Câu Chuyện Phù Sinh
Quyển 16 - Chương 9
Trên cánh cổng sắt chạm trổ hoa văn tinh xảo, quấn một sợi xích to cỡ cánh tay trẻ con, cho dù đã rỉ sét loang lổ nhưng trông vẫn vô cùng kiên cố. Nhìn vào chướng ngại vật cao đến năm, sáu mét kia, Chung Húc xoa xoa tay, rồi nắm lấy song sắt nhảy vọt lên, khéo léo đu người trèo qua, đáp xuống mặt đất nhẹ tênh mà vững vàng như một chú chim. Quay đầu lại, liền nhìn thấy nụ cười bối rối của Tư Đồ Nguyệt Ba ở bên ngoài cánh cửa.
– Anh đợi một chút! Chắc chắn có cửa sau! – Chung Húc đoán chắc anh chồng không đủ bản lĩnh để trèo qua cái cổng sắt kiên cố. Ở anh chàng này, tế bào kiếm tiền phát triển vượt xa tế bào vận động.
Vừa vọt đi chưa được hai bước, cô đã nghe thấy tiếng gọi của Tư Đồ Nguyệt Ba phía sau:
– Em đừng vội đi! Ổ khóa không hề khóa!
Lạch cạch một tràng, dây xích đã trượt từ trên cánh cổng xuống, giống như một con rắn chết.
Tư Đồ Nguyệt Ba lau đi vết rỉ sét bám trên ngón tay, chạy tới bên cạnh Chung Húc, hồ hởi:
– May mà anh chưa nảy ra ý định trèo tường!
– Nhưng… – Chung Húc ngơ ngác chớp mắt, lẩm bẩm – Rõ ràng em nhìn thấy nó đã bị khóa mà.
– Khóa rồi, nhưng chỉ khóa hờ thôi, kéo mạnh một cái là bật ra. – Tư Đồ Nguyệt Ba cũng cảm thấy khó hiểu – Có lẽ do lâu quá nên hỏng hóc.
Vừa đặt chân đến tu viện, đã gặp phải sự việc quái lạ, hai vợ chồng vừa bàn tán vừa đi về phía cánh cửa chính ở phía trước.
Không gian bên trong cánh cổng sắt không rộng lắm, trống huơ trống hoác; ngoài tu viện nằm ở chính giữa, ngay cả một bức phù điêu trang trí cũng không có. Thảm cỏ lâu ngày không có người cắt tỉa, cỏ dại ken dày hỗn loạn, đặt chân lên, cỏ lút đến mắt cá.
Trước mắt là hai cánh cửa gỗ cao lớn, lớp sơn màu đen bong tróc loang lổ, để lộ ra vân gỗ màu nâu sậm, có lẽ là bị hơi ẩm ướt trong rừng thẩm thấu nhiều năm, vừa mới lại gần đã loáng thoáng ngửi thấy mùi ẩm mốc. Bụi bặm, đất cát bám đầy trong những kẽ lồi lõm trên cánh cửa. Chỉ còn những hoa văn mạ vàng tinh xảo khảm trên đó đang yếu ớt gợi nhớ về phong thái sang trọng năm xưa.
– Xem ra đúng là đã bị bỏ hoang rất lâu rồi. – Tư Đồ Nguyệt Ba búng vết bụi bám trên ngón tay đi – Ít nhất cũng phải mấy chục năm!
Chung Húc không nói gì, đặt tay lên cánh cửa, vẻ như muốn đẩy ra.
– Lạnh quá… – Cô thốt lên.
– Lạnh à? Anh đưa khăn quàng cho! – Tư Đồ Nguyệt Ba vội đưa tay cởi khăn quàng, không biết mình đã hiểu nhầm ý của cô vợ.
– Em có bảo là em lạnh đâu. Là hơi lạnh toát ra từ cánh cửa, là cái lạnh lẽo không thuộc về thế giới này! – Chung Húc đẩy mạnh cánh cửa, một tiếng “cách" vang lên, kèm theo bụi bặm lả tả rơi xuống, cánh cửa lớn kẽo kẹt mở ra.
– Lại cũng không khóa? – Tư Đồ Nguyệt Ba vòng ra sau cửa, gảy gảy ổ khóa kiểu cổ màu vàng kim, phát hiện ra nó không hề bị hỏng, tiếng “cách" vừa nãy rõ ràng là tiếng ổ khóa bật ra. Anh hết sức ngờ vực, nói:
– Em này, cánh cửa đáng lẽ đã được khóa trái bên trong, anh và em không có chìa khóa, mà lại mở được dễ dàng thế à?
– Mặc kệ cái khóa ấy đi. – Chung Húc đã tập trung toàn bộ sự chú ý vào gian sảnh lớn vừa bày ra trước mắt.
Nơi này không hề có hệ thống chiếu sáng nhân tạo, nguồn sáng duy nhất trong sảnh chỉ là ánh sáng tự nhiên lọt qua một khung cửa sổ nhỏ hẹp. Vì không có ánh mặt trời, những tia sáng nghèo nàn lại càng trở nên xanh xao và nhợt nhạt.
Những cây cột trắng cao lớn gắn phù điêu trang trí giống như một người lính trung thành, nghiêm trang đứng ở các vị trí cần tới nó trong sảnh. Mấy chục hàng ghế băng xếp ngay ngắn, hai bên còn có những giá nến được đúc từ sắt đen, vết nến chảy lâu năm còn đọng lại, phủ dưới lớp bụi dày. Trong đó, chân chống của một chiếc giá đã bị gãy, treo lủng lẳng ở đó như một cẳng chân què. Đàn thánh phía đối diện đã không còn nhận ra được màu sắc nguyên bản, một chiếc bát nhỏ đen sì song vẫn thấy loáng thoáng vài chỗ trắng bạc đổ nghiêng trên đàn, trên mặt là lớp mạng nhện mỏng manh đang khẽ rung rinh.
– Là tu viện mà tại sao lại chẳng có lấy nửa bức tượng thánh nhỉ? – Tư Đồ Nguyệt Ba vừa lẩm bẩm vừa bước lên phía trước, dừng lại sau đàn thánh, nhìn chằm chằm xuống mặt đất – Em lại đây xem này!
Chung Húc bước lại nhìn, là một đống mảnh vỡ nhiều màu thò ra một nửa từ trong đất bụi. Hai người ngồi thụp xuống, Tư Đồ Nguyệt Ba khẽ bới lớp bụi bặm phía trên, lộ ra một bàn tay người làm bằng sứ chỉ còn lại ba ngón, bên cạnh còn vùi non nửa khuôn mặt mang con mắt tuyệt đẹp, cây thập tự giá đã phai màu bất lực nằm cùng chỗ với chúng.
