylund chừng hai mươi tuổi. Rồi anh chuyển đến Stockholm trở thành một nhà nhiếp ảnh nổi tiếng vừa làm tự do vừa là nhân viên của Scanpix Thụy Điển ở Marieberg. Trong những năm 90, Blomkvist đã có những lần gặp Nylund khi Millennium còn dùng ảnh của Scanpix. Anh nhớ Nylund là một người xương xẩu góc cạnh, tóc thưa. Hôm diễu hành, Nylund dùng phim ánh sáng ngày, không nhanh quá, loại nhiều phóng viên ảnh tin tức thường dùng.
Blomkvist lấy ra các âm bản ảnh chàng Nylund trẻ tuổi chụp, đặt chúng lên bàn. Anh xem kĩ từng khuôn hình bằng một kính phóng đại. Đọc âm bản ảnh là một nghệ thuật đòi hỏi kinh nghiệm mà Blomkvist thì không có. Để quyết định ảnh có giá trị thông tin hay không anh phải rà quét từng hình ảnh và xem xét nó trên màn hình máy tính. Việc này phải mất hàng giờ. Cho nên anh xem lướt trước tất cả các bức ảnh mà anh có thể thấy ra điều gì lý thú ở đó.
Anh xem dần những bức chụp vụ tai nạn xe cộ mà bộ sưu tập ảnh của Henrik Vanger không đầy đủ. Người sao ảnh làm sưu tập – có thể là chính Nylund – đã bỏ ra khoảng ba chục bức hoặc bị lóa hoặc bị coi là kém chất lượng không đáng đăng báo.
Blomkvist tắt máy tính, cắm máy scan Agfa vào iBook của mình. Anh bỏ hai giờ để scan chỗ ảnh còn lại.
Có một bức đập ngay vào mắt anh tức khắc. Khoảng giữa 3 giờ 10 và 3 giờ 15 chiều, đúng vào lúc Harriet tan biến đi, một người đã mở cửa sổ của buồng cô. Vanger cố tìm mãi không ra đó là ai. Trên màn hình của Blomkvist có một bức ảnh mà chắc đã được chụp vào đúng vào lúc cửa sổ mở ra. Có một người và một bộ mặt lờ mờ không rõ. Anh quyết định scan hết các ảnh trước khi quay sang phân tích tỉ mỉ chi tiết bức ảnh này.
Rồi anh xem xét các ảnh về Ngày Trẻ con. Nylund đã để ra sáu cuộn phim, khoảng hai trăm lần chụp cho chuyện này. Có một dòng vô tận những trẻ con với những quả bóng, người lớn, sinh hoạt đường phố với những người bán xúc xích nóng, cuộc diễu hành, một nghệ sĩ trên sân khấu và một cuộc trao phần thưởng gì đó.
Blomkvist quyết định scan toàn bộ sưu tập. Sáu giờ sau, anh có một cặp giấy đựng chín chục ảnh nhưng anh sẽ còn phải quay lại nữa. 9 giờ anh gọi Blomberg, cảm ơn chị và đáp xe buýt về nhà ở đảo Hedeby.
9 giờ sáng Chủ nhật anh quay lại. Tòa soạn vẫn vắng khi Blomberg để anh vào. Anh không nhận ra đây là ngày lễ Whitsuntide trùng vào cuối tuần, và sẽ không có tờ báo nào cho tới thứ Ba hết. Anh bỏ cả ngày ra để scan ảnh. 6 giờ chiều vẫn còn lại bốn chục bức chụp Ngày Trẻ con. Blomkvist đã dò các âm bản và quyết định những bức cận cảnh mặt đám trẻ xinh xắn hay các bức tranh của một họa sĩ xuất hiện trên lễ đài không phải là mục tiêu chú ý của anh. Những cái anh cho scan là các ảnh về sinh hoạt đường phố và đám đông.
Blomkvist đi qua ngày lễ Whitsuntide với đống “vật liệu mới". Anh có mười phát hiện. Phát hiện đầu làm cho hết sức ngạc nhiên. Cái thứ hai làm cho tim anh đập rộn.
Cái thứ nhất là bộ mặt ở cửa sổ buồng Harriet Vanger. Ảnh hơi nhòe nên anh bỏ nó ra ngoài. Người chụp đứng ở trên đồi nhà thờ và hướng nhìn về cây cầu. Các tòa nhà lớn là bối cảnh. Blomkvist cắt cúp bức ảnh để chỉ còn lại cái cửa sổ rồi anh thử điều chỉnh độ sáng tối và tăng độ nét cho đến khi đạt tới chất lượng tốt nhất.
Kết quả là một bức ảnh lấm chấm gần như ngả trắng cho thấy một bức rèm, một phần cánh tay và một bộ mặt tròn tròn mờ nhạt ở bên trong gian phòng. Bộ mặt không phải của Harriet Vanger vốn tóc đen, còn người này tóc lại sáng màu hơn.
Không thể phân biệt rõ được các nên mặt nhưng anh chắc chắn đây là một phụ nữ, phần mặt sáng hơn tiếp tục xuống đến ngang vai chỉ ra một bộ tóc phụ nữ lượn sóng bồng bềnh và người phụ nữ này mặc quần áo sáng màu.
Anh tính chiều cao của người này với khung cửa sổ, đó là một phụ nữ cao chừng mét sáu.
Anh bấm sang các ảnh khác chụp sau vụ tai nạn thì thấy có một người hợp với miêu tả ở trong bức ảnh bên cửa sổ: cô Cecilia Vanger hai mươi tuổi.
Nylund đã chụp mười tám bức ở cửa sổ nhà Haberdashy Sundstrom. Harriet là cái thứ mười bảy trong đó. Blomkvist thừa nhận rằng các ảnh này đã được chụp trong vòng năm phút. Trong các ảnh đầu, ở trong khuôn hình, Harriet và các cô bạn đang đi xuôi phố xuống. Trong các ảnh 2 – 7 họ đứng yên xem diễu hành. Rồi họ chuyển chừng ba bốn mét xuống dưới phố. Trong bức cuối cùng, có lẽ được chụp sau một thời gian đã trôi qua thì không còn các cô gái nữa.
Blomkvist in một loạt ảnh trong đó anh lược bỏ đi nửa đầu của Harriet và gia công chúng để có được độ tương phản trắng đen tốt nhất. Anh để các bức ảnh này vào một hồ sơ riêng, mở chương trình đồ họa Graphic Converter và bắt đầu cho các ảnh lần lượt hiện lên, mỗi hình ảnh được hiện ra hai giây.
Harriet đến, hình ảnh với chiều nghiêng mặt. Harriet đứng lại, nhìn xuôi xuống dưới phố, Harriet mở miệng nói gì với các bạn, Harriet cười. Harriet giơ tay trái lên tai, Harriet mỉm cười. Harriet thình lình nom ngạc nhiên, mặt cô ở một góc 20 độ về bên trái camera. Mắt Harriet mở to và cô thôi cười. Miệng Harriet mím lại thành một đường mỏng. Mắt Harriet tập trung nhìn. Trên mặt cô có thể đọc được ra… cái gì đây? Buồn, sốc, giận dữ? Harriet cụp mắt xuống. Harriet đã đi.
Blomkvist quay đi quay lại trường đoạn này. Anh xác định khá mạnh mẽ cái lý lẽ vừa chợt đến với anh. Một cái gì đó xảy ra ở Jarnvagsgatan.
Harriet đã nhìn thấy một cái gì – một ai đó - ở bên kia đường phố. Phản ứng lại là cô thấy sốc. Cô gặp Henrik Vanger để nói chuyện riêng nhưng không được. Cô biến đi không một tăm tích.
Một cái gì đã xảy ra nhưng bức ảnh không nói rõ là gì.
2 giờ sáng thứ Hai Blomkvist ăn bánh kẹp và cà phê ở ghế dài trong bếp. Anh vừa nản lại vừa háo hức. Trái với chờ đợi anh đã đi tới được bằng chứng mới. Có điều là tuy nó rọi ánh sáng vào chuỗi sự kiện nhưng nó không đưa anh lại gần hơn tới bước giải được bí mật.
Anh nghĩ lung mãi về vai trò mà Cecilia Vanger có thể đã sắm ở trong vở bi kịch. Henrik Vanger lập biểu đồ về hoạt động của mọi người liên quan đến hôm đó, không chừa một ai và Cecilia cũng không là ngoại lệ. Chị đang sống ở Uppsala nhưng chị đến Hedeby hai hôm trước cái ngày định mệnh kia. Chị ở với Isabella Vanger. Chị từng nói có thể chị đã gặp Harriet sớm buổi sáng hôm đó nhưng không trực tiếp nói chuyện với Harriet. Chị không thấy Harriet ở đó, và chị quay về đảo Hedeby vào khoảng 1 giờ chiều, vào cái lúc Nylund chụp các ảnh kia ở Jarnvagsgatan. Chị thay quần áo và khoảng 2 giờ thì giúp bày biện bàn ghế cho bữa tiệc lớn tối hôm đó.
Tạo một bằng chứng ngoại phạm – nếu cần phải có – thì nó khá là yếu. Các khoảng thời gian là tương đối đúng, đặc biệt về thời gian chị trở lại đảo Hedeby, nhưng Henrik không tìm ra được điều gì cho thấy là chị nói dối. Cecilia là một trong những người nhà được ông chú Henrik thương nhất. Vả lại giờ chị đã là người tình của anh. Blomkvist khách quan sao nổi được cơ chứ? Anh chắc chắn không thể tưởng tượng ra chị lại là một kẻ giết người.
Bây giờ một bức ảnh mà cho đến nay không ai biết đang bảo với anh rằng chị đã nói dối khi bảo hôm ấy chị không vào phòng Harriet. Blomkvist rối đầu lên với cái ý tại sao chị lại phải dối trá như thế.
Và nếu chuyện đó em đã nói dối thì em còn có thể nói dối những gì khác nữa đây?
Anh soát lại trong đầu những điều anh đã biết về Cecilia. Một con người hướng nội rõ ràng là đã bị quá khứ tác động. Sống một mình, không có đời sống tình dục, khó gần gũi tiếp xúc với người đời. Giữ khoảng cách và khi đã buông lỏng thì không kìm hãm nổi. Chị đã chọn một người xa lạ làm người tình. Nếu chị phải kết thúc chuyện đó thì là vì chị không thể sống với cái ý nghĩ rằng anh sẽ bất ngờ đi khỏi đời chị cũng như khi anh bất ngờ hiện ra. Blomkvist cho rằng chị dám mở ra câu chuyện yêu đương với anh thì chính xác là vì anh chỉ ở đây có một thời gian. Chị không phải lo anh về lâu dài sẽ làm cho đời chị thay đổi đi bằng một cách nào đó.
Anh thở dài và gạt môn tâm lý học nghiệp dư sang một bên.
Trong đêm ấy, anh có cái phát hiện thứ hai. Chìa khóa cho bí mật này là điều Harriet đã trông thấy ở Hedestad. Anh sẽ không tìm ra cái đó trừ phi anh sáng chế ra được một cỗ máy thời gian hay đứng ở ngay đằng sau cô gái, nhìn qua vai cô.
Và thế rồi một ý đã nảy ra. Anh vỗ trán rồi mở iBook. Anh bật mở các bức ảnh chưa cắt cúp trong xê ri ảnh chụp ở Jarnvagsgatan ra thì… đây!
Đằng sau Harriet và ở bên phải cô chừng non một mét là một cặp trẻ tuổi, người đàn ông mặc áo len kẻ sọc, người phụ nữ mặc áo jacket lơ nhạt. Người đàn bà cầm máy ảnh. Khi Blomkvist phóng to bức ảnh, thì đó là một chiếc Khôngdak Instamatic chụp lấy liền có đèn – một máy ảnh làm quà rẻ tiền vào Noel cho những người không biết gì về nhiếp ảnh. Người phụ nữ cầm máy ảnh ở ngang cằm. Rồi chị ta giơ lên chụp đám hề đúng vào lúc Harriet thay đổi vẻ mặt. Blomkvist so vị trí chiếc máy ảnh với hướng nhìn của Harriet. Người phụ nữ chụp đúng cái thứ mà Harriet đang nhìn vào.
Tim anh đập loạn. Anh ngả lại đằng sau, cắm thuốc lá trượt cả ra ngoài túi ngực. Ai đó đã chụp một bức ảnh. Anh làm sao nhận dạng và tìm ra nổi người phụ nữ? Anh có thể nắm được bức ảnh này của chị ta không? Cuộn phim ấy có được tráng rửa và nếu có thì liệu có còn lại các bức ảnh hay không?
Anh mở hồ sơ có các ảnh của Nylund chụp đám đông ra. Trong hai giờ sau anh phóng to từng bức và soi kĩ từng li một. Cho đến các bức cuối cùng anh không còn thấy cặp nam nữ này nữa. Nylund đã chụp một anh hề khác cầm bóng đứng cười hềnh hệch ở trước máy ảnh của anh. Các bức ảnh được chụp ở một bãi đỗ xe gần cửa ra vào sân vận động, nơi diễn ra các lễ hội. Chắc đã phải là sau 2 giờ chiều. Ngay sau đó Nylund được tin xe đâm nhau trên cầu và nhanh chóng kết thúc các chân dung của Ngày Trẻ con.
Người phụ nữ gần như ẩn đi nhưng người đàn ông áo len sọc vẫn thấy rõ, ở chiều nghiêng mặt. Ông ta cầm chùm chìa khóa trong tay và đang cúi xuống mở cửa một chiếc xe. Máy ảnh tập trung vào anh hề đứng ở đằng trước và chiếc xe thì hơi bị mờ nhòa. Biển số bị che mất một phần nhưng anh có thể đọc thấy nó bắt đầu với “AC3". Biển số trong những năm 60 bắt đầu với một mã hiệu theo hạt và lúc bé, Blomkvist đã nhớ các mã hiệu hạt này “AC" cho Vasterbotten.
Rồi anh nhận ra một cái khác nữa. Trên cửa sổ đằng sau có một tờ quảng cáo gì đó. Anh phóng to thì dòng chữ nhòa đi không còn. Anh cắt rời tờ quảng cáo, điều chỉnh trắng đen, độ nét. Phải mất một lúc. Anh vẫn chưa đọc được phần có chữ viết nhưng anh dựa trên những hình mờ nhòa này mà hình dung ra các chữ đó. Nhiều chữ nom giống nhau kì lạ. Một chữ “O" có thể bị lầm thành “D" hay “B" hay “E", vân vân. Anh lấy giấy bút ra và sau khi loại đi một số chữ, anh còn lại được một bản viết không thể đọc ra, ở trong cùng một dòng.
