Bộ Khuy Kỳ Lạ
Chương 8: Tù nhân của Áp-Đun-Bây
Hà Khâm cũng tán đồng ý kiến của Un Sa Cơ hối thúc mọi người ra về.
Cả bọn lên ngựa ra roi cho ngựa rảo bước. Ai cũng mong cho mau về tới nơi và không một người nào nghĩ đến việc có thể bất ngờ lỡ độ đường phải ngủ ngay trên sa mạc.
Un Sa Cơ lên tiếng:
- Để tôi dẫn đầu soi đường đi cho dễ. Có sẵn đèn bấm đây. Cẩn thận chút xíu. Quãng này có mấy đám cát "lỏng" nguy hiểm lắm đó. Nhưng quý vị có thể yên tâm, tôi nhớ chổ hết.
Nói xong tên lùn mập cho ngựa phi nước đại. Ba người bạn phóng theo. Việt Kim luôn luôn đưa tia mắt ngó chừng Un Sa Cơ. Lão mập lùn chốc chốc lại loáng tia đèn bấm quét lên ba người. Không ai rỉ răng nói một lời. Việt Kim lắng đọng suy tư. Em chậm rãi tổng hợp mọi ý nghĩ chợt hiện ra trong đầu óc và tin tưởng một cách chắc chắn là Un Sa Cơ chẳng màng gì tới vấn đề nghiên cứu tìm hiểu vương quốc Du-Ráp cổ xưa hết. Trái hẳn thế, y chỉ chú trọng đến nguồn tài nguyên phong phú nơi đây hiện có, mà lại có nhiều vô kể, còn ở ngầm dưới cát, nghĩa là: những giếng dầu lửa. Em rất tiếc là đã không xem xét các dụng cụ tại căn lều của Un Sa Cơ một cách tỉ mỉ hơn nữa. Việt Kim lẩm bẩm: "Nếu ở đây mà lại có cái giàn thang bằng thép cao nghệu thì là đúng đấy." Tiếc rằng không thấy đâu cả. Nhưng em lại biết chắc rằng kỹ sư Hoàng không dùng cái lưỡi khoan đó để sới đào, khảo cổ. Ký ức Việt Kim cố điểm lại một lượt mọi dụng cụ em đã được đích mắt trông thấy ở ngoài trại chính. Và em nhớ được là trong một cái thơ viết cho ký giả Hải Âu, ba em, kỹ sư Hoàng có than phiền nhiều về vấn đề thiếu hẳn dụng cụ máy móc nên cứ phải đào bới một cách thủ công nghiệp, từng ly từng tấc một... Vậy mà tại sao lại có đồ nghề cơ khí, những lưỡi khoan cất giấu tại một khu hẻo lánh Un Sa Cơ mới dẫn mọi người tới đó.
Tư tưởng miên man, em lại nghĩ tới vợ chồng kỹ sư Hoàng. Ông bà này kể cũng hơi kỳ lạ. Nhất là ông chồng. Tại sao ông ta lại không ra chào tiễn bốn người khi cả bọn lên ngựa đi thăm khu trại phụ xa xôi. Un Sa Cơ nói rằng sáng kiến tổ chức cho ba người khách đi thăm là của ông Hoàng mà tại sao lại không thấy ông này nói gì hết? Thế rồi tại sao nơi lỗ đào sâu hun hút như cái giếng đó lại không thấy bóng dáng một người thợ nào cả?
Bao nhiêu thắc mắc dồn dập làm nhức nhối khiến đầu em nhức như búa bổ. Á kìa! Sao lại lạ thế kia? Đèn bấm soi đường chiếu xuống mặt cát sao không chiếu mà lại chiếu lên trời loang loáng, tắt sáng, tắt sáng như làm hiệu vậy. Hay là Un Sa Cơ bấm đèn ra dấu cho mọi người ở trại chính là bốn người đi thăm khu trại trong đã về tới.