– Hóa ra tượng Đức Mẹ ở chỗ này… – Tư Đồ Nguyệt Ba phủi tay, ánh mắt tiếp tục tìm kiếm xung quanh bức tượng Đức Mẹ đã vỡ vụn, nhanh chóng phát hiện ra một dấu vết cháy đen cách đó vài bước chân. Cùng lúc đó, Chung Húc cũng để ý tới sự bất thường của vết cháy, bèn bước lại gần, phẩy đi lớp bụi phủ bên trên, một hình vẽ ngôi sao sáu cánh hiện ra mồn một trước mắt. Không phải là được vẽ, mà là vết cháy do bị lửa lớn thiêu đốt mà thành, in dấu vĩnh viễn lên mặt đất. Nhìn lâu vào đó, lại sinh ảo giác như có mùi cháy khét phảng phất trong không khí.
– Chà chà, không ngờ lại là phong ấn Solomon! – Chung Húc ngắm nghía một hồi, rồi đặt tay lên hình ngôi sao sáu cánh, cuối cùng nói chắc nịch – Nhưng từ rất lâu về trước đã bị vô hiệu hóa.
– Đến cả phép thuật của phương Tây em cũng thông thạo thế kia à? – Tư Đồ Nguyệt Ba nhìn cô vợ với ánh mắt khâm phục – Phong ấn Solomon có tác dụng gì thế?
– Tà ma ngoại đạo không phân biệt quốc tịch. Trong lĩnh vực trừ tà diệt ma, nhà họ Chung em vẫn luôn Đông Tây kết hợp! – Chung Húc không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để ca ngợi gia tộc mình, rồi nói tiếp – Thứ này bắt nguồn từ đạo Do Thái. Phong ấn Solomon lại có hai cách dùng hoàn toàn trái ngược nhau, một là phong ấn ác ma, hai là triệu hồi ác ma, hoàn toàn dựa vào vị pháp sư sử dụng nó là chính hay tà.
– Vậy phong ấn này thuộc loại nào? – Nghĩ tới nơi này từng là một tu viện thiêng liêng, Tư Đồ Nguyệt Ba suy đoán – Có lẽ là dùng để phong ấn ác ma chăng…
Chung Húc đứng dậy, ánh mắt chiếu ra những tia lạnh lùng:
– Sai, là để triệu hồi ác ma. Tà khí toát ra từ phong ấn tới giờ vẫn chưa tiêu tan hết – Đưa mắt nhìn không gian tăm tối xung quanh, cô thở hắt ra một hơi dài, cười cười – Đây đúng là một nơi thú vị.
– Triệu hồi ác ma ở trong tu viện… Đây đúng là một việc mạo hiểm, khác nào nhổ nanh trong miệng cọp. Ha ha, xem ra, tác giả của phong ấn này không phải kẻ tầm thường! – Tư Đồ Nguyệt Ba càng nghĩ càng thấy “thú vị".
Vừa dứt lời, chỉ nghe thấy trên đầu “rắc" một tiếng, một khối đen khổng lồ lao vùn vụt xuống hai người họ.
– Tránh ra! – Chung Húc hét lớn, vung tay xô bật anh chồng đi.
Một luồng gió sắc như dao thốc qua sát trước mặt họ, sau một tiếng “rầm" vang dội, một khúc gỗ tròn to ngang thân người giáng thẳng xuống giữa hai vợ chồng, mạnh đến nổi một nửa thân gỗ bập lút xuống mặt đất, trong bụi đất mịt mù, vô số đường nứt ngoằn ngoèo lan khắp sàn nhà, trông vô cùng kinh dị!
Nhìn cái khối thù lù chỉ cách mũi chân mình không đầy một thước, Tư Đồ Nguyệt Ba và Chung Húc đang ngã ngồi dưới đất đều đờ ra mất vài giây.
– Không sao chứ? – Tư Đồ Nguyệt Ba lồm cồm bò dậy. Chung Húc phía bên kia đã đứng lên trước, thản nhiên phủi bụi bám trên quần áo, lắc đầu:
– Em không sao. Đúng là cái nhà rách!
Tư Đồ Nguyệt Ba lúc này mới thấy yên tâm, lập tức ngửa cổ nhìn lên trần nhà, rồi lại nhìn xuống khúc gỗ tròn to tướng, nói:
– Đây có lẽ là cây gỗ chống trên xà nhà, nhưng em hãy nhìn phần đuôi nó mà xem!
Nhìn theo tay chỉ của chồng, Chung Húc đã thấy một vết cắt phẳng phiu do bị vật sắc chém đứt trong khoảng thời gian cực ngắn.
– Súc gỗ này rơi xuống không phải vì bị mục ruỗng đã lâu, mà là bị con người chặt đứt… – Đôi mày Tư Đồ Nguyệt Ba từ từ chau lại, đầy nghi hoặc nhưng không hề hoảng sợ.
– Ha ha, có người không hoan nghênh chúng ta tới thăm quan nơi đây. – Chung Húc cười nhạt, rồi bước tới lối đi ở chính giữa, nhìn thẳng vào phía trước vốn không có bất cứ hiện tượng khác thường nào, vẻ cảnh giác và ngạo nghễ bừng lên trong mắt, dường như thứ đang lượn lờ trước mặt không phải là không khí, mà là loài ác ma không đội trời chung.
– Có… yêu khí à? – Tư Đồ Nguyệt Ba đứng bên cạnh cô. Mỗi khi Chung Húc có biểu hiện giống như thế, có nghĩa là một trận quyết chiến đã bắt đầu.
– Không có! – Câu trả lời của Chung Húc nằm ngoài dự liệu của anh – Em không cảm nhận thấy bất kỳ một luồng yêu khí nào đang chuyển động. Thật là quái lạ… Thế nhưng, em khẳng định, ở một chỗ nào đó, có một đôi mắt đáng ghét vẫn luôn nhìn trộm chúng ta.
Nghe cô nói vậy, Tư Đồ Nguyệt Ba không đáp lời, lẳng lặng quét ánh nhìn khắp mọi hướng, dường như đang tìm kiếm “đôi mắt" đang ẩn nấp trong bóng tối.
Làn khói trắng mờ phả ra từ mũi họ, trong sảnh yên tĩnh một cách dị thường. Lúc hai người không lên tiếng, chỉ còn nghe thấy những hơi thở khe khẽ.
– Á!
Thình lình, một tiếng rú chói tai phá tan bầu tĩnh lặng vô cùng tận. Cho dù tiếng rú vẳng lại từ ngoài cổng, nhưng vợ chồng Chung Húc vẫn lập tức đoán ra, đó là tiếng của Kính.
Hai người lập tức co cẳng chạy lao ra phía cổng, vừa chạy vừa thầm ân hận vì vừa nãy chỉ nghĩ được rằng bên trong tu viện có thể có nguy hiểm, mà lại quên bẵng mất, để một cô gái đứng một mình trong rừng núi hoang vắng, chưa nói tới yêu ma, cho dù chỉ gặp một con dã thú bình thường, cũng đã không đủ sức chống đỡ.