R JO NI K RIFA RIK
Anh nhìn chăm chăm vào cái hình cho đến khi chảy nước mắt. Rồi anh xem chữ viết. “NORSJO SNICKERIFABRIK", tiếp theo sau là những con số cỡ bé hơn đến mức khó mà đọc ra nổi, chắc là số điện thoại.
17
Thứ Tư, 11 tháng Sáu
Thứ Bảy, 14 tháng Sáu
Blomkvist có được miếng thứ ba trong trò chơi ghép hình là nhờ một nguồn tin bất ngờ.
Sau khi làm việc với các bức ảnh thực tế gần như hết đêm anh ngủ một mạch tới chiều. Lúc thức dậy anh thấy đau đầu, anh tắm và đi đến quán Susanne ăn sáng. Anh còn phải đến Vanger để báo cáo anh đã phát hiện ra những gì. Thay vì, khi quay về, anh lại đến nhà Cecilia, gõ cửa. Anh cần hỏi chị sao đã nói dối anh về việc đã có ở trong phòng Harriet. Không ai ra cửa.
Vừa bỏ đi thì anh nghe thấy có tiếng nói:
- Con điếm của ông không ở nhà.
Một lão già hom hem, gớm ghiếc thò ra khỏi cái hang của lão. Lão ta từng có thời cao lớn gần hai mét, nhưng đã khòng đi vì tuổi tác. Và nay mắt lão chỉ ngang tầm với mắt Blomkvist. Mặt và cổ lão đầy những vết đồi mồi sẫm đen. Lão mặc bộ pyjama với một cái áo khoác nâu, chống gậy nên càng thêm quái dị.
- Ông vừa nói gì vậy?
- Tôi bảo con điếm của ông không ở nhà.
Blomkvist sấn lên, mũi anh gần như gí vào mũi ông già.
- Ông nói con gái của ông như thế ư, đồ con lợn bẩn thỉu!
- Tôi không phải người ban đêm lén lút đến đây. – Harald nói, cái miệng không răng nhe ra cười. Ở lão ta sặc mùi rồ dại. Blomkvist đi sạt qua Harald xuống đường không ngoái lại. Anh thấy Henrik Vanger ở trong văn phòng.
- Tôi vừa có hân hạnh được gặp anh trai ông. – Mikael nói.
- Harald? Tốt, tốt, thế hả, anh ấy đã liều đi ra ngoài. Mỗi năm anh ấy liều như thế một hai lần.
- Tôi đang gõ cửa nhà Cecilia thì có người ở đằng sau tôi nói: “Con điếm của ông không có nhà".
- Nghe thì là Harald đấy. – Henrik bình thản nói.
- Lạy Chúa, ông ta gọi con gái mình là điếm.
- Gọi như thế nhiều năm rồi. Vì thế mà hai bố con không trò chuyện với nhau nhiều.
- Sao ông ấy lại gọi như thế?
- Cecilia mất trinh năm hai mươi mốt tuổi, ngay ở Hedestad đây sau một chuyện tình mùa hè, sau năm Harriet mất tích.
- Rồi?
- Người đàn ông mà nó yêu ấy tên là Peter Samuelsson. Anh ta là trợ lý tài chính ở Tập đoàn Vanger. Một chàng trai xuất sắc. Hiện nay anh ta làm cho ABB. Kiểu người mà tôi khá tự hào là bố vợ nếu như Cecilia là con gái tôi. Harald đại loại đã kiểm tra dòng họ Samuelsson rồi phát hiện ra Peter có một phần tư máu là Do Thái.
- Trời đất!
- Toàn gọi là con điếm miết từ đấy.
- Ông ấy có biết tôi và Cecilia có…
- Chắc ai ở trong làng cũng biết chuyện đó trừ có Isabella, vì chẳng ai đầu óc lành lặn lại đi kể một cái gì cho bà ấy và nhờ trời bà ấy cũng khá là tốt để toàn lên giường từ 8 giờ tối. Mặt khác nghe nói Harald đang theo dõi mỗi bước chân đi của anh.
Blomkvist thộn mặt ngồi xuống.
- Ông nói ai cũng biết…
- Dĩ nhiên rồi…
- Mà ông không quan tâm?
- Mikael thân mến, đấy thật sự không phải việc của tôi.
- Cecilia ở đâu?
- Năm học đã hết. Hôm thứ Bảy nó đi London để thăm người em sau đó thì nghỉ ở… hừm… hừm… tôi nghĩ là ở Florida. Sẽ trở về chừng một tháng nữa.
Blomkvist nom lại càng ngu ngơ.
- Chúng tôi đã bập vào nhau phần nào trong một thời gian.
- Tôi biết nhưng không phải là việc của tôi. Công việc của anh đến đâu rồi?
Blomkvist rót cho mình một tách cà phê.
- Tôi nghĩ đã tìm ra được vài cái mới.
Anh lấy iBook ở trong ba lô ra rồi lần lượt đưa xê ri ảnh cho thấy Harriet đã phản ứng như thế nào ở Jarnvagsgatan. Anh nói rõ đã tìm thấy các khán giả khác như thế nào cùng với máy ảnh, xe của họ và quảng cáo của cửa hàng Đồ mộc Norsjo.
Khi anh nói xong, Henrik bảo muốn xem lại tất cả một lần nữa. Khi ông ngửng đầu lên khỏi máy tính, mặt ông xám ngoét. Blomkvist chợt hoảng hốt đặt một tay lên vai ông. Vanger hất tay anh ra rồi ngồi im một lúc.
- Anh đã làm được cái điều mà tôi cho là không thể làm được. Anh đã xoay ra được một cái gì hoàn toàn mới. Anh sẽ làm gì tới đây?
- Tôi sẽ tìm cái ảnh này, nếu như nó vẫn còn.
Anh không nói tới bộ mặt trong khung cửa sổ.
Harald Vanger quay về cái hang của ông ta thì Blomkvist đi ra. Khi rẽ ở góc nhà, anh thấy một ai đó khá lạ ngồi đọc báo ở cổng căn nhà gỗ của anh. Trong một tích tắc anh ngỡ là Cecilia nhưng cô gái tóc sẫm màu ở cổng là con gái anh.
- Chào bố. – Pernilla Abrahamsson nói.
Anh ôm con gái hồi lâu.
- Ở đâu mà vọt tới thế này?
- Ở nhà chứ còn ở đâu nữa. Con đang đi đến Skelleftea. Con ở lại một đêm được không?
- Dĩ nhiên là được chứ, nhưng làm sao con đến đây được?
- Thì mẹ biết bố ở đâu mà. Và con hỏi quán cà phê họ có biết bố đang ở đâu không. Bà chủ quán bảo con cách đi chính xác đến đây. Gặp con bố có vui không?
- Chắc chắn vui chứ. Vào đi. Con nên báo trước để bố mua một cái gì đó ăn ngon hay một thứ gì đó.
- Con bốc đồng dừng lại. Con muốn chào mừng bố ra tù về nhà nhưng bố không gọi bao giờ.
- Bố xin lỗi.
- Thôi mà. Mẹ bảo con tại sao bố luôn cứ chìm đắm vào trong ý nghĩ của bố.
- Mẹ bảo con như thế?
- Đại loại thế. Nhưng không quan trọng. Con vẫn yêu bố.
- Bố cũng yêu con nhưng con biết…
- Con biết chứ. Con nay đã khá là người lớn rồi mà.
Anh pha trà và mang bánh ngọt ra.
Con gái anh nói đúng. Cô chắc chắn không còn là một cô gái bé nhỏ nữa rồi; cô gần tới mười bảy, thực tế đã là một thiếu nữ. Anh phải biết thôi đối xử với cô như một đứa bé.
- Thế nó ra sao?
- Cái gì ra sao?
- Nhà tù ấy.
Anh cười thành tiếng.
- Con có tin không nếu bố nói cứ y như đi nghỉ có trợ cấp vậy, suốt ngày đêm con muốn nghĩ hay viết là tùy con?
- Con tin. Con cho rằng không có gì khác nhau nhiều lắm giữa nhà tù và nhà tu kín, con người ta thường đến nhà tu kín để ngẫm.
- Tốt, con đã đến. Bố hy vọng chuyện đó, bố thành con chim trong lồng, với con không thành vấn đề.
- Không hề nhé. Con tự hào về bố, hễ có cơ hội khoe bố vào tù vì cái điều mà bố tin là con không có chịu để lỡ đâu.
- Tin?
- Con thấy cô Erika Berger trên tivi mà.
- Pernilla, bố không phải là vô tội. Bố ân hận đã nói với con những chuyện từng xảy ra nhưng bố không bị kết tội oan. Dựa trên những cái mà tòa nghe nói đến trong phiên xét xử để ra quyết định.
- Nhưng bố không bao giờ nói đến phía của bố trong câu chuyện.
- Đúng, vì quay ra thế nào bố lại không có bằng chứng cơ chứ.
- OK, vậy trả lời con câu này: Wennerstrom có xấu không?
- Ông ta là một trong những tên vô lại xấu xa nhất mà bố chưa từng bao giờ chuyện trò cùng.
- Đủ hay cho con rồi. Con có quà cho bố đây.
Pernilla lấy ở trong túi xách ra một gói. Blomkvist mở ra và thấy một đĩa CD: Những giai điệu hay nhất. Pernilla biết đó là một trong những băng nhạc ông bố mình ưa thích nhất ngày xưa. Blomkvist cho đĩa vào iBook và cả hai cùng nghe Những giấc mơ êm đềm.
- Con đến Skelleftea làm gì?
- Lớp học Kinh thánh ở một trại hè cùng với giáo đoàn có tên là Ánh sáng Cuộc sống. – Pernilla nói, tựa hồ đó là sự lựa chọn rõ ràng nhất ở trên thế gian.
Blomkvist thấy một luồng lửa lạnh buốt chạy dọc xuống sống lưng anh. Anh nhận thấy con gái anh và Harriet Vanger mới giống nhau làm sao. Pernilla mười sáu, đúng cái tuổi của Harriet khi cô biến mất. Cả hai đều có những ông bố vắng mặt. Cả hai đều bị lôi cuốn đến sự cuồng tín tôn giáo của các giáo đoàn kỳ lạ - Harriet tới Pentecostals còn Pernilla thì tới một cái mầm mới nhú của một cái gì đó đúng là lập dị chẳng khác gì Tiếng nói Cuộc sống.
Anh không biết anh nên kiểm soát sự thích thú mới về tôn giáo của con gái anh như thế nào. Anh sợ ngăn cản vào quyền tự định đoạt của con gái. Đồng thời Ánh sáng Cuộc sống cũng chắc chắn là cái loại giáo phái mà anh sẵn sàng quật ngã không chút do dự ở trên tờ Millennium. Hễ có cơ hội là anh bàn chuyện này với mẹ của Pernilla ngay.
Pernilla ngủ vẹo cổ và một mình ở trên giường còn anh thì quấn chăn nằm ở trên ghế dài trong bếp. Bị sái cổ và đau mình mẩy, anh tỉnh dậy. Pernilla khăng khăng đòi đi nên anh làm điểm tâm và đi với con gái ra ga. Hai bố con có ít thì giờ nên mua cà phê ở siêu thị mini rồi ngồi trên ghế dài ở cuối sân ga chuyện gẫu về mọi thứ ở đời. Cho đến khi Pernilla nói:
- Bố không thích việc con đến Skelleftea sao?
Anh không thích.
- Không nguy hiểm đâu mà. Nhưng bố không theo đạo Cơ đốc, đúng không?
- À, muốn gì thì bố cũng không phải là một người ngoan đạo.
- Bố không tin Chúa?
- Bố không tin Chúa nhưng bố trọng việc con tin Chúa. Ai cũng có một cái gì để mà tin vào cả.
Tàu đến, hai bố con ôm nhau lâu cho tới khi Pernilla lên tàu. Một chân trên bậc lên xuống, cô quay lại.
- Bố, con sẽ không đổi đạo. Bố tin hay không, chuyện ấy không quan trọng với con, con luôn yêu bố. Nhưng con nghĩ bố nên nghiên cứu tiếp Kinh thánh đi.
- Sao con nói thế?
- Con thấy các câu bố trích dẫn ở trên tường. – Cô nói. – Nhưng ủ ê với căng đầu óc lên làm gì thế chứ hả bố? Hôn bố nhiều. Gặp nhau sau.
Cô vẫy tay rồi đi khuất. Anh đứng trên sân ga, thẫn thờ, nhìn con tàu kéo đi. Nó chưa kịp biến vào sau khúc quành, thì ý nghĩa đã bị chìm nghỉm mất.
Mikael nhào ra khỏi nhà ga. Phải gần một tiếng nữa chuyến xe buýt cuối cùng mới lăn bánh. Anh quá sốt ruột để có thể chờ lâu như thế. Anh ra trạm xe buýt tìm Hussein người lái có cái giọng Norrland.
Mười phút sau anh ở trong phòng làm việc của mình. Anh tính toán cái mẩu giấy để ở trên bàn:
Magda – 32016
Sara – 32109
R.J. – 30112
R.L. – 32027
Mari – 32018
Anh nhìn quanh phòng. Rồi anh nhận ra là anh có thể tìm được một cuốn Kinh thánh ở đây. Anh mang tờ giấy kia đi tìm các chìa khóa mà anh để trong một cái bát trên thành cửa sổ rồi rảo chân đi sang căn nhà gỗ của Gottfried. Tay anh thật sự run run khi anh cầm quyển Kinh thánh xuống khỏi giá sách.
Harriet không viết số điện thoại. Các con số chỉ các chương và khổ thơ trong Leviticus, quyển ba trong Pentateuch 1.
(Magda) Leviticus, 20:16
“Nếu một người đàn bà lại gần và nằm với một con thú thì ngươi phải giết người đàn bà cùng con thú; chúng phải bị xử chết, chúng phải bị nhuốm máu chính chúng".
(Sara) Leviticus, 21:9
“Nếu con gái của bất cứ thầy tế nào, tự làm ô uế nó bằng hành nghề đĩ thì cũng làm ô uế chính cả bố nó; đứa con gái sẽ bị lửa thiêu".
(R.J.) Leviticus, 1:12
“Và nó sẽ bị tùng xẻo cùng với đầu và mỡ của chính nó rồi thầy tế sẽ đặt chúng lên trên củi của ngọn lửa trên bàn thờ".
(R.L.) Leviticus, 20:27
“Một người đàn ông hay một người đàn bà làm đĩ hay phù thủy thì sẽ bị xử chết, chúng sẽ bị ném bằng đá, máu sẽ nhuốm người chúng".