Chưa kịp hiểu sự thực ra sao, Việt Kim đã nghe có nhiều tiếng vó ngựa đập lộp cộp, lạo xạo trên cát. Ánh đèn "pin" lấp loé soi rõ bóng người lố nhố đang phi ngựa lao tới. Un Sa Cơ dừng ngay lại giữa đám bụi mù. Việt Kim nói nhanh báo tin cho Hà Khâm, Á Minh biết, đồng thời trống ngực em đập thình thịch mà em chẳng hiểu tại sao. Liếc mắt nhìn nhanh, hơn mười bó đuốc lập loè như ma trơi nắm chắc trong tay của những người ăn mặc nhơm nhuếch bẩn thỉu, râu ria xồm xoàm, mặt mũi dữ tợn. Đúng là dân thảo khấu của một bộ lạc du mục nào đó rồi. Hai tên xấn tới lôi tuột Á Minh và Hà Khâm xuống khỏi lưng ngựa. Một tên thứ ba sáp lại bên Việt Kim thì bị em giật cương cho ngựa chồm tới hất hai chân trước lên. Em định cho ngựa đá tung vào mặt nó, nhưng vô ích, tên cướp mạnh và nhanh như con beo, nghiêng đầu né khỏi, vươn tay ra rất lẹ nắm cứng lấy đai da gần hàm thiếc ghì chặt đầu ngựa lại. Tay y hất mạnh một cái, Việt Kim đã mất đà ngã lộn xuống mặt cát. Rồi vai y chỉ hích nhẹ, em đã bị xô bắn lại phía Hà Khâm và Á Minh đang run rẩy đứng dựa lưng vào nhau.
Trong bóng đêm, Việt Kim liếc mắt có ý tìm xem Un Sa Cơ đâu. Thì ra tay lùn mập đang bị hai tên cướp mặc áo đen dài lụng thụng giữ hai cánh tay đẩy mạnh tiến lại gần một tên khác, bóng dáng hùng vĩ, ngồi oai nghiêm trên lưng một con ngựa trắng. Sắc của con ngựa cao lớn như vẽ thành một vệt sáng trong bóng đêm đen. Nhất định tên này phải là tên chỉ huy.
Việt Kim hỏi nhanh:
- Dân bộ lạc nào đây, Hà Khâm?
Giọng Hà Khâm mất hẳn vẻ bình tĩnh thường ngày.
- Chịu, không biết được, chị Kim! Có lẽ là người của một bộ lạc du mục trong số các bộ lạc tự trị không chịu thần phục đức Shah đó. Họ gạt bỏ, từ chối hết viện trợ của quốc vương Du-Ráp cho nên mức sống phải lầm than, lam lũ như vậy đó. Phải công nhận họ là một sắc tộc kiêu hùng nhưng thù dai như đỉa ấy. Tôi lo lắm!
Á Minh xích lại gần để Hà Khâm quàng tay lên vai cho em đỡ sợ. Hà Khâm nói sẽ vào tai em:
- Á Minh đừng nói là con gái của Thủ Tướng nhé!
"Búp bê" ngước đôi mắt thất đảm ngó vị hôn phu, không nói gì, sẽ gật.
Việt Kim vẫn không rời mắt khỏi Un Sa Cơ và tên chúa đảng, nhân vật cưỡi ngựa trắng. Gã này nói như quát, như thét, âm thanh nghe thật dữ dội phát sờn gai ốc. Việt Kim hạ giọng bảo Hà Khâm thông dịch lại cho nghe. Chàng trai khẽ lắc đầu: "Chịu, không hiểu gì hết đâu chị Kim! Họ nói thổ ngữ riêng của họ mà!"
Một lúc sau mà ba người tưởng chừng như lâu lắm, Un Sa Cơ đi lại: - Tên chỉ huy tự xưng là Áp Đun Bây, vua chính thức của Du-Ráp. Hắn nói là sẽ giữ tụi mình làm con tin tới khi nào đức quốc vương "Shah" công nhận quyền hạn của hắn mới thôi!
Á Minh:
- Ủa! Hắn điên sao chớ! Khi nào đức Shah lại chịu nhường ngôi cho hắn.
Un Sa Cơ:
- Chúng ta phải đi theo hắn về đại bản doanh.