Tư Đồ Nguyệt Ba kéo mạnh cánh cửa khép hờ, sau tiếng kẽo kẹt, hai vợ chồng một trước một sau lao vọt ra ngoài. Nhưng, cảnh tượng xuất hiện ngay trước mắt đã lập tức khiến họ như bị đóng đinh tại chỗ…
Ngoài cổng, không còn là khu vườn hoang um tùm cỏ dại mà họ nhìn thấy khi mới bước vào, mà là gian đại sảnh rộng lớn và đổ nát của tu viện. Ghế băng, giá nến, cột trụ màu trắng, thậm chí tới cả súc gỗ rơi xuống bên cạnh đàn thánh, đều giống y hệt.
Tư Đồ Nguyệt Ba chớp mạnh đôi mắt theo phản xạ, rồi huých vào người Chung Húc.
– Em ơi, anh không bị hoa mắt đấy chứ?
– Không hề! – Chung Húc đã quá quen với những cảnh tượng cổ quái, sắc mặt vẫn bình thản, điềm nhiên nói – Chúng ta lại quay trở vào rồi.
Lại ngoảnh đầu, thì cảnh cửa không biết đã đóng sập lại tự bao giờ. Tư Đồ Nguyệt Ba đẩy mạnh vào cánh cửa, phát hiện ra nó đã biến thành tường đồng vách sắt, dù anh có dồn hết sức lực cũng không hề suy suyển. Họ đứng sau cánh cửa, lối đi dằng dặc bắt đầu kéo dài từ dưới chân họ, còn đường về, đã bị bít kín.
– Có em ở đây, anh cứ yên tâm! Vào được thì tự nhiên sẽ ra được. – Chung Húc kéo chồng lại gần, có phần lo lắng người chồng chưa bao giờ gặp phải tình huống tương tự bị khủng hoảng tâm lý.
– Anh biết rồi, anh chỉ cảm thấy rất quái lạ mà thôi. – Tư Đồ Nguyệt Ba cũng điềm tĩnh không kém Chung Húc, mỉm cười vỗ lên vai vợ – Chồng em không phải gã thỏ đế đâu! – Sắc mặt anh chợt sầm xuống – Chúng ta phải nhanh chóng tìm ra Kính… Nếu như, cô ấy cũng ở “trong này".
– Gượm đã, tiếng hét chúng ta vừa nghe thấy, chưa chắc đã là của Kính! – Lúc này, Chung Húc lại không hề nôn nóng đi tìm người. Cô bước lên mấy bước, lấy ra một chiếc lọ nhỏ màu trắng từ trong túi, chấm lấy một ít thứ gì đo đỏ như bột màu lên đầu ngón tay, sau đó ấn lên giữa hai đầu lông mày, tập trung tinh thần, quát khẽ một tiếng:
– Mở! – Từ đôi mắt sáng rực của cô rọi ra hai ánh mắt sắc bén tới mức có thể xuyên thấu bê tông cốt thép, mọi ngóc ngách trong sảnh đều không thoát khỏi tầm nhìn của cô.
Nhưng rất nhanh, cô khẽ chau mày, nói:
– Không phải là ảo giác… Thứ chúng ta đang nhìn thấy là một không gian thực sự.
Tư Đồ Nguyệt Ba nhìn chằm chằm vào vết đỏ giữa ấn đường của vợ, thắc mắc:
– Lẽ nào nãy giờ em tưởng rằng cả hai chúng ta đều bị ảo giác?
– Một số yêu tà có thể tạo ra ảo giác để mê hoặc và đánh lén con người. Thứ chu sa thông linh gia truyền của nhà em chuyên dùng để phá giải chiêu ảo giác. – Chung Húc cất chiếc lọ vào trong túi, nghiêm túc nói – Bây giờ em có thể khẳng định, gian đại sảnh vốn dĩ không nên xuất hiện trước mặt chúng ta, đúng là một không gian thực, chứ không phải là ảo giác do ngoại lực tạo ra.
Nghe cô nói vậy, Tư Đồ Nguyệt Ba không khỏi lo lắng:
– Nếu đây là một không gian thực, thì tiếng hét vừa nãy…
– Đi tìm người thôi! Gian đại sảnh nhìn qua là thấy cả rồi, lên lầu tìm xem thế nào. – Chung Húc rảo nhanh bước chân, tìm kiếm cầu thang dẫn lên tầng hai của tu viện. Bước tới một chỗ bị che khuất bởi ván gỗ và đá tảng lộn xộn ở mé phải của đàn thánh, Tư Đồ Nguyệt Ba dừng chân, dỡ bỏ vài tấm gỗ, một cánh cửa sắt màu đỏ sậm, rỉ sét loang lổ đột nhiên hiện ra phía sau. Anh liền gọi Chung Húc đang sục sạo ở phía trước quay lại, hai người hợp sức dọn dẹp những chướng ngại vật đã mục ruỗng vì thời gian và bụi bặm sang một bên.
– Liệu Kính có ở trên đó không? – Tư Đồ Nguyệt Ba phẩy lớp bụi dày đặc đang xộc tới trước mặt, nhìn cánh cửa sắt với tay nắm đã rỉ sét hoàn toàn, thoạt nhìn đã biết rất nhiều năm không có ai động chạm đến – Chỗ này hoàn toàn không có vẻ gì là đã có người đi qua.
Chung Húc lại không nghĩ nhiều đến vậy, thuận tay nhấc bổng một hòn đá trọng lượng không hề khiêm tốn lên, đập thẳng cánh vào ổ khóa lủng lẳng muốn rơi trên cánh cửa, khiến vật bảo vệ có cũng như không này rụng luôn xuống đất – Nếu yêu nghiệt muốn mang con tin lên trên tầng, hoàn toàn không cần theo lối cầu thang. Nhưng em với anh nhất định phải đi theo cầu thang. – Nói xong, cô khẽ đẩy nhẹ một cái, vôi vữa lẫn với mạt sắt rơi xuống lả tả như mưa trong lúc cánh cửa lắc lư mở ra. Một cầu thang tối thẳm sặc mùi ẩm ướt và lạnh lẽo chạy thẳng đứng lên trên, chìm khuất trong bóng tối, không nhìn thấy tận cùng.
– Đi thôi! – Chung Húc lách người qua khe cửa, còn Tư Đồ Nguyệt Ba trước khi bước theo cô, đột nhiên quay đầu nhìn về phía đàn thánh, một tia khác lạ bỗng vụt qua trong mắt anh.
Bật chiếc bật lửa lên, ngọn lửa bé xíu tỏa ra quầng sáng nhỏ hẹp, chiếu sáng cho hai con người đang lò dò leo từng bậc cầu thang. Tư Đồ Nguyệt Ba chốc chốc lại nhìn vào bức tường lúc ẩn lúc hiện trong ngọn lửa bập bùng, nói với Chung Húc:
– Em nhìn lên tường xem, hình như có những hoa văn rất cổ quái.
Ghé bật lửa vào sát tưởng, hai người quan sát kỹ lưỡng bức tường đất đã bong tróc từng mảng lớn, phát hiện ra lớp tường bên trong có khắc một chuỗi ký hiệu màu đỏ không phải tiếng Trung không phải tiếng Anh cũng chẳng phải hình vẽ, xếp thành một hàng ngang thẳng băng. Nếu không phải lớp vữa bên ngoài đã bị tróc lở, thì hoàn toàn không thể phát hiện ra bên trong lại có những thứ quái quỷ này.