(Mari) Leviticus, 20:18
“Nếu một người đàn ông nằm với một người đàn bà đang đau ốm và phơi trần truồng người đàn bà ra, làm lộ cái giếng của người đàn bà và người đàn bà cũng để lộ ra máu tháng của mình thì cả hai sẽ bị đồng loại ruồng bỏ".
Anh ra ngoài ngồi ở cổng mái. Mỗi khổ thơ ở trong cuốn Kinh thánh của Harriet đều được gạch dưới. Anh châm một điếu thuốc và nghe chim hót xung quanh.
Anh đã có các con số. Nhưng anh chưa có tên. Magda, Sara, Mari, R.J., R.L.
Trong khi đầu óc Blomkvist làm một cú nhảy đầy linh cảm thì một vực thẳm thình lình mở ra. Anh nhớ đến nạn nhân hỏa hoạn ở Hedestad mà sĩ quan điều tra Morell đã bảo với anh. Vụ của Rebecka xảy ra cuối những năm 40. Cô gái bị hiếp dâm và giết, đầu bị đặt lên trên đống than đá mốc meo. “Và nó sẽ bị tùng xẻo cùng với đầu và mỡ của chính nó rồi thầy tế sẽ đặt chúng lên trên củi của ngọn lửa trên bàn thờ". Rebecka. R.J. Họ của cô ta là gì?
Nhân danh Chúa Harriet đã dính líu vào chuyện gì đây?
Vanger đổ bệnh. Ông nằm trên giường khi Blomkvist gõ cửa. Nhưng Anna cho anh vào, bảo anh có thể thăm ông già vài phút.
- Bị cảm mùa hè ấy mà. – Vanger giải thích, sụt sịt. – Anh muốn gì?
- Tôi muốn hỏi một câu.
- Thế hả?
- Ông có nghe nói đến một vụ giết người xảy ra ở Hedestad vào một lúc nào đó hồi những năm 40 không? Một cô gái tên là Rebecka – đầu cô ta bị đặt trên lửa.
- Rebecka Jacobsson, - Henrik nói ngay, không ngập ngừng. Cái tên này tôi không bao giờ quên, tuy trong nhiều năm, tôi không nghe nhắc đến.
- Nhưng ông có biết vụ án mạng này?
- Thì biết chứ. Khi chết Rebecka Jacobsson hai mươi ba hay hai mươi tư tuổi. Phải là vào quãng… Đó là năm 1949. Người ta la hét quát tháo ghê gớm lắm, tôi cũng góp một phần nho nhỏ ở trong đó.
- Ông có góp?
- Ô có. Rebecka là ở trong bộ phận thư ký của chúng tôi, một cô gái được lòng dân và rất hấp dẫn. Nhưng sao anh lại hỏi chuyện này?
- Henrik, tôi không chắc lắm, nhưng có thể có một cái gì đó. Tôi sẽ phải nghĩ đến nơi đến chốn chuyện này.
- Anh đoán là giữa Rebecka với Harriet có một quan hệ gì đó ư? Đã gần… mười bảy năm chia cách hai người ấy rồi còn gì.
- Để tôi nghĩ và mai nếu ông khỏe hơn tôi sẽ đến gặp.
Ngày hôm sau Blomkvist không gặp Henrik. Ngay trước 10 giờ sáng khi đang ngồi ở bàn bếp đọc cuốn Kinh thánh của Harriet thì anh nghe thấy tiếng xe hơi phóng nhanh qua cầu. Anh nhòm qua cửa sổ thấy ánh đèn xanh nhay nháy của xe cứu thương.
Như linh tính báo trước, anh chạy ra ngoài. Chiếc xe cứu thương đỗ ở bên nhà Henrik Vanger. Đèn tầng trệt đều bật hết. Anh lao tới bậc tam cấp của cổng mái và thấy Anna đang run lẩy bẩy ở gian sảnh.
- Tim ông ấy, - bà nói. – Trước đây một lát ông ấy đánh thức tôi dậy, kêu là bị đau ở ngực. Rồi quỵ xuống.
Blomkvist quàng tay ôm người quản gia, vừa lúc các thầy thuốc đi ra với Henrik Vanger bất tỉnh ở trên một cái cáng. Martin Vanger nom căng thẳng ra mặt, đi ở đằng sau. Anh đã đi nằm thì Anna gọi.
Chân anh không bít tất sục vào đôi dép lê và anh cũng không đóng cả khóa quần. Anh khẽ chào Blomkvist rồi quay sang Anna.
- Tôi đi với ông đến bệnh viện. Gọi Birger và xem bà có liên hệ được với Cecilia ở London sáng nay không, - anh nói. – Và báo cả Dirch.
- Tôi có thể đến nhà Dirch. – Blomkvist nói. Anna gật đầu cám ơn.
Phải mất vài phút thì Frode ngái ngủ mới trả lời tiếng chuông cửa Blomkvist bấm.
- Tin xấu đây, Dirch. Henrik phải đi bệnh viện rồi. Hình như bị một cơn đau tim. Martin muốn tôi báo cho ông.
- Lạy Chúa. – Frode nói. Ông liếc đồng hồ - Thứ Sáu ngày 13. – Ông nói.
Phải đến sáng hôm sau, sau khi chuyện vắn với Dirch Frode qua di động và yên tâm rằng Vanger vẫn sống, Blomkvist mới gọi Berger cho tin đối tác mới của Millennium đã bị đưa đến bệnh viện vì một cơn đau tim. Không tránh khỏi là Berger đã buồn rầu và lo lắng nhận cái tin này.
Sắp tối thì Frode đến gặp anh để cho biết tình hình cụ thể của Henrik Vanger.
- Ông ấy sống nhưng còn mệt nhiều. Ông ấy bị một cơn đau tim nghiêm trọng và lại bị cả viêm nhiễm gì đó.
- Ông có gặp ông ấy không?
- Không. Ông ấy đang trong chế độ hồi sức cấp cứu. Martin và Birger hiện ngồi với ông ấy.
- Có qua khỏi được không?
Frode huơ huơ bàn tay.
- Ông ấy sống qua cơn đau tim, đó là tin vui. Tình hình Henrik là tốt nhưng ông ấy đã già. Chúng ta cứ chờ xem.
Họ ngồi im lặng, chìm trong suy nghĩ. Blomkvist pha cà phê. Frode nom rất không vui.
- Tôi cần hỏi ông là bây giờ chuyện sẽ thế nào. – Blomkvist nói.
Frode ngước lên nhìn.
- Ông vẫn cứ được thuê mướn, không có gì thay đổi. Việc này đã được quy định trong hợp đồng có giá trị đến cuối năm nay, dù Henrik sống hay chết thì vẫn thế.
- Không, tôi không có ý ấy. Tôi nghĩ là khi ông ấy vắng mặt thì tôi báo cáo với ai.
Frode thở dài.
- Mikael, anh biết rõ cũng như tôi mà, tất cả câu chuyện về Harriet chỉ là trò giải trí trong lúc nhàn rỗi của Henrik.
- Đừng nói thế, Dirch.
- Thế anh định nói gì?
- Tôi tìm ra bằng chứng mới. – Blomkvist nói. – Hôm kia tôi đã nói một ít với Henrik, tôi rất sợ là việc ấy đã góp phần làm cho ông ấy lên cơn đau tim thôi.
Frode nhìn anh với cái vẻ lạ lùng.
- Anh nói đùa, anh chắc…
Blomkvist lắc đầu.
- Trong ít ngày qua, tôi đã tìm ra một vài chứng cớ có ý nghĩa về việc Harriet mất tích. Tôi lo là chúng ta chưa bàn tới việc tôi sẽ báo cáo với ai khi Henrik không còn ở đây.
- Anh báo cáo với tôi.
- OK. Tôi sẽ cứ theo như thế mà tiếp tục. Tôi có thể cho ông thấy qua tình hình bây giờ chứ?
Blomkvist cố hết sức nói cho cụ thể những gì anh đã tìm thấy và cho Frode xem xê ri ảnh ở Jarnvagsgatan. Rồi anh giải thích việc con gái anh đã giải mã bí mật những cái tên trong cuốn sách có ngày tháng như thế nào. Cuối cùng anh đề nghị, như anh đã đề nghị với Vanger ngày hôm trước, gắn vụ Harriet vào với vụ giết chết Rebecka Jacobsson năm 1949, R.J.
Điều duy nhất anh giữ cho riêng anh là khuôn mặt của Cecilia Vanger ở cửa sổ buồng Harriet. Anh cần nói chuyện với chị trước để báo chị biết rằng anh đặt chị vào một vị trí mà chị có thể bị nghi ngờ về một điều gì ở đó.
Lông mày Frode cau rúm lại suy nghĩ.
- Anh thật sự nghĩ vụ giết Rebecka là có liên quan gì đó với chuyện Harriet mất tích chứ?
- Xem có vẻ thì như là không, nhưng sự thật là Harriet đã viết hai chữ tắt R.J. trong sổ ngày tháng của cô ấy bên cạnh các quy chiếu đến luật của Kinh Cựu ước về việc hỏa thiêu để hiến tế. Rebecka Jacobsson bị thiêu chết. Có một mối liên hệ với nhà Vanger mà không thể tránh né được – đó là cô ta làm việc cho tập đoàn.
- Nhưng liên quan với Harriet ở cái gì mới được chứ?
- Tôi chưa biết. Nhưng tôi muốn tìm ra. Tôi sẽ nói ông mọi cái mà tôi đã nói với Henrik. Ông phải quyết định thay cho ông ấy.
- Có lẽ chúng ta phải báo cảnh sát.
- Không. Ít nhất phải được phép của Henrik đã. Vụ Rebecka đã hết thời hiệu rồi, điều tra của cảnh sát cũng đã đóng lại. Họ không đời nào đi mở lại một cuộc điều tra đã thôi từ năm mươi tư năm về trước.
- Đúng. Vậy anh định làm gì?
Blomkvist đi một vòng quanh bếp.
- Thứ nhất, tôi muốn lần theo manh mối bức ảnh này. Nếu tôi xem được cái mà Harriet đã trông thấy… thì nó có thể là cái chìa mở. Tôi cần một cái xe để đi Norsjo lần theo manh mối này, bất kể nó dẫn tôi đến đâu. Và tôi cũng muốn nghiên cứu từng khổ thơ trong Leviticus. Chúng ta có một móc xích với một vụ án mạng. Chúng ta có bốn khổ thơ, có thể là bốn đầu mối khác. Để làm việc này… tôi cần giúp đỡ.
- Anh cần giúp kiểu gì?
- Tôi thật sự cần một trợ lý nghiên cứu có lòng kiên nhẫn sục kỹ vào tất cả các hồ sơ báo chí cũ để tìm “Magda" và “Sara" và các tên khác. Nếu như tôi đúng khi nghĩ rằng Rebecka không phải là một nạn nhân.
- Anh định nói là anh muốn để một người nào đó tham gia…
- Có nhiều việc phải làm và cần nhanh. Nếu tôi là một sĩ quan cảnh sát liên quan đến một cuộc điều tra tích cực thì tôi sẽ chia thì giờ và tài lực ra và sẽ có người đào bới cho tôi. Tôi cần một người chuyên môn am hiểu công việc hồ sơ và có thể tin cậy được.
- Tôi hiểu… Tôi thật sự có biết một chuyên gia nghiên cứu. – Frode nói và chưa kịp ngừng lại ông đã tiếp luôn. – Cô ta là người đã điều tra về quá khứ của ông.
- Ai làm cái gì cơ? – Blomkvist nói.
- Tôi buột miệng thôi. – Frode nói. – Không có gì cả. – “Mình già mất rồi", ông nghĩ.
- Ông nhờ ai điều tra về tôi?
- Không có gì quan trọng cả, Mikael. Chúng tôi muốn mướn anh thì chúng tôi cần kiểm tra xem anh là người thế nào thôi.
- Thảo nào mà Henrik biết là tìm được tôi chính xác ở đâu. Điều tra ấy kỹ đến mức nào?
- Khá là kỹ.
- Nó có nhòm vào các vấn đề của Millennium không?
Frode nhún vai.
- Nó có một ý nghĩa.
Blomkvist châm thuốc lá, điếu thứ năm của hôm nay.
- Một báo cáo viết ư?
- Mikael, không có gì để phải bận tâm về nó đâu mà.
- Tôi muốn đọc bản báo cáo. – Anh nói.
- Ô thôi, toàn là chuyện thường thường cả. Chúng tôi muốn kiểm tra về anh trước khi mướn.
- Tôi muốn đọc bản báo cáo. – Blomkvist nhắc lại.
- Tôi không thể cho phép việc đó.
- Thật ư? Vậy thì tôi sẽ nói với ông điều này: Hoặc trong một giờ tôi có báo cáo đó trong tay hoặc tôi bỏ tất. Tôi sẽ đi chuyến tàu tối trở về Stockholm. Bản báo cáo ấy đâu?
Hai người nhìn nhau một lúc. Rồi Frode thở dài quay đi.
- Ở văn phòng tôi, tại nhà.
Frode đã quan trọng hóa lên ghê gớm. Phải tới 6 giờ tối hôm ấy Blomkvist mới cầm được bản báo cáo của Lisbeth Salander. Nó dài gần tám chục trang, cộng vài chục ảnh, những bài báo và các ghi băng khác về các chi tiết của đời sống và nghề nghiệp của anh.
Đọc chính ngay đời mình dưới dạng vừa có phần là tự truyện vừa có phần là do thám tình báo là một trải nghiệm kỳ lạ. Càng đọc anh càng ngạc nhiên với bản báo cáo làm sao mà chi tiết được đến thế. Salander đã đào bới lên những việc anh ngỡ đã bị vùi sâu lâu rồi ở trong mùn trong cặn của thời gian. Cô đã bới lên quan hệ thời trẻ của anh với một phụ nữ từng là một người hoạt động công đoàn rực lửa và nay là một chính trị gia. Cô ta đã nói chuyện với ai đây? Cô ta đã tìm ra băng nhạc rock Bootstrap của anh, điều mà chắc chắn nay chả còn ai nhớ nữa. Cô đã soi vào tài khoản của anh chi li cho đến đồng xu cuối cùng. Cái quỷ gì mà cô ta lại làm được như thế chứ?
Là nhà báo, Blomkvist đã từng bỏ nhiều năm ra săn thông tin về những người khác và anh có thể đánh giá được chất lượng của việc săn lùng này thuần túy chỉ ở trên lập trường nghiệp vụ. Rõ ràng cái cô Salander này là một dân điều tra siêu thủ đây. Nếu phải tìm hiểu về một người hoàn toàn xa lạ thì chính anh cũng khó có thể làm được bản báo cáo chi tiết đến vậy. Bản báo cáo cũng làm cho anh sáng ra là chả có lý do gì khiến cho anh và Berger cứ phải giữ kẽ trước mặt Henrik Vanger; ông đã biết tới quan hệ của hai người. Bản báo cáo còn đi tới chỗ đánh giá chính xác đến mức phiền toái hoàn cảnh tài chính của Millennium; lần đầu tiếp xúc với Berger, Henrik đã biết tỏng tình trạng của tờ tạp chí lung lay ra sao. Ông ta đang chơi trò gì đây?