Hà Khâm và Việt Kim quay nhìn thật lẹ chung quanh: toán quân bí mật giờ đây có tới hai chục người ngồi im lặng lầm lì trên mình ngựa, tiếng chân ngựa đập lên mặt cát nghe lạo xạo như ngầm báo cho cả bọn biết là: "chống cự vô ích, hơn thua đã thấy rõ".
Tiếng Un Sa Cơ:
- Không thể làm gì được nữa đâu! Thôi, cứ đi theo họ cho được việc!
Gần một chục tên sáp lại khoát tay ra hiệu cho bốn người lên ngựa. Rồi chúng thúc ngựa quay thành hình vuông, giựt cương cho tuấn mã nện vó, vây bọn bốn người ở giữa. Hết đường chạy trốn.
Chưa đầy mười phút sau đã tới bản doanh của bọn người bí mật.
Tụi vệ binh hất tay ra ra dấu bảo bốn người xuống ngựa, đẩy cả bọn, bắt đi vào một căn lều đen sì, mái che bằng da dê. Đoạn, vẫn nói bằng tay, họ ra lệnh cho đàn bà con gái ở lại đây. Còn đàn ông phải theo họ đi tới một chỗ khác.
Á Minh run vì sợ và vì tiết trời về đêm ở sa mạc rất lạnh, nằm cuộn tròn sát vào Việt Kim. Em vuốt tóc cô bạn bé nhỏ:
- Đừng lo ngại gì hết nghe, Á Minh! Chị hứa với em là thế nào chúng ta cũng sẽ thoát khỏi nơi đây.
Mệt nhọc và sợ hãi khiến thể xác hai cô gái mỏi rã rời. Một lúc sau, hai chị em đã chìm sâu vào trong một giấc ngủ nặng như chì.
Sáng hôm sau, trời mới hừng Đông, toàn khu trại đã ồn ào nhộn nhịp: gia súc kêu ỏm tỏi, con nít khóc oa oa, dê cừu "be be" nhức óc, soong chảo khua rổn rảng.
Việt Kim ngồi nhỏm trên giường, hết sức nhẹ tay để Á Minh ngủ ngon.
Em bước xuống, vươn vai, tiến ra cửa lều. Một tên đứng gác giương mắt ngó nhưng không có một cử chỉ hoặc một lời nào để ngăn giữ khi em bước ra ngoài. Un Sa Cơ ngồi gần đó từ bao giờ, bên một đống lửa. Hai phụ nữ đang bưng thức ăn đến cho ông ta. Thật lạ lùng! Coi bộ lão lùn nhởn nhơ bình thản, chẳng có vẻ gì là tù nhân cả. Ông ta giơ tay ngoắc Việt Kim ra hiệu bảo tới gần. Một người đàn bà đặt vào tay Việt Kim một ly lớn đựng đầy chất lỏng gì nóng hừng hực. Em đưa lên miệng uống ngon lành cái nước đó, nóng, ngọt, không béo ngậy như sữa nhưng mùi thơm rất dễ chịu... Un Sa Cơ ghé vào tai em, nói thật nhanh bầy cho em cách đào tẩu:
- Cô lén đi tới chỗ tàu ngựa, tháo lấy một con, phóng ngược lên hướng Bắc! Lẹ đi, làm ngay đi! Còn Hà Khâm và Á Minh để tôi lo thu xếp cho trốn sau!
Liếc nhanh nhìn tàu ngựa, Việt Kim thấy có tới gần một chục người vệ binh đứng gác. Em trực cảm thấy rõ ràng lão lùn này định xúi em vào chổ chết đây. Định trả lời đốp chát vào bộ mặt nham hiểm của tên lùn mập, nhưng em lại nín kịp, vờ nở một nụ cười làm bộ như không hiểu lão nói gì. Bộ răng chó sói nhe ra, Un Sa Cơ cười sằng sặc:
- À, cô nói tiếng Pháp kém quá hả? Tôi nói thế mà không hiểu hả? Dốt quá vậy?