– Những thứ này… rất giống… cũng không phải… – Tư Đồ Nguyệt Ba nhìn chằm chằm vào thứ “ký tự ngoài hành tinh" kia, dường như đã nhận ra chúng, nhưng lại không chắc chắn. Chung Húc hết ngoẹo cổ sang phải lại ngả đầu sang trái, rồi nói – Giống như tiếng Anh, nhưng lại không phải, hơn nữa, nét bút sao trông lại kỳ quặc thế nhỉ? Nhưng dựa vào kinh nghiệm của em, những ký hiệu này có lẽ là một loại bùa chú gì đó, nếu không, đã chẳng phải giấu kín trong tường một cách thần bí đến thế.
– Khoan đã… – Tư Đồ Nguyệt Ba hai mắt vụt sáng, móc trong túi áo ra chiếc điện thoại có thiết kế mặt gương, chiếu thẳng vào dòng chữ trên tường, đột ngột hiểu ra – Thảo nào anh cứ thấy rất quen mắt mà lại không nhận ra được, hóa ra những ký hiệu trên bức tường này toàn bộ đều là chữ Hebrew viết ngược. Em xem này!
Anh giơ chiếc điện thoại ra trước mặt Chung Húc. Nhìn vào những ký tự phản chiếu trên mặt điện thoại, Chung Húc kinh ngạc ra mặt:
– Đúng là chữ Hebrew! Chả trách em cứ thấy nó kỳ quặc thế nào, hóa ra toàn bộ đều viết ngược! Nhưng… – Hai người cùng rời mắt khỏi bức tường. Một chuỗi ký tự Hebrew viết ngược được giấu kín trong tường, giống như một ngòi nổ thình lình xuất hiện, không hẹn mà cùng dấy lên trong lòng họ một dự cảm nguy hiểm vô cùng ma quái.
Một tu viện thình lình xuất hiện bên ngoài cánh cửa, một không gian bồng bềnh giữa chân thực và ảo giác, giống như một hố đen tham lam khổng lồ, mang vọng tưởng nuốt chửng bất cứ con mồi nào mà nó hợp nhãn.
Ôm theo một bụng nghi ngờ, hai người đã leo hết đoạn cầu thang dài dằng dặc.
Hai người hoàn toàn không ngờ được rằng, thứ nghênh đón họ ở cuối cầu thang không phải một cánh cửa sắt đóng im lìm, cũng không phải một lối đi bình thường, mà là một bức mành mành bằng pha lê, hoặc có lẽ là thủy tinh, buông dài từ trần nhà xuống tận sàn. Lớp bụi dày cộm đã phủ lấp màu sắc và vẻ sáng bóng vốn có, trông nó giống như một nữ tỳ ăn mặc xoàng xỉnh đang cụp mắt nhìn xuống, cúi mặt thõng tay cung kính đợi lệnh.
Vén mành bước qua, bụi bặm mù mịt rơi xuống đầy đầu họ. Nhưng vén tấm mành này lên, họ lại nhìn thấy ngay tấm mành thứ hai, lại vén lên, vẫn còn có tấm thứ ba. Hai người đưa mắt nhìn nhau, sau đó kiên nhẫn lặp lại động tác vừa nãy, cứ thế cho tới khi đi qua bức mành thứ bảy, một luồng sáng chói mắt bất ngờ rọi tới, giống như vừa từ hang động tối tăm đột ngột bước ra một không gian rực rỡ ánh mặt trời. Chung Húc và Tư Đồ Nguyệt Ba đồng thời nghiêng mặt sang một bên theo phản xạ, né tránh luồng sáng thình lình chiếu tới.
Vài giây sau, khi mắt họ đã thích ứng với ánh sáng bất ngờ, Chung Húc nhìn thấy tầng thứ hai của tu viện bày ra trước mắt, bất chợt sững người. Tư Đồ Nguyệt Ba thì há hốc cả miệng, rồi lẩm bẩm một mình:
– Đây… có lẽ không giống với cách bài trí của tu viện cho lắm!
Đá hoa cương màu trắng ngà lát thành mặt sàn bóng lộn như gương. Chỗ tiếp giáp giữa các bức tường đều được trang trí bằng phù điêu làm từ gỗ hồng mạ vàng. Trên bức tường chính trước mặt họ có treo vài chục bức tranh nền trắng vẽ hoa văn màu xanh lam. Ngoài vài món đồ nội thất xa hoa mang phong cách cổ điển của châu Âu thời Trung Cổ, còn có không ít đồ sứ Trung Quốc kiểu dáng tinh xảo trang nhã được điểm xuyết một cách tinh tế ở những vị trí đẹp nhất. Bên cửa sổ, những tấm rèm bằng sa tanh màu trắng ngà viền đăng ten và sợi dây lụa màu lam phơn phớt buộc phía trên đang phơ phất tung bay trong gió nhẹ. Chùm đèn pha lê treo trên trần nhà dịu dàng tỏa xuống thứ ánh sáng màu vàng nhạt. Trong toàn bộ không gian phòng lớn, ánh huỳnh quang sóng sánh như nước.
– Em ơi, có phải là ảo giác không? – Tư Đồ Nguyệt Ba nghi hoặc hỏi vợ. Kỳ thực, bất kể là ai, cũng đều không thể tưởng tượng được gian phòng cực kỳ xa hoa và lịch sự trước mắt có liên quan gì đến một tu viện trang nghiêm khô cứng.
Chung Húc lắc đầu:
– Không phải! Vẫn là không gian thực.
– Thật là quá thú vị… – Tư Đồ Nguyệt Ba phá lên cười vang, rồi than thở – Chúng ta đang tới nơi nào thế này?
– Anh đừng sợ, sẽ không xảy ra chuyện gì đâu! – Chung Húc tự tin bảo đảm, sau đó quệt đầu ngón tay lên mặt tủ bên cạnh, rồi chìa ra trước mặt chồng, nói với vẻ đùa cợt:
– Anh nhìn xem, nơi này sạch bong. Người sống ở đây cũng chăm chỉ đấy chứ!
– Có người sống ở đây à? Anh chẳng nhìn thấy một ai cả… – Tư Đồ Nguyệt Ba quay một vòng tại chỗ. Gian phòng này tuy lớn, nhưng lại rất đỗi trống trải, vừa nhìn đã thấy được toàn bộ, không có bất kỳ góc khuất nào có thể ẩn nấp.
– Vị chủ nhân này tính tình rất e thẹn, hoặc là xấu xí quá, nên không dám ra gặp khách khứa, đương nhiên là anh không nhìn thấy được rồi! – Chung Húc cố làm ra vẻ thản nhiên, tiếp tục pha trò, rồi lại bước lên mấy bước, sắc mặt vụt sa sầm, quát khẽ một tiếng:
– Yêu khí…
– Cái gì… – Tư Đồ Nguyệt Ba còn chưa kịp dứt lời, chợt nghe “uỳnh" một tiếng kinh người bên mé phải. Chiếc tủ đứng màu trắng với phần mép khảm vàng đặt bên phải bức tường chính thình lình bị đẩy bật tung từ bên trong, một thân người lăn lông lốc ra qua cánh cửa mở rộng.