Vụ Wennerstrom đã được tóm tắt lại nhưng rõ ràng bất cứ ai viết báo cáo này đều phải là một người dự phiên tòa. Bản báo cáo thắc mắc việc Blomkvist từ chối bình luận trong phiên tòa. Người đàn bà này thông minh đây.
Ngay giây phút sau đó, Blomkvist đã bổ chửng ra, không tin nổi con mắt mình. Salander đã viết một đoạn ngắn đưa ra những đánh giá của cô về điều sẽ xảy ra sau phiên tòa. Cô đã cho nhắc lại từng lời một bản thông cáo báo chí nói rằng anh và Berger đã đầu hàng sau khi anh từ chức chủ bút của Millennium.
Nhưng cô ta đã dùng chữ nghĩa độc đáo của mình. Anh lại liếc vào bìa bản báo cáo. Nó được thảo ra ba hôm trước ngày tòa nghị án Blomkvist. Thật là không thể nào có được. Lúc ấy thông cáo báo chí chỉ tồn tại có ở một nơi trên toàn thế giới. Là ở trong máy tính của Blomkvist. Ở trong iBook của anh, và không ở trong máy tính của văn phòng. Bản báo cáo không bao giờ được in ra. Bản sao Berger cũng không có, tuy hai người đã nói đến vấn đề này.
Blomkvist đặt bản báo cáo của Salander xuống. Anh mặc jacket vào và đi ra ngoài vào trong đêm, trước lễ Giữa Mùa hè một tuần, đêm rất sáng. Anh đi dọc bờ của eo biển, qua cơ ngơi của Cecilia Vanger và chiếc thuyền máy lộng lẫy ở bên dưới biệt thự của Martin Vanger. Anh bước thong thả, vừa đi vừa ngẫm nghĩ. Cuối cùng anh ngồi lên một tảng đá nhìn ánh sáng nhấp nháy của phao chỉ đường trong vịnh Hedestad. Chỉ có duy nhất một kết luận mà thôi.
- Cô đã vào máy tính của tôi, cô Salander. – Anh nói to lên. – Cô là một hacker chết rấp.
--- ------ ------ ------ -------
1 Pentateuch là năm quyển trong Kinh Cựu ước
18
Thứ Tư, 18 tháng Sáu
Salander giật mình tỉnh dậy sau một giấc ngủ không mộng mị. Không phải quay đầu cô cũng biết Mimmi đã đi làm nhưng mùi của cô ta vẫn lẩn quất trong không khí ngột ngạt của phòng ngủ. Đêm qua Salander đã uống quá nhiều bia với nhóm. Những Ngón tay Tội lỗi ở Mill, Mimmi đã hiện ra không lâu trước giờ đóng cửa rồi cùng với cô về nhà và lên giường.
Không giống Mimmi, Salander không bao giờ nghĩ mình là một đồng tính nữ. Cô không bao giờ loay hoay nghĩ xem mình là bình thường, đồng tính nữ hay là cả nữ lẫn nam. Cô không thèm bận tâm đến những cách gọi ấy, hàng đêm cô ngủ với ai là việc của cô. Nếu phải chọn thì cô thích bọn con trai hơn – và xét theo thống kê thì bọn chúng là vai chính. Vấn đề duy nhất là tìm ra một đứa không phải là một thằng cả ngố và tốt được cả ở trên giường. Mimmi là một thỏa hiệp ngon lành. Hai người gặp nhau ở một lều vải bán bia trong Liên hoan Tự hào năm ngoái. Và Mimmi là người duy nhất mà Sanlander giới thiệu vào Những Ngón tay Tội lỗi. Nhưng nó vẫn chỉ là một chuyện phất phơ với cả hai. Nằm sát vào thân người ấm, mềm mại của Mimmi thì thích nhưng Sanlander không thiết thức dậy cùng với Mimmi rồi ăn điểm tâm với nhau.
Đồng hồ cho biết là 9 rưỡi và cô đang nghĩ xem cái gì đã đánh thức cô thì chuông cửa réo. Cô ngạc nhiên ngồi lên. Không ai bấm chuông vào nhà cô giờ này xưa nay. Rất ít người bấm chuông nhà cô thật. Cô quấn một mảnh vải quanh người rồi uể oải đi ra gian sảnh để mở cửa. Cô va ngay phải mắt Mikael Blomkvist, cảm thấy sự hoảng hốt chạy qua người, cô lùi lại một bước.
-Chào cô Salander. – Anh chào cô nồng nhiệt. – Đêm ngủ muộn, tôi thấy mà, tôi có vào được không?
Không đợi cô trả lời, anh đi ngay vào, đóng cửa lại. Anh tò mò nhìn chồng quần áo ở trên sàn gian sảnh và một bức tường thành những ba lô nhồi đầy báo; rồi anh nhòm qua cửa phòng ngủ trong khi thế giới của Salander bắt đầu quay tít vào một phương hướng sai. Sao đây? Cái gì? Ai? Blomkvist thú vị nhìn vẻ hoang mang của cô.
-Tôi cho là cô chưa ăn điểm tâm cho nên đã mang đến vài ổ bánh mì có nhân đây. Tôi có một cái với thịt bò quay, m
Thứ Ba, 10 tháng Sáu
Sau sáu tháng nghiền ngẫm không hiệu quả, vụ Harriet bỗng nứt rạn. Tuần đầu tháng Sáu, Blomkvist phát hiện ra ba miếng mới toanh trong bảng ghép hình. Hai trong ba miếng đó la anh tìm ra. Miếng thứ ba có người giúp.
Sau lần Berger đến thăm vào tháng Năm, anh lại nghiên cứu quyển album lần nữa, ngồi hàng ba giờ đồng hồ liền, xem lần lượt từng tấm ảnh một, cố phát hiện thêm những chi tiết đã từng gây ấn tượng cho anh. Vẫn không ăn thua cho nên anh để quyển album sang bên và quay về với quyển biên niên của gia đình.
Một hôm vào tháng Sáu, ở Hedestad anh đang nghĩ đến một chuyện hoàn toàn khác thì chiếc xe buýt nhỏ chở anh rẽ vào Jarnvagsgatan và cái điều đang ủ mầm trong đầu anh bỗng hiện ra như sét đánh giữa trời xanh. Anh thấy bàng hoàng đến nỗi cứ đứng đực ra ở trên xe buýt cho tới tận trạm đỗ sau cạnh ga xe lửa. Anh bắt ngay chuyến xe buýt đầu tiên quay về Hedeby để kiểm tra xem anh nhớ có đúng hay không.
Đó là bức ảnh đầu tiên trong album, bức Harriet Vanger chụp lần cuối cùng vào cái ngày định mệnh ấy, ở Jarnvagsgatan tại Hedestad trong khi cô đang xem cuộc diễu hành của Ngày Trẻ con.
Bức ảnh này là một bức lạ lùng đã được cho vào album. Nó được để vào đây vì nó được chụp cùng ngày hôm ấy, nhưng nó là bức duy nhất không phải về tai nạn xe trên cầu. Mỗi lần Blomkvist và mỗi ai khác (anh cho là vậy) xem quyển album thì sự chú ý đều bị hút mất vào con người và các chi tiết trong các bức ảnh của cây cầu. Không có kịch tính nào trong bức ảnh về một đám đông tại cuộc diễu hành Ngày Trẻ Con, vài giờ trước đó.
Blomkvist xem bức ảnh dễ có đến cả nghìn lần, một việc làm nó cứ gợi cho anh đau buồn nhớ rằng anh sẽ không còn bao giờ thấy lại cô gái nữa.
Nhưng Blomkvist không phản ứng lại với điều đó.
Nó được chụp từ bên kia đường, chắc là từ một cửa sổ tầng hai. Ống kính mở ở góc độ rộng nên đã chụp được mũi đằng trước của một trong những con thuyền diễu hành. Trên thuyền là những phụ nữ mặc những bộ đồ bơi lấp lánh hay những quần áo của cung tần thị nữ, ném kẹo xuống cho đám đông. Một số người trong họ nhảy múa. Ba anh hề nhảy nhót ở trước mũi con thuyền.
Harriet ở trong hàng đầu của đám đông đứng trên đường lát đá. Cạnh cô là ba cô gái, rõ ràng là bạn học của cô, và ít nhất một trăm người xem khác ở quanh và sau lưng họ.
Từ trong tiềm thức Blomkvist đã lưu lại điều này và khi chiếc xe buýt đi qua vào đúng chỗ ấy thì nó chợt bừng tỉnh.
Đám đông cũng giống như một công chúng khán, thính giả vậy. Mắt họ dõi theo quả bóng trên sân tennis hay quả cầu trên mặt băng đánh khúc côn cầu. Những người ở đầu cùng bên trái bức ảnh nhìn những anh hề ngày đằng trước mặt họ. Những người ở gần con thuyền hơn thì đều nhìn vào những cô gái ăn mặc hở hang. Vẻ mặt của họ bình thản. Trẻ con chỉ trỏ. Một vài người cười toe toét. Nom đều vui vẻ.
Trừ một.
Harriet lại nhìn chéo sang bên. Ba cô bạn và những người khác ở quanh cô đều đang nhìn những anh hề. Mặt Harriet quay đi gần đến 30, 35 độ sang bên phải. Mắt cô như đang tập trung vào một cái gì ở bên kia đường nhưng ở ngoài rìa trái của bức ảnh.
Blomkvist lấy kính phóng to ra cố cho nổi rõ mọi chi tiết. Bức ảnh chụp từ một khoảng cách quá xa khiến cho anh không thể cầm chắc hoàn toàn nhưng không như mọi người ở xung quanh, mặt Harriet không hớn hở. Miệng cô thành một đường ngang mỏng. Mắt cô mở to. Hai tay buông thõng vô hồn. Cô nom có vẻ sợ. Sợ hay giận dữ.
Blomkvist lấy bức ảnh in ở album ra cho vào một cặp nhựa cứng rồi chờ chuyến xe buýt sau quay về Hedestad. Anh xuống xe ở Jarnvagsgatan, đứng ở dưới cái cửa sổ là nơi có thể đã chụp bức ảnh kia. Nó là ở rìa của trung tâm thị trấn Hedestad. Đó là một tòa nhà gỗ ba tầng, trong là cửa hàng video cùng với hiệu Haberdashery của Sundstrom thành lập năm 1932 theo như ghi trên tấm biển ở trên cổng chính. Anh đi vào, thấy cửa hàng là ở trên tầng ba, có một cầu thang xoáy trôn ốc đưa lên tầng thượng.
Hai cửa sổ trên đỉnh cầu thang xoáy trôn ốc nhìn ra phố.
- Tôi có thể giúp gì ông không? – một nhân viên bán hàng có tuổi hỏi khi anh lấy cái cặp nhựa cùng tấm ảnh ra. Chỉ có vài ba người trong cửa hàng.
- Tôi chỉ muốn xem bức ảnh này được chụp ở chỗ nào. Tôi mở cửa sổ ra một lát thôi có được không ạ?
Người đàn ông nói có thể được. Vậy là Blomkvist có thể trông thấy chính xác cái chỗ Harriet đã đứng. Một trong những tòa nhà gỗ ở đằng sau cô đã không còn, thay vào là một tòa nhà góc cạnh. Tòa nhà gỗ khác từng là một cửa hàng bán văn phòng phẩm năm 1966 thì nay là một cửa hàng bán thực phẩm bổ dưỡng và một tiệm săn sóc da. Blomkvist đóng cửa sổ lại, cảm ơn người nhân viên và xin lỗi đã làm mất thì giờ của ông.
Anh qua đường và đứng vào chỗ Harriet đã đứng. Anh đã có được những cột mốc ở giữa cửa sổ của tầng thượng nhà Haberdashery và cửa ra vào cửa tiệm săn sóc da. Anh quay đầu và nhìn theo hướng nhìn của Harriet. Cô gái nhìn về góc của tòa nhà có cửa hiệu Haberdashery, một cái góc hoàn toàn bình thường của một tòa nhà, nó che khuất một ngã tư phố. Harriet, chị nhìn thấy cái gì ở đằng ấy đấy?
Blomkvist cho bức ảnh vào trong ba lô rồi đi đến quảng trường gần ga. Anh bước vào một quán cà phê vỉa hè. Anh bỗng thấy hồi hộp.
Ở tiếng Anh họ gọi đó là “bằng chứng mới", rất khác với tiếng Thụy Điển: "vật liệu chứng minh mới". Anh đã nhìn thấy một cái hoàn toàn mới, một cái mà trong suốt cuộc điều tra kéo dài ba mươi bảy năm, không ai khác ngoài anh đã để ý thấy.
Vấn đề là anh không chắc cái thông tin mới này của anh nó có giá trị gì nếu quả như có một giá trị nào đấy. Nhưng anh cảm thấy sắp chứng minh được là nó có ý nghĩa.
Cái ngày tháng Chín mà Harriet mất tích kia đã thành ra quan trọng ở nhiều mặt. Nó là ngày lễ Hedestad với một đám đông hàng nghìn người, trẻ già, trên đường phố. Nó là ngày gia đình gặp mặt ở trên đảo Hedeby. Riêng hai việc ấy đã làm cho khu vực này ra khỏi nếp sống quen thuộc của nó. Vụ đâm xe đã che khuất đi mất mọi chuyện khác.
Sĩ quan cảnh sát Morell, Henrik Vanger và những người khác từng nghiền ngẫm về vụ Harriet mất tích đã tập trung chú ý vào đảo Hedeby. Morell thậm chí viết ông không sao dứt đi nỗi nghi ngờ rằng hai vụ mất tích và đâm xe là có dính líu đến nhau. Nay Blomkvist tin rằng ông đã nghĩ sai.
Dây chuyền sự việc không phải bắt đầu ở trên đảo Hedeby mà là ở Hedestad trước đó vài giờ. Harriet đã trông thấy một cái gì khiến cô khiếp sợ và giục giã cô về nhà, đi thẳng đến nhà ông chú nhưng không may là ông chú lại không có thì giờ nghe cô. Rồi xảy ra tai nạn xe trên cầu. Rồi tên giết người giáng đòn xuống.
Blomkvist nghĩ ngợi. Đây là lần đầu tiên anh có ý thức nói ra thành lời cái ý nghĩ cho rằng Harriet bị ám sát. Anh chấp nhận niềm tin của Henrik, Harriet đã chết và anh đang săn lùng một kẻ giết người.