Việt Kim thản nhiên ngồi ăn điểm tâm, không bắt chuyện. Xong, đứng dậy, em thả bước đi loanh quanh trong khu trại có ý thăm dò xem bọn này cho phép các "tù binh" được tự do tới mức nào. Em sán gần tới bên dìa khu trại, nơi nhốt rất nhiều dê cái. Loáng tia mắt thật nhanh, em nhận thấy không một ai buồn để ý tới em hết. Một chú nhỏ chừng sáu, bẩy tuổi, trông thấy Việt Kim đang vuốt ve một con dê con, nhoẻn miệng, nhe bộ răng sún ra cười. Có lẽ khu cấm địa duy nhất chắc chỉ là... tàu ngựa.
Thời gian như ngưng lại. Ngày giờ kéo dài ra. Ba người bạn cứ loanh quanh tha thẩn giữa đám người trong bộ lạc bán khai này, chẳng biết làm gì cho đỡ sốt ruột. Ăn uống, được cung cấp đầy đủ. Có điều đặc biệt những người đến gần đối thoại với ba người chỉ toàn là... phụ nữ. Tuyệt đối không một người của phái khoẻ.
Khi chiều xế, Việt Kim ngạc nhiên vì không thấy bóng dáng Un Sa Cơ đâu. Em sực nhớ là y đã vắng mặt từ lúc trưa rồi chứ không phải mới đây đâu. Hỏi, Hà Khâm cho biết:
- Hơn một giờ trước đây tôi thấy ông ta loanh quanh gần tàu ngựa mà!
Việt Kim la khẽ:
- Ủa, sao lại thế được! Vậy ra ông ta được phép lai vãng tới chổ đó sao?
Mấy phút sau, ông mập lùn, tóc bàn chải, ở đâu chạy sồng sộc vào trong lều. Hai tay ông ta xách khệ nệ ba cái túi lớn của Việt Kim, Hà Khâm và Á Minh.
- Úi chà! Nặng quá! Tôi cố na về phòng xem ai có cần dùng gì chăng
Á Minh láu táu mừng rỡ ra mặt:
- Trời! Ông tốt quá! Tôi cần cái lược chải đầu mà tìm mượn cả ngày trời không được. Thú quá!
Việt Kim đưa tay với lấy cái "sắc" Du-Ráp đẹp Hà Khâm tặng em, nét mặt thản nhiên lạnh lùng như không. Em thầm nghĩ: "Ờ, ờ! Thú thật! Tốt thật! Nhưng kể cũng hơi lạ. Un Sa Cơ được phép lảng vảng tới khu cấm địa, không những thế mà lại còn đi sâu mãi vào phía trong để lấy được cả mấy cái của ba người ra. Tại sao ông ta lại được hưởng cái đặc ân đó chứ?"
Nhưng rồi, tuổi trẻ dễ buồn mà cũng dễ vui. Mấy cái túi đồ khiến ba người thích thú. Lấy ít đồng tiềng cắc và hơn chục cái khuy nhỏ, Việt Kim bày ra một bàn cờ chiếu tướng. Em vẽ ô lên miếng bìa bao ngoài xấp giấy viết thơ và dạy Hà Khâm, Á Minh cách đi quân.
Phút sau, hai người đã thạo các nước cờ như những người chuyên nghiệp. Hà Khâm thỉnh thoảng lại thét lên, suýt soa tiếc rẻ, mỗi khi Á Minh chặt mất quân.
Để hai bạn ham mê chặt quân, chiếu tướng, Việt Kim thừa lúc không ai để ý, cất lẻn ra đi, có ý rình rập Un Sa Cơ. Tên ngũ đoản, hai tay thọc túi quần, mặt cúi nhìn mũi giầy, thẫn thờ đặt bước như một kẻ nhàn du. Đột nhiên chử chỉ ông ta thay đổi khác hẳn. Quay đầu liếc thật nhanh về phía lều ba người, Un Sa Cơ lớn bước đi như chạy về phía đầu khu trại đằng kia, nơi có tới hơn một chục chiếc lều khác, vây quanh một chiếc to cao hơn tất cả, màu trắng toát. Căn lều đặc biệt của tên chỉ huy. Việt Kim đứng ở một góc khuất tầm mắt lão Un quyết định rất lẹ: tìm hiểu bằng được tay lùn mập tới đó làm gì!