– Anh đợi một chút! Chắc chắn có cửa sau! – Chung Húc đoán chắc anh chồng không đủ bản lĩnh để trèo qua cái cổng sắt kiên cố. Ở anh chàng này, tế bào kiếm tiền phát triển vượt xa tế bào vận động.
Vừa vọt đi chưa được hai bước, cô đã nghe thấy tiếng gọi của Tư Đồ Nguyệt Ba phía sau:
– Em đừng vội đi! Ổ khóa không hề khóa!
Lạch cạch một tràng, dây xích đã trượt từ trên cánh cổng xuống, giống như một con rắn chết.
Tư Đồ Nguyệt Ba lau đi vết rỉ sét bám trên ngón tay, chạy tới bên cạnh Chung Húc, hồ hởi:
– May mà anh chưa nảy ra ý định trèo tường!
– Nhưng… – Chung Húc ngơ ngác chớp mắt, lẩm bẩm – Rõ ràng em nhìn thấy nó đã bị khóa mà.
– Khóa rồi, nhưng chỉ khóa hờ thôi, kéo mạnh một cái là bật ra. – Tư Đồ Nguyệt Ba cũng cảm thấy khó hiểu – Có lẽ do lâu quá nên hỏng hóc.
Vừa đặt chân đến tu viện, đã gặp phải sự việc quái lạ, hai vợ chồng vừa bàn tán vừa đi về phía cánh cửa chính ở phía trước.
Không gian bên trong cánh cổng sắt không rộng lắm, trống huơ trống hoác; ngoài tu viện nằm ở chính giữa, ngay cả một bức phù điêu trang trí cũng không có. Thảm cỏ lâu ngày không có người cắt tỉa, cỏ dại ken dày hỗn loạn, đặt chân lên, cỏ lút đến mắt cá.
Trước mắt là hai cánh cửa gỗ cao lớn, lớp sơn màu đen bong tróc loang lổ, để lộ ra vân gỗ màu nâu sậm, có lẽ là bị hơi ẩm ướt trong rừng thẩm thấu nhiều năm, vừa mới lại gần đã loáng thoáng ngửi thấy mùi ẩm mốc. Bụi bặm, đất cát bám đầy trong những kẽ lồi lõm trên cánh cửa. Chỉ còn những hoa văn mạ vàng tinh xảo khảm trên đó đang yếu ớt gợi nhớ về phong thái sang trọng năm xưa.
– Xem ra đúng là đã bị bỏ hoang rất lâu rồi. – Tư Đồ Nguyệt Ba búng vết bụi bám trên ngón tay đi – Ít nhất cũng phải mấy chục năm!
Chung Húc không nói gì, đặt tay lên cánh cửa, vẻ như muốn đẩy ra.
– Lạnh quá… – Cô thốt lên.
– Lạnh à? Anh đưa khăn quàng cho! – Tư Đồ Nguyệt Ba vội đưa tay cởi khăn quàng, không biết mình đã hiểu nhầm ý của cô vợ.
– Em có bảo là em lạnh đâu. Là hơi lạnh toát ra từ cánh cửa, là cái lạnh lẽo không thuộc về thế giới này! – Chung Húc đẩy mạnh cánh cửa, một tiếng “cách" vang lên, kèm theo bụi bặm lả tả rơi xuống, cánh cửa lớn kẽo kẹt mở ra.
– Lại cũng không khóa? – Tư Đồ Nguyệt Ba vòng ra sau cửa, gảy gảy ổ khóa kiểu cổ màu vàng kim, phát hiện ra nó không hề bị hỏng, tiếng “cách" vừa nãy rõ ràng là tiếng ổ khóa bật ra. Anh hết sức ngờ vực, nói:
– Em này, cánh cửa đáng lẽ đã được khóa trái bên trong, anh và em không có chìa khóa, mà lại mở được dễ dàng thế à?
– Mặc kệ cái khóa ấy đi. – Chung Húc đã tập trung toàn bộ sự chú ý vào gian sảnh lớn vừa bày ra trước mắt.
Nơi này không hề có hệ thống chiếu sáng nhân tạo, nguồn sáng duy nhất trong sảnh chỉ là ánh sáng tự nhiên lọt qua một khung cửa sổ nhỏ hẹp. Vì không có ánh mặt trời, những tia sáng nghèo nàn lại càng trở nên xanh xao và nhợt nhạt.
Những cây cột trắng cao lớn gắn phù điêu trang trí giống như một người lính trung thành, nghiêm trang đứng ở các vị trí cần tới nó trong sảnh. Mấy chục hàng ghế băng xếp ngay ngắn, hai bên còn có những giá nến được đúc từ sắt đen, vết nến chảy lâu năm còn đọng lại, phủ dưới lớp bụi dày. Trong đó, chân chống của một chiếc giá đã bị gãy, treo lủng lẳng ở đó như một cẳng chân què. Đàn thánh phía đối diện đã không còn nhận ra được màu sắc nguyên bản, một chiếc bát nhỏ đen sì song vẫn thấy loáng thoáng vài chỗ trắng bạc đổ nghiêng trên đàn, trên mặt là lớp mạng nhện mỏng manh đang khẽ rung rinh.
– Là tu viện mà tại sao lại chẳng có lấy nửa bức tượng thánh nhỉ? – Tư Đồ Nguyệt Ba vừa lẩm bẩm vừa bước lên phía trước, dừng lại sau đàn thánh, nhìn chằm chằm xuống mặt đất – Em lại đây xem này!
Chung Húc bước lại nhìn, là một đống mảnh vỡ nhiều màu thò ra một nửa từ trong đất bụi. Hai người ngồi thụp xuống, Tư Đồ Nguyệt Ba khẽ bới lớp bụi bặm phía trên, lộ ra một bàn tay người làm bằng sứ chỉ còn lại ba ngón, bên cạnh còn vùi non nửa khuôn mặt mang con mắt tuyệt đẹp, cây thập tự giá đã phai màu bất lực nằm cùng chỗ với chúng.
– Hóa ra tượng Đức Mẹ ở chỗ này… – Tư Đồ Nguyệt Ba phủi tay, ánh mắt tiếp tục tìm kiếm xung quanh bức tượng Đức Mẹ đã vỡ vụn, nhanh chóng phát hiện ra một dấu vết cháy đen cách đó vài bước chân. Cùng lúc đó, Chung Húc cũng để ý tới sự bất thường của vết cháy, bèn bước lại gần, phẩy đi lớp bụi phủ bên trên, một hình vẽ ngôi sao sáu cánh hiện ra mồn một trước mắt. Không phải là được vẽ, mà là vết cháy do bị lửa lớn thiêu đốt mà thành, in dấu vĩnh viễn lên mặt đất. Nhìn lâu vào đó, lại sinh ảo giác như có mùi cháy khét phảng phất trong không khí.