Anh quay lại với các báo cáo của cảnh sát. Trong cả nghìn trang giấy chỉ có một phần xét đến các sự kiện ở Hedestad. Harriet đã ở đây với ba cô bạn học, cả ba đều đã được thẩm vấn. Họ đã gặp nhau ở quảng trường gần ga lúc 9 giờ. Một cô còn mua quần jean và có các bạn đi cùng. Các cô đã uống cà phê ở quán cà phê của nhà hàng EPA rồi đi thẳng đến sân vận động, loăng quăng trong những lán của liên hoan hóa trang và các ao câu cá, ở đấy họ lại tình cờ gặp một số bạn khác ở trường. Trưa họ dễu dện về lại thị trấn để xem diễu hành. Ngay trước 2 giờ chiều, Harriet thình lình bảo họ cô phải về nhà. Họ chia tay nhau ở bến xe gần Jarnvagsgatan.
Không cô bạn nào của cô để ý thấy có điều gì khác thường. Một trong họ, Inger Stenberg, người đã tả sự thay đổi của Harriet trong năm trước bằng câu nói rằng cô ấy đã rất “bàng quan cuộc sống". Cô nói hôm ấy Harriet lì xì, không bình thường, phần lớn là làm theo người khác.
Sĩ quan Morell đã nói chuyện với tất cả những ai gặp Harriet hôm ấy, cho dù họ chỉ là chào nhau nhân có cuộc gặp mặt của gia đình. Một bức ảnh của cô đã được đăng trên tờ báo địa phương khi cuộc tìm kiếm đang tiếp diễn. Sau khi cô gái mất tích, mấy người dân ở Hedestad đã gặp cảnh sát để nói họ đã trông thấy cô gái trong hôm diễu hành, nhưng không ai báo được gì khác thường cả.
Sáng hôm sau, Blomkvist tìm Henrik Vanger ở bàn ăn điểm tâm của ông.
- Ông nói gia đình Vanger vẫn có một món lãi trong tờ Hedestad Courier?
- Đúng.
- Tôi muốn xem hồ sơ ảnh của nó. Từ 1966.
Vanger đặt cốc sữa xuống, lau miệng rồi hỏi:
- Mikael, anh đã phát hiện ra cái gì rồi?
Anh nhìn thẳng vào mắt ông già.
- Không có gì là chắc chắn. Nhưng tôi nghĩ chúng ta đã bị lầm cả một chuỗi các sự kiện.
Anh đưa cho ông già xem bức ảnh và nói những điều anh đang suy nghĩ. Vanger ngồi nghe im lặng một hồi lâu.
- Nếu tôi đúng, chúng ta cần phải nhìn xa tới những gì đã xảy ra ở Hedestad hôm ấy chứ không phải chỉ ở đảo Hedeby. – Blomkvist nói, - Tôi không biết làm chuyện đó như thế nào sau một thời gian quá dài như vậy nhưng nhiều ảnh chắc là đã được chụp trong Ngày Trẻ con mà chưa đăng lên bao giờ. Tôi muốn xem các bức đó.
Vanger dùng điện thoại trong bếp. Ông gọi Martin, nói rõ ông muốn gì và hỏi ai là biên tập viên ảnh hôm ấy. Trong mười phút đã xác định được người cần tìm và thu xếp xong việc tìm trong hồ sơ ảnh.
Biên tập viên ảnh của tờ Hedestad Courier là Madeleine Blomberg, thường gọi là Maja. Chị là nữ biên tập viên ảnh đầu tiên mà Blomkvist gặp trong nghề báo, nơi mà nhiếp ảnh trước hết vẫn được coi là loại hình thức nghệ thuật dành cho đàn ông.
Do là chủ nhật, tòa soạn vắng tanh nhưng Maja Blomberg lại sống cách đấy có năm phút, chị gặp Blomkvist ở cổng tòa báo. Chị làm cho Hedestad gần hết đời mình. Chị bắt đầu làm người đọc bản in thử năm 1964, đổi sang làm việc in tráng ảnh và đã qua nhiều năm tháng trong buồng tối, thỉnh thoảng có được cử ra ngoài làm phóng viên ảnh khi nguồn ảnh quen thuộc không đủ. Chị lên được chức biên tập viên, kiếm được một ghế chính thức ở bộ phận ảnh tại tờ báo, mười năm trước, khi người biên tập viên ảnh về hưu, chị tiếp quản vai trưởng ban ảnh.
Blomkvist hỏi hồ sơ ảnh ở đây sắp đặt thế nào.
- Nói thật với anh, hồ sơ khá là lộn xộn. Từ khi chúng tôi có máy tính và ảnh kỹ thuật số thì hồ sơ là ở trong các đĩa. Chúng tôi có một nhân viên tập sự ở đây quét các bức ảnh cũ quan trọng hơn, chỉ có một ít ảnh trong đống kho lộn xộn kia là đã được xếp loại. Các ảnh cũ hơn được xếp theo ngày tháng trong các hồ sơ âm bản. Chúng đang ở trong tòa soạn này hay ở trong nhà kho trên tầng áp mái.
- Tôi đang cần đến các ảnh chụp trong cuộc diễu hành Ngày Trẻ con năm 1966, nhưng kể cả bất cứ ảnh nào chụp trong tuần ấy.
Blomberg kỳ quặc nhìn anh.
- Anh muốn nói cái tuần Harriet Vanger mất tích chăng?
- Chị biết chuyện?
- Anh không biết chuyện ấy thì anh không làm ở đây cả đời được, sớm hôm nay là ngày nghỉ của tôi mà Vanger gọi là tôi đã rút ra kết luận. Có cái gì mới rồi thế?
Blomberg có cái mũi thính tin. Blomkvist mỉm cười lắc đầu rồi kể cho chị một câu chuyện hỏa mù.
- Không, tôi cho rằng không ai tìm ra được lời giải cho bài đố này đâu. Chuyện này khá riêng tư, nhưng sự thật là tôi đang viết tự truyện cho Henrik Vanger. Chuyện cô gái mất tích là một đề tài lạ nhưng nó là một chương thật sự không thể lờ đi. Tôi đang tìm một cái gì trước đây chưa được dùng đến mà lại có thể làm sáng tỏ cái ngày hôm ấy – về Harriet và các bạn của cô ấy.
Blomberg có vẻ nghi hoặc nhưng lời giải thích nghe hợp lý nên chị không hỏi thêm, vả chăng cũng là do chị đã biết vai trò của Blomkvist.
Một phóng viên nhiếp ảnh ở một tờ báo nhận chừng từ hai đến mười cuộn phim một ngày. Với các sự kiện lớn có thể gấp đôi. Mỗi cuộn được băm sáu âm bản và chỉ có một số ít trong đó được đăng lên mà thôi cho nên thường thường một tờ báo địa phương không tích quá ba trăm hình ảnh một ngày. Một ban ảnh giỏi tổ chức đem cắt rời các cuộn phim ra và để các âm bản ở trong một ống măng sông sáu khung ảnh. Một cuộn phim chiếm chừng một trang ở cặp hồ sơ âm bản. Một cặp hồ sơ giữ chừng 110 cuộn phim. Âm bản trong một năm được cất đầy trong chừng hai mươi tư cặp hồ sơ. Sau nhiều năm, một lượng lớn cặp hồ sơ đã tích lại và thường không có giá trị thương mại nên chúng được xếp đầy các ngăn giá của ban ảnh. Nhưng mỗi phóng viên ảnh và ban ảnh lại đinh ninh các bức ảnh đó đang chứa đựng một tư liệu lịch sử vô giá nên không vứt bất kì một tấm ảnh bao giờ.
Hedestad Courier thành lập năm 1922, bán ảnh thì tồn tại từ 1937. Kho ảnh trên tầng áp mái chứa chừng 1,200 cặp hồ sơ, dược Blomberg sắp xếp theo ngày tháng. Các âm bản của tháng Chín 1966 để ở trong bốn cặp lưu trữ bằng bìa các tông rẻ tiền.
- Chúng ta làm thế nào với những cái này nhỉ? – Blomkvist nói. - Tôi thật sự cần một cái bàn làng nhàng để ngồi sao lại những cái gì hay hay.
- Chúng tôi không còn buồng tối nữa rồi. Mọi cái đều đã cho scan. Anh có biết dùng máy scan âm bản không?
- Có, tôi đã làm và có riêng một máy scan âm bản Agfa. Tôi làm Photoshop trên máy tính.
- Vậy là anh dùng các thiết bị giống của chúng tôi.
Blomberg đưa anh đi một vòng quanh căn phòng nho nhỏ của ban ảnh, cho anh một chiếc ghế và một chiếc bàn gọn nhẹ rồi mở máy tính và máy scan hình. Chị chỉ cho anh chỗ máy cà phê trong khu căng tin. Họ nhất trí để Blomkvist tự làm lấy một mình nhưng khi nào anh muốn đi thì anh cần gọi chị để cho chị có thể đặt hệ thống báo động. Rồi chị chào “Thú vị nha!" và để anh ở lại.
Ngược trở lại giai đoạn ấy, Courier có hai phóng viên nhiếp ảnh. Người trực hôm ấy là Kurt Nylund và Blomkvist có quen biết anh ta. Vào năm 1966, Nylund chừng hai mươi tuổi. Rồi anh chuyển đến Stockholm trở thành một nhà nhiếp ảnh nổi tiếng vừa làm tự do vừa là nhân viên của Scanpix Thụy Điển ở Marieberg. Trong những năm 90, Blomkvist đã có những lần gặp Nylund khi Millennium còn dùng ảnh của Scanpix. Anh nhớ Nylund là một người xương xẩu góc cạnh, tóc thưa. Hôm diễu hành, Nylund dùng phim ánh sáng ngày, không nhanh quá, loại nhiều phóng viên ảnh tin tức thường dùng.
Blomkvist lấy ra các âm bản ảnh chàng Nylund trẻ tuổi chụp, đặt chúng lên bàn. Anh xem kĩ từng khuôn hình bằng một kính phóng đại. Đọc âm bản ảnh là một nghệ thuật đòi hỏi kinh nghiệm mà Blomkvist thì không có. Để quyết định ảnh có giá trị thông tin hay không anh phải rà quét từng hình ảnh và xem xét nó trên màn hình máy tính. Việc này phải mất hàng giờ. Cho nên anh xem lướt trước tất cả các bức ảnh mà anh có thể thấy ra điều gì lý thú ở đó.
Anh xem dần những bức chụp vụ tai nạn xe cộ mà bộ sưu tập ảnh của Henrik Vanger không đầy đủ. Người sao ảnh làm sưu tập – có thể là chính Nylund – đã bỏ ra khoảng ba chục bức hoặc bị lóa hoặc bị coi là kém chất lượng không đáng đăng báo.
Blomkvist tắt máy tính, cắm máy scan Agfa vào iBook của mình. Anh bỏ hai giờ để scan chỗ ảnh còn lại.
Có một bức đập ngay vào mắt anh tức khắc. Khoảng giữa 3 giờ 10 và 3 giờ 15 chiều, đúng vào lúc Harriet tan biến đi, một người đã mở cửa sổ của buồng cô. Vanger cố tìm mãi không ra đó là ai. Trên màn hình của Blomkvist có một bức ảnh mà chắc đã được chụp vào đúng vào lúc cửa sổ mở ra. Có một người và một bộ mặt lờ mờ không rõ. Anh quyết định scan hết các ảnh trước khi quay sang phân tích tỉ mỉ chi tiết bức ảnh này.
Rồi anh xem xét các ảnh về Ngày Trẻ con. Nylund đã để ra sáu cuộn phim, khoảng hai trăm lần chụp cho chuyện này. Có một dòng vô tận những trẻ con với những quả bóng, người lớn, sinh hoạt đường phố với những người bán xúc xích nóng, cuộc diễu hành, một nghệ sĩ trên sân khấu và một cuộc trao phần thưởng gì đó.
Blomkvist quyết định scan toàn bộ sưu tập. Sáu giờ sau, anh có một cặp giấy đựng chín chục ảnh nhưng anh sẽ còn phải quay lại nữa. 9 giờ anh gọi Blomberg, cảm ơn chị và đáp xe buýt về nhà ở đảo Hedeby.
9 giờ sáng Chủ nhật anh quay lại. Tòa soạn vẫn vắng khi Blomberg để anh vào. Anh không nhận ra đây là ngày lễ Whitsuntide trùng vào cuối tuần, và sẽ không có tờ báo nào cho tới thứ Ba hết. Anh bỏ cả ngày ra để scan ảnh. 6 giờ chiều vẫn còn lại bốn chục bức chụp Ngày Trẻ con. Blomkvist đã dò các âm bản và quyết định những bức cận cảnh mặt đám trẻ xinh xắn hay các bức tranh của một họa sĩ xuất hiện trên lễ đài không phải là mục tiêu chú ý của anh. Những cái anh cho scan là các ảnh về sinh hoạt đường phố và đám đông.
Blomkvist đi qua ngày lễ Whitsuntide với đống “vật liệu mới". Anh có mười phát hiện. Phát hiện đầu làm cho hết sức ngạc nhiên. Cái thứ hai làm cho tim anh đập rộn.
Cái thứ nhất là bộ mặt ở cửa sổ buồng Harriet Vanger. Ảnh hơi nhòe nên anh bỏ nó ra ngoài. Người chụp đứng ở trên đồi nhà thờ và hướng nhìn về cây cầu. Các tòa nhà lớn là bối cảnh. Blomkvist cắt cúp bức ảnh để chỉ còn lại cái cửa sổ rồi anh thử điều chỉnh độ sáng tối và tăng độ nét cho đến khi đạt tới chất lượng tốt nhất.
Kết quả là một bức ảnh lấm chấm gần như ngả trắng cho thấy một bức rèm, một phần cánh tay và một bộ mặt tròn tròn mờ nhạt ở bên trong gian phòng. Bộ mặt không phải của Harriet Vanger vốn tóc đen, còn người này tóc lại sáng màu hơn.
Không thể phân biệt rõ được các nên mặt nhưng anh chắc chắn đây là một phụ nữ, phần mặt sáng hơn tiếp tục xuống đến ngang vai chỉ ra một bộ tóc phụ nữ lượn sóng bồng bềnh và người phụ nữ này mặc quần áo sáng màu.
Anh tính chiều cao của người này với khung cửa sổ, đó là một phụ nữ cao chừng mét sáu.
Anh bấm sang các ảnh khác chụp sau vụ tai nạn thì thấy có một người hợp với miêu tả ở trong bức ảnh bên cửa sổ: cô Cecilia Vanger hai mươi tuổi.