Em rút nhẹ một tấm mền len cũ của ai vắt trước cửa một căn lều, quàng đại lên đầu, cho nó rủ xuống che kín toàn thân như các thiếu phụ khác trong bộ lạc. Rồi bắt chước họ có thói quen vừa đi vừa nhảy tưng, em hết sức nhẹ nhàng khéo léo để không ai chú ý đến mình, tiến lại gần căn lều vải trắng. Đến nơi, em nằm rạp xuống mặt cát áp tai vào khe hở thầm nghe ngóng.
Tên tù trưởng nói bằng tiếng Pháp ngọng nghịu vấp váp, giọng ôn tồn:
- Sao ông đến trễ quá vậy?
Tiếng Un Sa Cơ:
- Phải nấn ná thong thả như thế tụi nó mới không nghi ngờ. Lúc nào cũng cần phải làm sao cho họ đinh ninh là tôi cũng bị bắt làm con tin như họ mới được. Sơ ý là họ nghi ngờ có liên lạc mật thiết với ông là hỏng hết, không còn làm được cái gì ở Ba-ga-ra nữa đâu. Phải cẩn thận, dè dặt đề phòng dữ lắm, nếu không là nguy đó. À, này, nhất là cái con nhỏ người Việt Nam đó. Tai và mắt nó nhanh như chớp ấy, coi chừng nó cho kỹ mới được, nghe ông!
Viên tù trưởng giọng khắc khoải:
- Sao? Ông đã tìm thấy được gì chưa?
Việt Kim hết sức đợi chờ Un Sa Cơ trả lời:
- Chắc chắn rồi! Tôi đã kiếm ra được giếng dầu! Xứ sở của tôi sẵn sàng nổi dậy nếu được ông và bộ lạc ông giúp sức. Nhưng các ông đã sẵn sàng chưa?
Tên tù trưởng gật đầu:
- Hiện tôi đang chờ ba vị tù trưởng nữa. Bao giờ họ tề tựu đông đủ, tôi sẽ bàn luận với họ rồi sẽ cho lệnh rõ rệt.
Un Sa Cơ mừng rỡ:
- Vậy thì tốt lắm! Và bây giờ ông cho người áp giải tôi về chỗ tụi nó. Bảo họ giả vờ xô đẩy quát tháo thật dữ vào nghe!...
Núp dưới tấm khăn choàng, Việt Kim nghe tiếng giằng co xô đẩy, rồi tiếng người nguyền rủa, quát tháo ầm ĩ. Hé mắt qua khe hở khăn choàng, em thấy rõ hai tên túm áo Un Sa Cơ giữ chặt tưởng chừng như sắp đánh lộn vậy. Em vội vàng bò nhanh tới căn lều kế bên, liệng trả tấm mền, cắm đầu cắm cổ chạy về chỗ Hà Khâm và Á Minh trước Un Sa Cơ. Tên ngũ đoản vừa đi vừa vùng vằng nguyền rủa hai tên vệ binh ầm ĩ.
Á Minh, Hà Khâm thò cổ qua cửa lều thì thấy hai du mục thẳng tay xô mạnh Un Sa Cơ ngã dúi xuống trước cửa căn lều. Chưa ai kịp hỏi gì, ông lùn mập đã liến láu cái miệng:
- Tụi nó bắt giữ tôi khi tôi mon men đến gần căn lều lãnh tụ của chúng. Tôi có ý định gặp tên chỉ huy này xem có thể nói chuyện ôn hòa được không. Không biết làm cách nào để tụi nó trả tự do cho anh em mình đây chứ.
Việt Kim hỏi mát:
- Chắc ông cũng đã dự tính kế hoạch cho bọn mình thoát hiểm ra sao rồi chứ?