– Chà chà, không ngờ lại là phong ấn Solomon! – Chung Húc ngắm nghía một hồi, rồi đặt tay lên hình ngôi sao sáu cánh, cuối cùng nói chắc nịch – Nhưng từ rất lâu về trước đã bị vô hiệu hóa.
– Đến cả phép thuật của phương Tây em cũng thông thạo thế kia à? – Tư Đồ Nguyệt Ba nhìn cô vợ với ánh mắt khâm phục – Phong ấn Solomon có tác dụng gì thế?
– Tà ma ngoại đạo không phân biệt quốc tịch. Trong lĩnh vực trừ tà diệt ma, nhà họ Chung em vẫn luôn Đông Tây kết hợp! – Chung Húc không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để ca ngợi gia tộc mình, rồi nói tiếp – Thứ này bắt nguồn từ đạo Do Thái. Phong ấn Solomon lại có hai cách dùng hoàn toàn trái ngược nhau, một là phong ấn ác ma, hai là triệu hồi ác ma, hoàn toàn dựa vào vị pháp sư sử dụng nó là chính hay tà.
– Vậy phong ấn này thuộc loại nào? – Nghĩ tới nơi này từng là một tu viện thiêng liêng, Tư Đồ Nguyệt Ba suy đoán – Có lẽ là dùng để phong ấn ác ma chăng…
Chung Húc đứng dậy, ánh mắt chiếu ra những tia lạnh lùng:
– Sai, là để triệu hồi ác ma. Tà khí toát ra từ phong ấn tới giờ vẫn chưa tiêu tan hết – Đưa mắt nhìn không gian tăm tối xung quanh, cô thở hắt ra một hơi dài, cười cười – Đây đúng là một nơi thú vị.
– Triệu hồi ác ma ở trong tu viện… Đây đúng là một việc mạo hiểm, khác nào nhổ nanh trong miệng cọp. Ha ha, xem ra, tác giả của phong ấn này không phải kẻ tầm thường! – Tư Đồ Nguyệt Ba càng nghĩ càng thấy “thú vị".
Vừa dứt lời, chỉ nghe thấy trên đầu “rắc" một tiếng, một khối đen khổng lồ lao vùn vụt xuống hai người họ.
– Tránh ra! – Chung Húc hét lớn, vung tay xô bật anh chồng đi.
Một luồng gió sắc như dao thốc qua sát trước mặt họ, sau một tiếng “rầm" vang dội, một khúc gỗ tròn to ngang thân người giáng thẳng xuống giữa hai vợ chồng, mạnh đến nổi một nửa thân gỗ bập lút xuống mặt đất, trong bụi đất mịt mù, vô số đường nứt ngoằn ngoèo lan khắp sàn nhà, trông vô cùng kinh dị!
Nhìn cái khối thù lù chỉ cách mũi chân mình không đầy một thước, Tư Đồ Nguyệt Ba và Chung Húc đang ngã ngồi dưới đất đều đờ ra mất vài giây.
– Không sao chứ? – Tư Đồ Nguyệt Ba lồm cồm bò dậy. Chung Húc phía bên kia đã đứng lên trước, thản nhiên phủi bụi bám trên quần áo, lắc đầu:
– Em không sao. Đúng là cái nhà rách!
Tư Đồ Nguyệt Ba lúc này mới thấy yên tâm, lập tức ngửa cổ nhìn lên trần nhà, rồi lại nhìn xuống khúc gỗ tròn to tướng, nói:
– Đây có lẽ là cây gỗ chống trên xà nhà, nhưng em hãy nhìn phần đuôi nó mà xem!
Nhìn theo tay chỉ của chồng, Chung Húc đã thấy một vết cắt phẳng phiu do bị vật sắc chém đứt trong khoảng thời gian cực ngắn.
– Súc gỗ này rơi xuống không phải vì bị mục ruỗng đã lâu, mà là bị con người chặt đứt… – Đôi mày Tư Đồ Nguyệt Ba từ từ chau lại, đầy nghi hoặc nhưng không hề hoảng sợ.
– Ha ha, có người không hoan nghênh chúng ta tới thăm quan nơi đây. – Chung Húc cười nhạt, rồi bước tới lối đi ở chính giữa, nhìn thẳng vào phía trước vốn không có bất cứ hiện tượng khác thường nào, vẻ cảnh giác và ngạo nghễ bừng lên trong mắt, dường như thứ đang lượn lờ trước mặt không phải là không khí, mà là loài ác ma không đội trời chung.
– Có… yêu khí à? – Tư Đồ Nguyệt Ba đứng bên cạnh cô. Mỗi khi Chung Húc có biểu hiện giống như thế, có nghĩa là một trận quyết chiến đã bắt đầu.
– Không có! – Câu trả lời của Chung Húc nằm ngoài dự liệu của anh – Em không cảm nhận thấy bất kỳ một luồng yêu khí nào đang chuyển động. Thật là quái lạ… Thế nhưng, em khẳng định, ở một chỗ nào đó, có một đôi mắt đáng ghét vẫn luôn nhìn trộm chúng ta.
Nghe cô nói vậy, Tư Đồ Nguyệt Ba không đáp lời, lẳng lặng quét ánh nhìn khắp mọi hướng, dường như đang tìm kiếm “đôi mắt" đang ẩn nấp trong bóng tối.
Làn khói trắng mờ phả ra từ mũi họ, trong sảnh yên tĩnh một cách dị thường. Lúc hai người không lên tiếng, chỉ còn nghe thấy những hơi thở khe khẽ.
– Á!
Thình lình, một tiếng rú chói tai phá tan bầu tĩnh lặng vô cùng tận. Cho dù tiếng rú vẳng lại từ ngoài cổng, nhưng vợ chồng Chung Húc vẫn lập tức đoán ra, đó là tiếng của Kính.
Hai người lập tức co cẳng chạy lao ra phía cổng, vừa chạy vừa thầm ân hận vì vừa nãy chỉ nghĩ được rằng bên trong tu viện có thể có nguy hiểm, mà lại quên bẵng mất, để một cô gái đứng một mình trong rừng núi hoang vắng, chưa nói tới yêu ma, cho dù chỉ gặp một con dã thú bình thường, cũng đã không đủ sức chống đỡ.
Tư Đồ Nguyệt Ba kéo mạnh cánh cửa khép hờ, sau tiếng kẽo kẹt, hai vợ chồng một trước một sau lao vọt ra ngoài. Nhưng, cảnh tượng xuất hiện ngay trước mắt đã lập tức khiến họ như bị đóng đinh tại chỗ…
Ngoài cổng, không còn là khu vườn hoang um tùm cỏ dại mà họ nhìn thấy khi mới bước vào, mà là gian đại sảnh rộng lớn và đổ nát của tu viện. Ghế băng, giá nến, cột trụ màu trắng, thậm chí tới cả súc gỗ rơi xuống bên cạnh đàn thánh, đều giống y hệt.