Nylund đã chụp mười tám bức ở cửa sổ nhà Haberdashy Sundstrom. Harriet là cái thứ mười bảy trong đó. Blomkvist thừa nhận rằng các ảnh này đã được chụp trong vòng năm phút. Trong các ảnh đầu, ở trong khuôn hình, Harriet và các cô bạn đang đi xuôi phố xuống. Trong các ảnh 2 – 7 họ đứng yên xem diễu hành. Rồi họ chuyển chừng ba bốn mét xuống dưới phố. Trong bức cuối cùng, có lẽ được chụp sau một thời gian đã trôi qua thì không còn các cô gái nữa.
Blomkvist in một loạt ảnh trong đó anh lược bỏ đi nửa đầu của Harriet và gia công chúng để có được độ tương phản trắng đen tốt nhất. Anh để các bức ảnh này vào một hồ sơ riêng, mở chương trình đồ họa Graphic Converter và bắt đầu cho các ảnh lần lượt hiện lên, mỗi hình ảnh được hiện ra hai giây.
Harriet đến, hình ảnh với chiều nghiêng mặt. Harriet đứng lại, nhìn xuôi xuống dưới phố, Harriet mở miệng nói gì với các bạn, Harriet cười. Harriet giơ tay trái lên tai, Harriet mỉm cười. Harriet thình lình nom ngạc nhiên, mặt cô ở một góc 20 độ về bên trái camera. Mắt Harriet mở to và cô thôi cười. Miệng Harriet mím lại thành một đường mỏng. Mắt Harriet tập trung nhìn. Trên mặt cô có thể đọc được ra… cái gì đây? Buồn, sốc, giận dữ? Harriet cụp mắt xuống. Harriet đã đi.
Blomkvist quay đi quay lại trường đoạn này. Anh xác định khá mạnh mẽ cái lý lẽ vừa chợt đến với anh. Một cái gì đó xảy ra ở Jarnvagsgatan.
Harriet đã nhìn thấy một cái gì – một ai đó - ở bên kia đường phố. Phản ứng lại là cô thấy sốc. Cô gặp Henrik Vanger để nói chuyện riêng nhưng không được. Cô biến đi không một tăm tích.
Một cái gì đã xảy ra nhưng bức ảnh không nói rõ là gì.
2 giờ sáng thứ Hai Blomkvist ăn bánh kẹp và cà phê ở ghế dài trong bếp. Anh vừa nản lại vừa háo hức. Trái với chờ đợi anh đã đi tới được bằng chứng mới. Có điều là tuy nó rọi ánh sáng vào chuỗi sự kiện nhưng nó không đưa anh lại gần hơn tới bước giải được bí mật.
Anh nghĩ lung mãi về vai trò mà Cecilia Vanger có thể đã sắm ở trong vở bi kịch. Henrik Vanger lập biểu đồ về hoạt động của mọi người liên quan đến hôm đó, không chừa một ai và Cecilia cũng không là ngoại lệ. Chị đang sống ở Uppsala nhưng chị đến Hedeby hai hôm trước cái ngày định mệnh kia. Chị ở với Isabella Vanger. Chị từng nói có thể chị đã gặp Harriet sớm buổi sáng hôm đó nhưng không trực tiếp nói chuyện với Harriet. Chị không thấy Harriet ở đó, và chị quay về đảo Hedeby vào khoảng 1 giờ chiều, vào cái lúc Nylund chụp các ảnh kia ở Jarnvagsgatan. Chị thay quần áo và khoảng 2 giờ thì giúp bày biện bàn ghế cho bữa tiệc lớn tối hôm đó.
Tạo một bằng chứng ngoại phạm – nếu cần phải có – thì nó khá là yếu. Các khoảng thời gian là tương đối đúng, đặc biệt về thời gian chị trở lại đảo Hedeby, nhưng Henrik không tìm ra được điều gì cho thấy là chị nói dối. Cecilia là một trong những người nhà được ông chú Henrik thương nhất. Vả lại giờ chị đã là người tình của anh. Blomkvist khách quan sao nổi được cơ chứ? Anh chắc chắn không thể tưởng tượng ra chị lại là một kẻ giết người.
Bây giờ một bức ảnh mà cho đến nay không ai biết đang bảo với anh rằng chị đã nói dối khi bảo hôm ấy chị không vào phòng Harriet. Blomkvist rối đầu lên với cái ý tại sao chị lại phải dối trá như thế.
Và nếu chuyện đó em đã nói dối thì em còn có thể nói dối những gì khác nữa đây?
Anh soát lại trong đầu những điều anh đã biết về Cecilia. Một con người hướng nội rõ ràng là đã bị quá khứ tác động. Sống một mình, không có đời sống tình dục, khó gần gũi tiếp xúc với người đời. Giữ khoảng cách và khi đã buông lỏng thì không kìm hãm nổi. Chị đã chọn một người xa lạ làm người tình. Nếu chị phải kết thúc chuyện đó thì là vì chị không thể sống với cái ý nghĩ rằng anh sẽ bất ngờ đi khỏi đời chị cũng như khi anh bất ngờ hiện ra. Blomkvist cho rằng chị dám mở ra câu chuyện yêu đương với anh thì chính xác là vì anh chỉ ở đây có một thời gian. Chị không phải lo anh về lâu dài sẽ làm cho đời chị thay đổi đi bằng một cách nào đó.
Anh thở dài và gạt môn tâm lý học nghiệp dư sang một bên.
Trong đêm ấy, anh có cái phát hiện thứ hai. Chìa khóa cho bí mật này là điều Harriet đã trông thấy ở Hedestad. Anh sẽ không tìm ra cái đó trừ phi anh sáng chế ra được một cỗ máy thời gian hay đứng ở ngay đằng sau cô gái, nhìn qua vai cô.
Và thế rồi một ý đã nảy ra. Anh vỗ trán rồi mở iBook. Anh bật mở các bức ảnh chưa cắt cúp trong xê ri ảnh chụp ở Jarnvagsgatan ra thì… đây!
Đằng sau Harriet và ở bên phải cô chừng non một mét là một cặp trẻ tuổi, người đàn ông mặc áo len kẻ sọc, người phụ nữ mặc áo jacket lơ nhạt. Người đàn bà cầm máy ảnh. Khi Blomkvist phóng to bức ảnh, thì đó là một chiếc Khôngdak Instamatic chụp lấy liền có đèn – một máy ảnh làm quà rẻ tiền vào Noel cho những người không biết gì về nhiếp ảnh. Người phụ nữ cầm máy ảnh ở ngang cằm. Rồi chị ta giơ lên chụp đám hề đúng vào lúc Harriet thay đổi vẻ mặt. Blomkvist so vị trí chiếc máy ảnh với hướng nhìn của Harriet. Người phụ nữ chụp đúng cái thứ mà Harriet đang nhìn vào.
Tim anh đập loạn. Anh ngả lại đằng sau, cắm thuốc lá trượt cả ra ngoài túi ngực. Ai đó đã chụp một bức ảnh. Anh làm sao nhận dạng và tìm ra nổi người phụ nữ? Anh có thể nắm được bức ảnh này của chị ta không? Cuộn phim ấy có được tráng rửa và nếu có thì liệu có còn lại các bức ảnh hay không?
Anh mở hồ sơ có các ảnh của Nylund chụp đám đông ra. Trong hai giờ sau anh phóng to từng bức và soi kĩ từng li một. Cho đến các bức cuối cùng anh không còn thấy cặp nam nữ này nữa. Nylund đã chụp một anh hề khác cầm bóng đứng cười hềnh hệch ở trước máy ảnh của anh. Các bức ảnh được chụp ở một bãi đỗ xe gần cửa ra vào sân vận động, nơi diễn ra các lễ hội. Chắc đã phải là sau 2 giờ chiều. Ngay sau đó Nylund được tin xe đâm nhau trên cầu và nhanh chóng kết thúc các chân dung của Ngày Trẻ con.
Người phụ nữ gần như ẩn đi nhưng người đàn ông áo len sọc vẫn thấy rõ, ở chiều nghiêng mặt. Ông ta cầm chùm chìa khóa trong tay và đang cúi xuống mở cửa một chiếc xe. Máy ảnh tập trung vào anh hề đứng ở đằng trước và chiếc xe thì hơi bị mờ nhòa. Biển số bị che mất một phần nhưng anh có thể đọc thấy nó bắt đầu với “AC3". Biển số trong những năm 60 bắt đầu với một mã hiệu theo hạt và lúc bé, Blomkvist đã nhớ các mã hiệu hạt này “AC" cho Vasterbotten.
Rồi anh nhận ra một cái khác nữa. Trên cửa sổ đằng sau có một tờ quảng cáo gì đó. Anh phóng to thì dòng chữ nhòa đi không còn. Anh cắt rời tờ quảng cáo, điều chỉnh trắng đen, độ nét. Phải mất một lúc. Anh vẫn chưa đọc được phần có chữ viết nhưng anh dựa trên những hình mờ nhòa này mà hình dung ra các chữ đó. Nhiều chữ nom giống nhau kì lạ. Một chữ “O" có thể bị lầm thành “D" hay “B" hay “E", vân vân. Anh lấy giấy bút ra và sau khi loại đi một số chữ, anh còn lại được một bản viết không thể đọc ra, ở trong cùng một dòng.
R JO NI K RIFA RIK
Anh nhìn chăm chăm vào cái hình cho đến khi chảy nước mắt. Rồi anh xem chữ viết. “NORSJO SNICKERIFABRIK", tiếp theo sau là những con số cỡ bé hơn đến mức khó mà đọc ra nổi, chắc là số điện thoại.
17
Thứ Tư, 11 tháng Sáu
Thứ Bảy, 14 tháng Sáu
Blomkvist có được miếng thứ ba trong trò chơi ghép hình là nhờ một nguồn tin bất ngờ.
Sau khi làm việc với các bức ảnh thực tế gần như hết đêm anh ngủ một mạch tới chiều. Lúc thức dậy anh thấy đau đầu, anh tắm và đi đến quán Susanne ăn sáng. Anh còn phải đến Vanger để báo cáo anh đã phát hiện ra những gì. Thay vì, khi quay về, anh lại đến nhà Cecilia, gõ cửa. Anh cần hỏi chị sao đã nói dối anh về việc đã có ở trong phòng Harriet. Không ai ra cửa.
Vừa bỏ đi thì anh nghe thấy có tiếng nói:
- Con điếm của ông không ở nhà.
Một lão già hom hem, gớm ghiếc thò ra khỏi cái hang của lão. Lão ta từng có thời cao lớn gần hai mét, nhưng đã khòng đi vì tuổi tác. Và nay mắt lão chỉ ngang tầm với mắt Blomkvist. Mặt và cổ lão đầy những vết đồi mồi sẫm đen. Lão mặc bộ pyjama với một cái áo khoác nâu, chống gậy nên càng thêm quái dị.
- Ông vừa nói gì vậy?
- Tôi bảo con điếm của ông không ở nhà.
Blomkvist sấn lên, mũi anh gần như gí vào mũi ông già.
- Ông nói con gái của ông như thế ư, đồ con lợn bẩn thỉu!
- Tôi không phải người ban đêm lén lút đến đây. – Harald nói, cái miệng không răng nhe ra cười. Ở lão ta sặc mùi rồ dại. Blomkvist đi sạt qua Harald xuống đường không ngoái lại. Anh thấy Henrik Vanger ở trong văn phòng.
- Tôi vừa có hân hạnh được gặp anh trai ông. – Mikael nói.
- Harald? Tốt, tốt, thế hả, anh ấy đã liều đi ra ngoài. Mỗi năm anh ấy liều như thế một hai lần.
- Tôi đang gõ cửa nhà Cecilia thì có người ở đằng sau tôi nói: “Con điếm của ông không có nhà".
- Nghe thì là Harald đấy. – Henrik bình thản nói.
- Lạy Chúa, ông ta gọi con gái mình là điếm.
- Gọi như thế nhiều năm rồi. Vì thế mà hai bố con không trò chuyện với nhau nhiều.
- Sao ông ấy lại gọi như thế?
- Cecilia mất trinh năm hai mươi mốt tuổi, ngay ở Hedestad đây sau một chuyện tình mùa hè, sau năm Harriet mất tích.
- Rồi?
- Người đàn ông mà nó yêu ấy tên là Peter Samuelsson. Anh ta là trợ lý tài chính ở Tập đoàn Vanger. Một chàng trai xuất sắc. Hiện nay anh ta làm cho ABB. Kiểu người mà tôi khá tự hào là bố vợ nếu như Cecilia là con gái tôi. Harald đại loại đã kiểm tra dòng họ Samuelsson rồi phát hiện ra Peter có một phần tư máu là Do Thái.
- Trời đất!
- Toàn gọi là con điếm miết từ đấy.
- Ông ấy có biết tôi và Cecilia có…
- Chắc ai ở trong làng cũng biết chuyện đó trừ có Isabella, vì chẳng ai đầu óc lành lặn lại đi kể một cái gì cho bà ấy và nhờ trời bà ấy cũng khá là tốt để toàn lên giường từ 8 giờ tối. Mặt khác nghe nói Harald đang theo dõi mỗi bước chân đi của anh.
Blomkvist thộn mặt ngồi xuống.
- Ông nói ai cũng biết…
- Dĩ nhiên rồi…
- Mà ông không quan tâm?
- Mikael thân mến, đấy thật sự không phải việc của tôi.
- Cecilia ở đâu?
- Năm học đã hết. Hôm thứ Bảy nó đi London để thăm người em sau đó thì nghỉ ở… hừm… hừm… tôi nghĩ là ở Florida. Sẽ trở về chừng một tháng nữa.
Blomkvist nom lại càng ngu ngơ.
- Chúng tôi đã bập vào nhau phần nào trong một thời gian.
- Tôi biết nhưng không phải là việc của tôi. Công việc của anh đến đâu rồi?
Blomkvist rót cho mình một tách cà phê.
- Tôi nghĩ đã tìm ra được vài cái mới.
Anh lấy iBook ở trong ba lô ra rồi lần lượt đưa xê ri ảnh cho thấy Harriet đã phản ứng như thế nào ở Jarnvagsgatan. Anh nói rõ đã tìm thấy các khán giả khác như thế nào cùng với máy ảnh, xe của họ và quảng cáo của cửa hàng Đồ mộc Norsjo.
Khi anh nói xong, Henrik bảo muốn xem lại tất cả một lần nữa. Khi ông ngửng đầu lên khỏi máy tính, mặt ông xám ngoét. Blomkvist chợt hoảng hốt đặt một tay lên vai ông. Vanger hất tay anh ra rồi ngồi im một lúc.
- Anh đã làm được cái điều mà tôi cho là không thể làm được. Anh đã xoay ra được một cái gì hoàn toàn mới. Anh sẽ làm gì tới đây?
- Tôi sẽ tìm cái ảnh này, nếu như nó vẫn còn.
Anh không nói tới bộ mặt trong khung cửa sổ.
Harald Vanger quay về cái hang của ông ta thì Blomkvist đi ra. Khi rẽ ở góc nhà, anh thấy một ai đó khá lạ ngồi đọc báo ở cổng căn nhà gỗ của anh. Trong một tích tắc anh ngỡ là Cecilia nhưng cô gái tóc sẫm màu ở cổng là con gái anh.
- Chào bố. – Pernilla Abrahamsson nói.
Anh ôm con gái hồi lâu.
- Ở đâu mà vọt tới thế này?
- Ở nhà chứ còn ở đâu nữa. Con đang đi đến Skelleftea. Con ở lại một đêm được không?
- Dĩ nhiên là được chứ, nhưng làm sao con đến đây được?
- Thì mẹ biết bố ở đâu mà. Và con hỏi quán cà phê họ có biết bố đang ở đâu không. Bà chủ quán bảo con cách đi chính xác đến đây. Gặp con bố có vui không?
- Chắc chắn vui chứ. Vào đi. Con nên báo trước để bố mua một cái gì đó ăn ngon hay một thứ gì đó.
- Con bốc đồng dừng lại. Con muốn chào mừng bố ra tù về nhà nhưng bố không gọi bao giờ.
- Bố xin lỗi.
- Thôi mà. Mẹ bảo con tại sao bố luôn cứ chìm đắm vào trong ý nghĩ của bố.
- Mẹ bảo con như thế?
- Đại loại thế. Nhưng không quan trọng. Con vẫn yêu bố.
- Bố cũng yêu con nhưng con biết…
- Con biết chứ. Con nay đã khá là người lớn rồi mà.
Anh pha trà và mang bánh ngọt ra.
Con gái anh nói đúng. Cô chắc chắn không còn là một cô gái bé nhỏ nữa rồi; cô gần tới mười bảy, thực tế đã là một thiếu nữ. Anh phải biết thôi đối xử với cô như một đứa bé.
- Thế nó ra sao?
- Cái gì ra sao?
- Nhà tù ấy.
Anh cười thành tiếng.
- Con có tin không nếu bố nói cứ y như đi nghỉ có trợ cấp vậy, suốt ngày đêm con muốn nghĩ hay viết là tùy con?
- Con tin. Con cho rằng không có gì khác nhau nhiều lắm giữa nhà tù và nhà tu kín, con người ta thường đến nhà tu kín để ngẫm.
- Tốt, con đã đến. Bố hy vọng chuyện đó, bố thành con chim trong lồng, với con không thành vấn đề.
- Không hề nhé. Con tự hào về bố, hễ có cơ hội khoe bố vào tù vì cái điều mà bố tin là con không có chịu để lỡ đâu.
- Tin?
- Con thấy cô Erika Berger trên tivi mà.
- Pernilla, bố không phải là vô tội. Bố ân hận đã nói với con những chuyện từng xảy ra nhưng bố không bị kết tội oan. Dựa trên những cái mà tòa nghe nói đến trong phiên xét xử để ra quyết định.
- Nhưng bố không bao giờ nói đến phía của bố trong câu chuyện.
- Đúng, vì quay ra thế nào bố lại không có bằng chứng cơ chứ.
- OK, vậy trả lời con câu này: Wennerstrom có xấu không?
- Ông ta là một trong những tên vô lại xấu xa nhất mà bố chưa từng bao giờ chuyện trò cùng.
- Đủ hay cho con rồi. Con có quà cho bố đây.
Pernilla lấy ở trong túi xách ra một gói. Blomkvist mở ra và thấy một đĩa CD: Những giai điệu hay nhất. Pernilla biết đó là một trong những băng nhạc ông bố mình ưa thích nhất ngày xưa. Blomkvist cho đĩa vào iBook và cả hai cùng nghe Những giấc mơ êm đềm.
- Con đến Skelleftea làm gì?
- Lớp học Kinh thánh ở một trại hè cùng với giáo đoàn có tên là Ánh sáng Cuộc sống. – Pernilla nói, tựa hồ đó là sự lựa chọn rõ ràng nhất ở trên thế gian.
Blomkvist thấy một luồng lửa lạnh buốt chạy dọc xuống sống lưng anh. Anh nhận thấy con gái anh và Harriet Vanger mới giống nhau làm sao. Pernilla mười sáu, đúng cái tuổi của Harriet khi cô biến mất. Cả hai đều có những ông bố vắng mặt. Cả hai đều bị lôi cuốn đến sự cuồng tín tôn giáo của các giáo đoàn kỳ lạ - Harriet tới Pentecostals còn Pernilla thì tới một cái mầm mới nhú của một cái gì đó đúng là lập dị chẳng khác gì Tiếng nói Cuộc sống.
Anh không biết anh nên kiểm soát sự thích thú mới về tôn giáo của con gái anh như thế nào. Anh sợ ngăn cản vào quyền tự định đoạt của con gái. Đồng thời Ánh sáng Cuộc sống cũng chắc chắn là cái loại giáo phái mà anh sẵn sàng quật ngã không chút do dự ở trên tờ Millennium. Hễ có cơ hội là anh bàn chuyện này với mẹ của Pernilla ngay.
Pernilla ngủ vẹo cổ và một mình ở trên giường còn anh thì quấn chăn nằm ở trên ghế dài trong bếp. Bị sái cổ và đau mình mẩy, anh tỉnh dậy. Pernilla khăng khăng đòi đi nên anh làm điểm tâm và đi với con gái ra ga. Hai bố con có ít thì giờ nên mua cà phê ở siêu thị mini rồi ngồi trên ghế dài ở cuối sân ga chuyện gẫu về mọi thứ ở đời. Cho đến khi Pernilla nói:
- Bố không thích việc con đến Skelleftea sao?
Anh không thích.
- Không nguy hiểm đâu mà. Nhưng bố không theo đạo Cơ đốc, đúng không?
- À, muốn gì thì bố cũng không phải là một người ngoan đạo.
- Bố không tin Chúa?
- Bố không tin Chúa nhưng bố trọng việc con tin Chúa. Ai cũng có một cái gì để mà tin vào cả.
Tàu đến, hai bố con ôm nhau lâu cho tới khi Pernilla lên tàu. Một chân trên bậc lên xuống, cô quay lại.
- Bố, con sẽ không đổi đạo. Bố tin hay không, chuyện ấy không quan trọng với con, con luôn yêu bố. Nhưng con nghĩ bố nên nghiên cứu tiếp Kinh thánh đi.
- Sao con nói thế?
- Con thấy các câu bố trích dẫn ở trên tường. – Cô nói. – Nhưng ủ ê với căng đầu óc lên làm gì thế chứ hả bố? Hôn bố nhiều. Gặp nhau sau.
Cô vẫy tay rồi đi khuất. Anh đứng trên sân ga, thẫn thờ, nhìn con tàu kéo đi. Nó chưa kịp biến vào sau khúc quành, thì ý nghĩa đã bị chìm nghỉm mất.
Mikael nhào ra khỏi nhà ga. Phải gần một tiếng nữa chuyến xe buýt cuối cùng mới lăn bánh. Anh quá sốt ruột để có thể chờ lâu như thế. Anh ra trạm xe buýt tìm Hussein người lái có cái giọng Norrland.
Mười phút sau anh ở trong phòng làm việc của mình. Anh tính toán cái mẩu giấy để ở trên bàn:
Magda – 32016
Sara – 32109
R.J. – 30112
R.L. – 32027
Mari – 32018
Anh nhìn quanh phòng. Rồi anh nhận ra là anh có thể tìm được một cuốn Kinh thánh ở đây. Anh mang tờ giấy kia đi tìm các chìa khóa mà anh để trong một cái bát trên thành cửa sổ rồi rảo chân đi sang căn nhà gỗ của Gottfried. Tay anh thật sự run run khi anh cầm quyển Kinh thánh xuống khỏi giá sách.
Harriet không viết số điện thoại. Các con số chỉ các chương và khổ thơ trong Leviticus, quyển ba trong Pentateuch 1.
(Magda) Leviticus, 20:16
“Nếu một người đàn bà lại gần và nằm với một con thú thì ngươi phải giết người đàn bà cùng con thú; chúng phải bị xử chết, chúng phải bị nhuốm máu chính chúng".
(Sara) Leviticus, 21:9
“Nếu con gái của bất cứ thầy tế nào, tự làm ô uế nó bằng hành nghề đĩ thì cũng làm ô uế chính cả bố nó; đứa con gái sẽ bị lửa thiêu".
(R.J.) Leviticus, 1:12
“Và nó sẽ bị tùng xẻo cùng với đầu và mỡ của chính nó rồi thầy tế sẽ đặt chúng lên trên củi của ngọn lửa trên bàn thờ".
(R.L.) Leviticus, 20:27
“Một người đàn ông hay một người đàn bà làm đĩ hay phù thủy thì sẽ bị xử chết, chúng sẽ bị ném bằng đá, máu sẽ nhuốm người chúng".
(Mari) Leviticus, 20:18
“Nếu một người đàn ông nằm với một người đàn bà đang đau ốm và phơi trần truồng người đàn bà ra, làm lộ cái giếng của người đàn bà và người đàn bà cũng để lộ ra máu tháng của mình thì cả hai sẽ bị đồng loại ruồng bỏ".
Anh ra ngoài ngồi ở cổng mái. Mỗi khổ thơ ở trong cuốn Kinh thánh của Harriet đều được gạch dưới. Anh châm một điếu thuốc và nghe chim hót xung quanh.
Anh đã có các con số. Nhưng anh chưa có tên. Magda, Sara, Mari, R.J., R.L.
Trong khi đầu óc Blomkvist làm một cú nhảy đầy linh cảm thì một vực thẳm thình lình mở ra. Anh nhớ đến nạn nhân hỏa hoạn ở Hedestad mà sĩ quan điều tra Morell đã bảo với anh. Vụ của Rebecka xảy ra cuối những năm 40. Cô gái bị hiếp dâm và giết, đầu bị đặt lên trên đống than đá mốc meo. “Và nó sẽ bị tùng xẻo cùng với đầu và mỡ của chính nó rồi thầy tế sẽ đặt chúng lên trên củi của ngọn lửa trên bàn thờ". Rebecka. R.J. Họ của cô ta là gì?
Nhân danh Chúa Harriet đã dính líu vào chuyện gì đây?
Vanger đổ bệnh. Ông nằm trên giường khi Blomkvist gõ cửa. Nhưng Anna cho anh vào, bảo anh có thể thăm ông già vài phút.
- Bị cảm mùa hè ấy mà. – Vanger giải thích, sụt sịt. – Anh muốn gì?
- Tôi muốn hỏi một câu.
- Thế hả?
- Ông có nghe nói đến một vụ giết người xảy ra ở Hedestad vào một lúc nào đó hồi những năm 40 không? Một cô gái tên là Rebecka – đầu cô ta bị đặt trên lửa.
- Rebecka Jacobsson, - Henrik nói ngay, không ngập ngừng. Cái tên này tôi không bao giờ quên, tuy trong nhiều năm, tôi không nghe nhắc đến.
- Nhưng ông có biết vụ án mạng này?
- Thì biết chứ. Khi chết Rebecka Jacobsson hai mươi ba hay hai mươi tư tuổi. Phải là vào quãng… Đó là năm 1949. Người ta la hét quát tháo ghê gớm lắm, tôi cũng góp một phần nho nhỏ ở trong đó.
- Ông có góp?
- Ô có. Rebecka là ở trong bộ phận thư ký của chúng tôi, một cô gái được lòng dân và rất hấp dẫn. Nhưng sao anh lại hỏi chuyện này?
- Henrik, tôi không chắc lắm, nhưng có thể có một cái gì đó. Tôi sẽ phải nghĩ đến nơi đến chốn chuyện này.
- Anh đoán là giữa Rebecka với Harriet có một quan hệ gì đó ư? Đã gần… mười bảy năm chia cách hai người ấy rồi còn gì.
- Để tôi nghĩ và mai nếu ông khỏe hơn tôi sẽ đến gặp.
Ngày hôm sau Blomkvist không gặp Henrik. Ngay trước 10 giờ sáng khi đang ngồi ở bàn bếp đọc cuốn Kinh thánh của Harriet thì anh nghe thấy tiếng xe hơi phóng nhanh qua cầu. Anh nhòm qua cửa sổ thấy ánh đèn xanh nhay nháy của xe cứu thương.
Như linh tính báo trước, anh chạy ra ngoài. Chiếc xe cứu thương đỗ ở bên nhà Henrik Vanger. Đèn tầng trệt đều bật hết. Anh lao tới bậc tam cấp của cổng mái và thấy Anna đang run lẩy bẩy ở gian sảnh.
- Tim ông ấy, - bà nói. – Trước đây một lát ông ấy đánh thức tôi dậy, kêu là bị đau ở ngực. Rồi quỵ xuống.
Blomkvist quàng tay ôm người quản gia, vừa lúc các thầy thuốc đi ra với Henrik Vanger bất tỉnh ở trên một cái cáng. Martin Vanger nom căng thẳng ra mặt, đi ở đằng sau. Anh đã đi nằm thì Anna gọi.
Chân anh không bít tất sục vào đôi dép lê và anh cũng không đóng cả khóa quần. Anh khẽ chào Blomkvist rồi quay sang Anna.
- Tôi đi với ông đến bệnh viện. Gọi Birger và xem bà có liên hệ được với Cecilia ở London sáng nay không, - anh nói. – Và báo cả Dirch.
- Tôi có thể đến nhà Dirch. – Blomkvist nói. Anna gật đầu cám ơn.
Phải mất vài phút thì Frode ngái ngủ mới trả lời tiếng chuông cửa Blomkvist bấm.
- Tin xấu đây, Dirch. Henrik phải đi bệnh viện rồi. Hình như bị một cơn đau tim. Martin muốn tôi báo cho ông.
- Lạy Chúa. – Frode nói. Ông liếc đồng hồ - Thứ Sáu ngày 13. – Ông nói.
Phải đến sáng hôm sau, sau khi chuyện vắn với Dirch Frode qua di động và yên tâm rằng Vanger vẫn sống, Blomkvist mới gọi Berger cho tin đối tác mới của Millennium đã bị đưa đến bệnh viện vì một cơn đau tim. Không tránh khỏi là Berger đã buồn rầu và lo lắng nhận cái tin này.
Sắp tối thì Frode đến gặp anh để cho biết tình hình cụ thể của Henrik Vanger.
- Ông ấy sống nhưng còn mệt nhiều. Ông ấy bị một cơn đau tim nghiêm trọng và lại bị cả viêm nhiễm gì đó.