Tư Đồ Nguyệt Ba chớp mạnh đôi mắt theo phản xạ, rồi huých vào người Chung Húc.
– Em ơi, anh không bị hoa mắt đấy chứ?
– Không hề! – Chung Húc đã quá quen với những cảnh tượng cổ quái, sắc mặt vẫn bình thản, điềm nhiên nói – Chúng ta lại quay trở vào rồi.
Lại ngoảnh đầu, thì cảnh cửa không biết đã đóng sập lại tự bao giờ. Tư Đồ Nguyệt Ba đẩy mạnh vào cánh cửa, phát hiện ra nó đã biến thành tường đồng vách sắt, dù anh có dồn hết sức lực cũng không hề suy suyển. Họ đứng sau cánh cửa, lối đi dằng dặc bắt đầu kéo dài từ dưới chân họ, còn đường về, đã bị bít kín.
– Có em ở đây, anh cứ yên tâm! Vào được thì tự nhiên sẽ ra được. – Chung Húc kéo chồng lại gần, có phần lo lắng người chồng chưa bao giờ gặp phải tình huống tương tự bị khủng hoảng tâm lý.
– Anh biết rồi, anh chỉ cảm thấy rất quái lạ mà thôi. – Tư Đồ Nguyệt Ba cũng điềm tĩnh không kém Chung Húc, mỉm cười vỗ lên vai vợ – Chồng em không phải gã thỏ đế đâu! – Sắc mặt anh chợt sầm xuống – Chúng ta phải nhanh chóng tìm ra Kính… Nếu như, cô ấy cũng ở “trong này".
– Gượm đã, tiếng hét chúng ta vừa nghe thấy, chưa chắc đã là của Kính! – Lúc này, Chung Húc lại không hề nôn nóng đi tìm người. Cô bước lên mấy bước, lấy ra một chiếc lọ nhỏ màu trắng từ trong túi, chấm lấy một ít thứ gì đo đỏ như bột màu lên đầu ngón tay, sau đó ấn lên giữa hai đầu lông mày, tập trung tinh thần, quát khẽ một tiếng:
– Mở! – Từ đôi mắt sáng rực của cô rọi ra hai ánh mắt sắc bén tới mức có thể xuyên thấu bê tông cốt thép, mọi ngóc ngách trong sảnh đều không thoát khỏi tầm nhìn của cô.
Nhưng rất nhanh, cô khẽ chau mày, nói:
– Không phải là ảo giác… Thứ chúng ta đang nhìn thấy là một không gian thực sự.
Tư Đồ Nguyệt Ba nhìn chằm chằm vào vết đỏ giữa ấn đường của vợ, thắc mắc:
– Lẽ nào nãy giờ em tưởng rằng cả hai chúng ta đều bị ảo giác?
– Một số yêu tà có thể tạo ra ảo giác để mê hoặc và đánh lén con người. Thứ chu sa thông linh gia truyền của nhà em chuyên dùng để phá giải chiêu ảo giác. – Chung Húc cất chiếc lọ vào trong túi, nghiêm túc nói – Bây giờ em có thể khẳng định, gian đại sảnh vốn dĩ không nên xuất hiện trước mặt chúng ta, đúng là một không gian thực, chứ không phải là ảo giác do ngoại lực tạo ra.
Nghe cô nói vậy, Tư Đồ Nguyệt Ba không khỏi lo lắng:
– Nếu đây là một không gian thực, thì tiếng hét vừa nãy…
– Đi tìm người thôi! Gian đại sảnh nhìn qua là thấy cả rồi, lên lầu tìm xem thế nào. – Chung Húc rảo nhanh bước chân, tìm kiếm cầu thang dẫn lên tầng hai của tu viện. Bước tới một chỗ bị che khuất bởi ván gỗ và đá tảng lộn xộn ở mé phải của đàn thánh, Tư Đồ Nguyệt Ba dừng chân, dỡ bỏ vài tấm gỗ, một cánh cửa sắt màu đỏ sậm, rỉ sét loang lổ đột nhiên hiện ra phía sau. Anh liền gọi Chung Húc đang sục sạo ở phía trước quay lại, hai người hợp sức dọn dẹp những chướng ngại vật đã mục ruỗng vì thời gian và bụi bặm sang một bên.
– Liệu Kính có ở trên đó không? – Tư Đồ Nguyệt Ba phẩy lớp bụi dày đặc đang xộc tới trước mặt, nhìn cánh cửa sắt với tay nắm đã rỉ sét hoàn toàn, thoạt nhìn đã biết rất nhiều năm không có ai động chạm đến – Chỗ này hoàn toàn không có vẻ gì là đã có người đi qua.
Chung Húc lại không nghĩ nhiều đến vậy, thuận tay nhấc bổng một hòn đá trọng lượng không hề khiêm tốn lên, đập thẳng cánh vào ổ khóa lủng lẳng muốn rơi trên cánh cửa, khiến vật bảo vệ có cũng như không này rụng luôn xuống đất – Nếu yêu nghiệt muốn mang con tin lên trên tầng, hoàn toàn không cần theo lối cầu thang. Nhưng em với anh nhất định phải đi theo cầu thang. – Nói xong, cô khẽ đẩy nhẹ một cái, vôi vữa lẫn với mạt sắt rơi xuống lả tả như mưa trong lúc cánh cửa lắc lư mở ra. Một cầu thang tối thẳm sặc mùi ẩm ướt và lạnh lẽo chạy thẳng đứng lên trên, chìm khuất trong bóng tối, không nhìn thấy tận cùng.
– Đi thôi! – Chung Húc lách người qua khe cửa, còn Tư Đồ Nguyệt Ba trước khi bước theo cô, đột nhiên quay đầu nhìn về phía đàn thánh, một tia khác lạ bỗng vụt qua trong mắt anh.
Bật chiếc bật lửa lên, ngọn lửa bé xíu tỏa ra quầng sáng nhỏ hẹp, chiếu sáng cho hai con người đang lò dò leo từng bậc cầu thang. Tư Đồ Nguyệt Ba chốc chốc lại nhìn vào bức tường lúc ẩn lúc hiện trong ngọn lửa bập bùng, nói với Chung Húc:
– Em nhìn lên tường xem, hình như có những hoa văn rất cổ quái.
Ghé bật lửa vào sát tưởng, hai người quan sát kỹ lưỡng bức tường đất đã bong tróc từng mảng lớn, phát hiện ra lớp tường bên trong có khắc một chuỗi ký hiệu màu đỏ không phải tiếng Trung không phải tiếng Anh cũng chẳng phải hình vẽ, xếp thành một hàng ngang thẳng băng. Nếu không phải lớp vữa bên ngoài đã bị tróc lở, thì hoàn toàn không thể phát hiện ra bên trong lại có những thứ quái quỷ này.
– Những thứ này… rất giống… cũng không phải… – Tư Đồ Nguyệt Ba nhìn chằm chằm vào thứ “ký tự ngoài hành tinh" kia, dường như đã nhận ra chúng, nhưng lại không chắc chắn. Chung Húc hết ngoẹo cổ sang phải lại ngả đầu sang trái, rồi nói – Giống như tiếng Anh, nhưng lại không phải, hơn nữa, nét bút sao trông lại kỳ quặc thế nhỉ? Nhưng dựa vào kinh nghiệm của em, những ký hiệu này có lẽ là một loại bùa chú gì đó, nếu không, đã chẳng phải giấu kín trong tường một cách thần bí đến thế.
– Khoan đã… – Tư Đồ Nguyệt Ba hai mắt vụt sáng, móc trong túi áo ra chiếc điện thoại có thiết kế mặt gương, chiếu thẳng vào dòng chữ trên tường, đột ngột hiểu ra – Thảo nào anh cứ thấy rất quen mắt mà lại không nhận ra được, hóa ra những ký hiệu trên bức tường này toàn bộ đều là chữ Hebrew viết ngược. Em xem này!
Anh giơ chiếc điện thoại ra trước mặt Chung Húc. Nhìn vào những ký tự phản chiếu trên mặt điện thoại, Chung Húc kinh ngạc ra mặt:
– Đúng là chữ Hebrew! Chả trách em cứ thấy nó kỳ quặc thế nào, hóa ra toàn bộ đều viết ngược! Nhưng… – Hai người cùng rời mắt khỏi bức tường. Một chuỗi ký tự Hebrew viết ngược được giấu kín trong tường, giống như một ngòi nổ thình lình xuất hiện, không hẹn mà cùng dấy lên trong lòng họ một dự cảm nguy hiểm vô cùng ma quái.
Một tu viện thình lình xuất hiện bên ngoài cánh cửa, một không gian bồng bềnh giữa chân thực và ảo giác, giống như một hố đen tham lam khổng lồ, mang vọng tưởng nuốt chửng bất cứ con mồi nào mà nó hợp nhãn.
Ôm theo một bụng nghi ngờ, hai người đã leo hết đoạn cầu thang dài dằng dặc.
Hai người hoàn toàn không ngờ được rằng, thứ nghênh đón họ ở cuối cầu thang không phải một cánh cửa sắt đóng im lìm, cũng không phải một lối đi bình thường, mà là một bức mành mành bằng pha lê, hoặc có lẽ là thủy tinh, buông dài từ trần nhà xuống tận sàn. Lớp bụi dày cộm đã phủ lấp màu sắc và vẻ sáng bóng vốn có, trông nó giống như một nữ tỳ ăn mặc xoàng xỉnh đang cụp mắt nhìn xuống, cúi mặt thõng tay cung kính đợi lệnh.
Vén mành bước qua, bụi bặm mù mịt rơi xuống đầy đầu họ. Nhưng vén tấm mành này lên, họ lại nhìn thấy ngay tấm mành thứ hai, lại vén lên, vẫn còn có tấm thứ ba. Hai người đưa mắt nhìn nhau, sau đó kiên nhẫn lặp lại động tác vừa nãy, cứ thế cho tới khi đi qua bức mành thứ bảy, một luồng sáng chói mắt bất ngờ rọi tới, giống như vừa từ hang động tối tăm đột ngột bước ra một không gian rực rỡ ánh mặt trời. Chung Húc và Tư Đồ Nguyệt Ba đồng thời nghiêng mặt sang một bên theo phản xạ, né tránh luồng sáng thình lình chiếu tới.
Vài giây sau, khi mắt họ đã thích ứng với ánh sáng bất ngờ, Chung Húc nhìn thấy tầng thứ hai của tu viện bày ra trước mắt, bất chợt sững người. Tư Đồ Nguyệt Ba thì há hốc cả miệng, rồi lẩm bẩm một mình:
– Đây… có lẽ không giống với cách bài trí của tu viện cho lắm!
Đá hoa cương màu trắng ngà lát thành mặt sàn bóng lộn như gương. Chỗ tiếp giáp giữa các bức tường đều được trang trí bằng phù điêu làm từ gỗ hồng mạ vàng. Trên bức tường chính trước mặt họ có treo vài chục bức tranh nền trắng vẽ hoa văn màu xanh lam. Ngoài vài món đồ nội thất xa hoa mang phong cách cổ điển của châu Âu thời Trung Cổ, còn có không ít đồ sứ Trung Quốc kiểu dáng tinh xảo trang nhã được điểm xuyết một cách tinh tế ở những vị trí đẹp nhất. Bên cửa sổ, những tấm rèm bằng sa tanh màu trắng ngà viền đăng ten và sợi dây lụa màu lam phơn phớt buộc phía trên đang phơ phất tung bay trong gió nhẹ. Chùm đèn pha lê treo trên trần nhà dịu dàng tỏa xuống thứ ánh sáng màu vàng nhạt. Trong toàn bộ không gian phòng lớn, ánh huỳnh quang sóng sánh như nước.
– Em ơi, có phải là ảo giác không? – Tư Đồ Nguyệt Ba nghi hoặc hỏi vợ. Kỳ thực, bất kể là ai, cũng đều không thể tưởng tượng được gian phòng cực kỳ xa hoa và lịch sự trước mắt có liên quan gì đến một tu viện trang nghiêm khô cứng.
Chung Húc lắc đầu:
– Không phải! Vẫn là không gian thực.
– Thật là quá thú vị… – Tư Đồ Nguyệt Ba phá lên cười vang, rồi than thở – Chúng ta đang tới nơi nào thế này?
– Anh đừng sợ, sẽ không xảy ra chuyện gì đâu! – Chung Húc tự tin bảo đảm, sau đó quệt đầu ngón tay lên mặt tủ bên cạnh, rồi chìa ra trước mặt chồng, nói với vẻ đùa cợt:
– Anh nhìn xem, nơi này sạch bong. Người sống ở đây cũng chăm chỉ đấy chứ!
– Có người sống ở đây à? Anh chẳng nhìn thấy một ai cả… – Tư Đồ Nguyệt Ba quay một vòng tại chỗ. Gian phòng này tuy lớn, nhưng lại rất đỗi trống trải, vừa nhìn đã thấy được toàn bộ, không có bất kỳ góc khuất nào có thể ẩn nấp.
– Vị chủ nhân này tính tình rất e thẹn, hoặc là xấu xí quá, nên không dám ra gặp khách khứa, đương nhiên là anh không nhìn thấy được rồi! – Chung Húc cố làm ra vẻ thản nhiên, tiếp tục pha trò, rồi lại bước lên mấy bước, sắc mặt vụt sa sầm, quát khẽ một tiếng:
– Yêu khí…
– Cái gì… – Tư Đồ Nguyệt Ba còn chưa kịp dứt lời, chợt nghe “uỳnh" một tiếng kinh người bên mé phải. Chiếc tủ đứng màu trắng với phần mép khảm vàng đặt bên phải bức tường chính thình lình bị đẩy bật tung từ bên trong, một thân người lăn lông lốc ra qua cánh cửa mở rộng.
Tác giả :
Sa La Song Thụ