- Ông có gặp ông ấy không?
- Không. Ông ấy đang trong chế độ hồi sức cấp cứu. Martin và Birger hiện ngồi với ông ấy.
- Có qua khỏi được không?
Frode huơ huơ bàn tay.
- Ông ấy sống qua cơn đau tim, đó là tin vui. Tình hình Henrik là tốt nhưng ông ấy đã già. Chúng ta cứ chờ xem.
Họ ngồi im lặng, chìm trong suy nghĩ. Blomkvist pha cà phê. Frode nom rất không vui.
- Tôi cần hỏi ông là bây giờ chuyện sẽ thế nào. – Blomkvist nói.
Frode ngước lên nhìn.
- Ông vẫn cứ được thuê mướn, không có gì thay đổi. Việc này đã được quy định trong hợp đồng có giá trị đến cuối năm nay, dù Henrik sống hay chết thì vẫn thế.
- Không, tôi không có ý ấy. Tôi nghĩ là khi ông ấy vắng mặt thì tôi báo cáo với ai.
Frode thở dài.
- Mikael, anh biết rõ cũng như tôi mà, tất cả câu chuyện về Harriet chỉ là trò giải trí trong lúc nhàn rỗi của Henrik.
- Đừng nói thế, Dirch.
- Thế anh định nói gì?
- Tôi tìm ra bằng chứng mới. – Blomkvist nói. – Hôm kia tôi đã nói một ít với Henrik, tôi rất sợ là việc ấy đã góp phần làm cho ông ấy lên cơn đau tim thôi.
Frode nhìn anh với cái vẻ lạ lùng.
- Anh nói đùa, anh chắc…
Blomkvist lắc đầu.
- Trong ít ngày qua, tôi đã tìm ra một vài chứng cớ có ý nghĩa về việc Harriet mất tích. Tôi lo là chúng ta chưa bàn tới việc tôi sẽ báo cáo với ai khi Henrik không còn ở đây.
- Anh báo cáo với tôi.
- OK. Tôi sẽ cứ theo như thế mà tiếp tục. Tôi có thể cho ông thấy qua tình hình bây giờ chứ?
Blomkvist cố hết sức nói cho cụ thể những gì anh đã tìm thấy và cho Frode xem xê ri ảnh ở Jarnvagsgatan. Rồi anh giải thích việc con gái anh đã giải mã bí mật những cái tên trong cuốn sách có ngày tháng như thế nào. Cuối cùng anh đề nghị, như anh đã đề nghị với Vanger ngày hôm trước, gắn vụ Harriet vào với vụ giết chết Rebecka Jacobsson năm 1949, R.J.
Điều duy nhất anh giữ cho riêng anh là khuôn mặt của Cecilia Vanger ở cửa sổ buồng Harriet. Anh cần nói chuyện với chị trước để báo chị biết rằng anh đặt chị vào một vị trí mà chị có thể bị nghi ngờ về một điều gì ở đó.
Lông mày Frode cau rúm lại suy nghĩ.
- Anh thật sự nghĩ vụ giết Rebecka là có liên quan gì đó với chuyện Harriet mất tích chứ?
- Xem có vẻ thì như là không, nhưng sự thật là Harriet đã viết hai chữ tắt R.J. trong sổ ngày tháng của cô ấy bên cạnh các quy chiếu đến luật của Kinh Cựu ước về việc hỏa thiêu để hiến tế. Rebecka Jacobsson bị thiêu chết. Có một mối liên hệ với nhà Vanger mà không thể tránh né được – đó là cô ta làm việc cho tập đoàn.
- Nhưng liên quan với Harriet ở cái gì mới được chứ?
- Tôi chưa biết. Nhưng tôi muốn tìm ra. Tôi sẽ nói ông mọi cái mà tôi đã nói với Henrik. Ông phải quyết định thay cho ông ấy.
- Có lẽ chúng ta phải báo cảnh sát.
- Không. Ít nhất phải được phép của Henrik đã. Vụ Rebecka đã hết thời hiệu rồi, điều tra của cảnh sát cũng đã đóng lại. Họ không đời nào đi mở lại một cuộc điều tra đã thôi từ năm mươi tư năm về trước.
- Đúng. Vậy anh định làm gì?
Blomkvist đi một vòng quanh bếp.
- Thứ nhất, tôi muốn lần theo manh mối bức ảnh này. Nếu tôi xem được cái mà Harriet đã trông thấy… thì nó có thể là cái chìa mở. Tôi cần một cái xe để đi Norsjo lần theo manh mối này, bất kể nó dẫn tôi đến đâu. Và tôi cũng muốn nghiên cứu từng khổ thơ trong Leviticus. Chúng ta có một móc xích với một vụ án mạng. Chúng ta có bốn khổ thơ, có thể là bốn đầu mối khác. Để làm việc này… tôi cần giúp đỡ.
- Anh cần giúp kiểu gì?
- Tôi thật sự cần một trợ lý nghiên cứu có lòng kiên nhẫn sục kỹ vào tất cả các hồ sơ báo chí cũ để tìm “Magda" và “Sara" và các tên khác. Nếu như tôi đúng khi nghĩ rằng Rebecka không phải là một nạn nhân.
- Anh định nói là anh muốn để một người nào đó tham gia…
- Có nhiều việc phải làm và cần nhanh. Nếu tôi là một sĩ quan cảnh sát liên quan đến một cuộc điều tra tích cực thì tôi sẽ chia thì giờ và tài lực ra và sẽ có người đào bới cho tôi. Tôi cần một người chuyên môn am hiểu công việc hồ sơ và có thể tin cậy được.
- Tôi hiểu… Tôi thật sự có biết một chuyên gia nghiên cứu. – Frode nói và chưa kịp ngừng lại ông đã tiếp luôn. – Cô ta là người đã điều tra về quá khứ của ông.
- Ai làm cái gì cơ? – Blomkvist nói.
- Tôi buột miệng thôi. – Frode nói. – Không có gì cả. – “Mình già mất rồi", ông nghĩ.
- Ông nhờ ai điều tra về tôi?
- Không có gì quan trọng cả, Mikael. Chúng tôi muốn mướn anh thì chúng tôi cần kiểm tra xem anh là người thế nào thôi.
- Thảo nào mà Henrik biết là tìm được tôi chính xác ở đâu. Điều tra ấy kỹ đến mức nào?
- Khá là kỹ.
- Nó có nhòm vào các vấn đề của Millennium không?
Frode nhún vai.
- Nó có một ý nghĩa.
Blomkvist châm thuốc lá, điếu thứ năm của hôm nay.
- Một báo cáo viết ư?
- Mikael, không có gì để phải bận tâm về nó đâu mà.
- Tôi muốn đọc bản báo cáo. – Anh nói.
- Ô thôi, toàn là chuyện thường thường cả. Chúng tôi muốn kiểm tra về anh trước khi mướn.
- Tôi muốn đọc bản báo cáo. – Blomkvist nhắc lại.
- Tôi không thể cho phép việc đó.
- Thật ư? Vậy thì tôi sẽ nói với ông điều này: Hoặc trong một giờ tôi có báo cáo đó trong tay hoặc tôi bỏ tất. Tôi sẽ đi chuyến tàu tối trở về Stockholm. Bản báo cáo ấy đâu?
Hai người nhìn nhau một lúc. Rồi Frode thở dài quay đi.
- Ở văn phòng tôi, tại nhà.
Frode đã quan trọng hóa lên ghê gớm. Phải tới 6 giờ tối hôm ấy Blomkvist mới cầm được bản báo cáo của Lisbeth Salander. Nó dài gần tám chục trang, cộng vài chục ảnh, những bài báo và các ghi băng khác về các chi tiết của đời sống và nghề nghiệp của anh.
Đọc chính ngay đời mình dưới dạng vừa có phần là tự truyện vừa có phần là do thám tình báo là một trải nghiệm kỳ lạ. Càng đọc anh càng ngạc nhiên với bản báo cáo làm sao mà chi tiết được đến thế. Salander đã đào bới lên những việc anh ngỡ đã bị vùi sâu lâu rồi ở trong mùn trong cặn của thời gian. Cô đã bới lên quan hệ thời trẻ của anh với một phụ nữ từng là một người hoạt động công đoàn rực lửa và nay là một chính trị gia. Cô ta đã nói chuyện với ai đây? Cô ta đã tìm ra băng nhạc rock Bootstrap của anh, điều mà chắc chắn nay chả còn ai nhớ nữa. Cô đã soi vào tài khoản của anh chi li cho đến đồng xu cuối cùng. Cái quỷ gì mà cô ta lại làm được như thế chứ?
Là nhà báo, Blomkvist đã từng bỏ nhiều năm ra săn thông tin về những người khác và anh có thể đánh giá được chất lượng của việc săn lùng này thuần túy chỉ ở trên lập trường nghiệp vụ. Rõ ràng cái cô Salander này là một dân điều tra siêu thủ đây. Nếu phải tìm hiểu về một người hoàn toàn xa lạ thì chính anh cũng khó có thể làm được bản báo cáo chi tiết đến vậy. Bản báo cáo cũng làm cho anh sáng ra là chả có lý do gì khiến cho anh và Berger cứ phải giữ kẽ trước mặt Henrik Vanger; ông đã biết tới quan hệ của hai người. Bản báo cáo còn đi tới chỗ đánh giá chính xác đến mức phiền toái hoàn cảnh tài chính của Millennium; lần đầu tiếp xúc với Berger, Henrik đã biết tỏng tình trạng của tờ tạp chí lung lay ra sao. Ông ta đang chơi trò gì đây?
Vụ Wennerstrom đã được tóm tắt lại nhưng rõ ràng bất cứ ai viết báo cáo này đều phải là một người dự phiên tòa. Bản báo cáo thắc mắc việc Blomkvist từ chối bình luận trong phiên tòa. Người đàn bà này thông minh đây.
Ngay giây phút sau đó, Blomkvist đã bổ chửng ra, không tin nổi con mắt mình. Salander đã viết một đoạn ngắn đưa ra những đánh giá của cô về điều sẽ xảy ra sau phiên tòa. Cô đã cho nhắc lại từng lời một bản thông cáo báo chí nói rằng anh và Berger đã đầu hàng sau khi anh từ chức chủ bút của Millennium.
Nhưng cô ta đã dùng chữ nghĩa độc đáo của mình. Anh lại liếc vào bìa bản báo cáo. Nó được thảo ra ba hôm trước ngày tòa nghị án Blomkvist. Thật là không thể nào có được. Lúc ấy thông cáo báo chí chỉ tồn tại có ở một nơi trên toàn thế giới. Là ở trong máy tính của Blomkvist. Ở trong iBook của anh, và không ở trong máy tính của văn phòng. Bản báo cáo không bao giờ được in ra. Bản sao Berger cũng không có, tuy hai người đã nói đến vấn đề này.
Blomkvist đặt bản báo cáo của Salander xuống. Anh mặc jacket vào và đi ra ngoài vào trong đêm, trước lễ Giữa Mùa hè một tuần, đêm rất sáng. Anh đi dọc bờ của eo biển, qua cơ ngơi của Cecilia Vanger và chiếc thuyền máy lộng lẫy ở bên dưới biệt thự của Martin Vanger. Anh bước thong thả, vừa đi vừa ngẫm nghĩ. Cuối cùng anh ngồi lên một tảng đá nhìn ánh sáng nhấp nháy của phao chỉ đường trong vịnh Hedestad. Chỉ có duy nhất một kết luận mà thôi.
- Cô đã vào máy tính của tôi, cô Salander. – Anh nói to lên. – Cô là một hacker chết rấp.
--- ------ ------ ------ -------
1 Pentateuch là năm quyển trong Kinh Cựu ước
18
Thứ Tư, 18 tháng Sáu
Salander giật mình tỉnh dậy sau một giấc ngủ không mộng mị. Không phải quay đầu cô cũng biết Mimmi đã đi làm nhưng mùi của cô ta vẫn lẩn quất trong không khí ngột ngạt của phòng ngủ. Đêm qua Salander đã uống quá nhiều bia với nhóm. Những Ngón tay Tội lỗi ở Mill, Mimmi đã hiện ra không lâu trước giờ đóng cửa rồi cùng với cô về nhà và lên giường.
Không giống Mimmi, Salander không bao giờ nghĩ mình là một đồng tính nữ. Cô không bao giờ loay hoay nghĩ xem mình là bình thường, đồng tính nữ hay là cả nữ lẫn nam. Cô không thèm bận tâm đến những cách gọi ấy, hàng đêm cô ngủ với ai là việc của cô. Nếu phải chọn thì cô thích bọn con trai hơn – và xét theo thống kê thì bọn chúng là vai chính. Vấn đề duy nhất là tìm ra một đứa không phải là một thằng cả ngố và tốt được cả ở trên giường. Mimmi là một thỏa hiệp ngon lành. Hai người gặp nhau ở một lều vải bán bia trong Liên hoan Tự hào năm ngoái. Và Mimmi là người duy nhất mà Sanlander giới thiệu vào Những Ngón tay Tội lỗi. Nhưng nó vẫn chỉ là một chuyện phất phơ với cả hai. Nằm sát vào thân người ấm, mềm mại của Mimmi thì thích nhưng Sanlander không thiết thức dậy cùng với Mimmi rồi ăn điểm tâm với nhau.
Đồng hồ cho biết là 9 rưỡi và cô đang nghĩ xem cái gì đã đánh thức cô thì chuông cửa réo. Cô ngạc nhiên ngồi lên. Không ai bấm chuông vào nhà cô giờ này xưa nay. Rất ít người bấm chuông nhà cô thật. Cô quấn một mảnh vải quanh người rồi uể oải đi ra gian sảnh để mở cửa. Cô va ngay phải mắt Mikael Blomkvist, cảm thấy sự hoảng hốt chạy qua người, cô lùi lại một bước.
-Chào cô Salander. – Anh chào cô nồng nhiệt. – Đêm ngủ muộn, tôi thấy mà, tôi có vào được không?
Không đợi cô trả lời, anh đi ngay vào, đóng cửa lại. Anh tò mò nhìn chồng quần áo ở trên sàn gian sảnh và một bức tường thành những ba lô nhồi đầy báo; rồi anh nhòm qua cửa phòng ngủ trong khi thế giới của Salander bắt đầu quay tít vào một phương hướng sai. Sao đây? Cái gì? Ai? Blomkvist thú vị nhìn vẻ hoang mang của cô.
-Tôi cho là cô chưa ăn điểm tâm cho nên đã mang đến vài ổ bánh mì có nhân đây. Tôi có một cái với thịt bò quay, m
Tác giả :
Stieg Larsson