Miệng hỏi, nhưng trong thâm tâm em nguyền rủa tên phản trắc này chẳng tiếc lời. Đồng thời em quyết định sẽ vờ như bị mắc mưu của hắn cho hắn khỏi áy náy nghi ngờ gì hết. Và cũng sẽ im lìm không cho Hà Khâm biết vội, e lộ hết.
Việt Kim nghiến răng tự nhủ:
- Thế nào cũng phải tìm cách trốn khỏi nơi đây để báo tin cho chính phủ Ba-ga-ra và đức vua biết ngay mới được.
Cả bọn lên ngựa ra roi cho ngựa rảo bước. Ai cũng mong cho mau về tới nơi và không một người nào nghĩ đến việc có thể bất ngờ lỡ độ đường phải ngủ ngay trên sa mạc.
Un Sa Cơ lên tiếng:
- Để tôi dẫn đầu soi đường đi cho dễ. Có sẵn đèn bấm đây. Cẩn thận chút xíu. Quãng này có mấy đám cát "lỏng" nguy hiểm lắm đó. Nhưng quý vị có thể yên tâm, tôi nhớ chổ hết.
Nói xong tên lùn mập cho ngựa phi nước đại. Ba người bạn phóng theo. Việt Kim luôn luôn đưa tia mắt ngó chừng Un Sa Cơ. Lão mập lùn chốc chốc lại loáng tia đèn bấm quét lên ba người. Không ai rỉ răng nói một lời. Việt Kim lắng đọng suy tư. Em chậm rãi tổng hợp mọi ý nghĩ chợt hiện ra trong đầu óc và tin tưởng một cách chắc chắn là Un Sa Cơ chẳng màng gì tới vấn đề nghiên cứu tìm hiểu vương quốc Du-Ráp cổ xưa hết. Trái hẳn thế, y chỉ chú trọng đến nguồn tài nguyên phong phú nơi đây hiện có, mà lại có nhiều vô kể, còn ở ngầm dưới cát, nghĩa là: những giếng dầu lửa. Em rất tiếc là đã không xem xét các dụng cụ tại căn lều của Un Sa Cơ một cách tỉ mỉ hơn nữa. Việt Kim lẩm bẩm: "Nếu ở đây mà lại có cái giàn thang bằng thép cao nghệu thì là đúng đấy." Tiếc rằng không thấy đâu cả. Nhưng em lại biết chắc rằng kỹ sư Hoàng không dùng cái lưỡi khoan đó để sới đào, khảo cổ. Ký ức Việt Kim cố điểm lại một lượt mọi dụng cụ em đã được đích mắt trông thấy ở ngoài trại chính. Và em nhớ được là trong một cái thơ viết cho ký giả Hải Âu, ba em, kỹ sư Hoàng có than phiền nhiều về vấn đề thiếu hẳn dụng cụ máy móc nên cứ phải đào bới một cách thủ công nghiệp, từng ly từng tấc một... Vậy mà tại sao lại có đồ nghề cơ khí, những lưỡi khoan cất giấu tại một khu hẻo lánh Un Sa Cơ mới dẫn mọi người tới đó.
Tư tưởng miên man, em lại nghĩ tới vợ chồng kỹ sư Hoàng. Ông bà này kể cũng hơi kỳ lạ. Nhất là ông chồng. Tại sao ông ta lại không ra chào tiễn bốn người khi cả bọn lên ngựa đi thăm khu trại phụ xa xôi. Un Sa Cơ nói rằng sáng kiến tổ chức cho ba người khách đi thăm là của ông Hoàng mà tại sao lại không thấy ông này nói gì hết? Thế rồi tại sao nơi lỗ đào sâu hun hút như cái giếng đó lại không thấy bóng dáng một người thợ nào cả?
Bao nhiêu thắc mắc dồn dập làm nhức nhối khiến đầu em nhức như búa bổ. Á kìa! Sao lại lạ thế kia? Đèn bấm soi đường chiếu xuống mặt cát sao không chiếu mà lại chiếu lên trời loang loáng, tắt sáng, tắt sáng như làm hiệu vậy. Hay là Un Sa Cơ bấm đèn ra dấu cho mọi người ở trại chính là bốn người đi thăm khu trại trong đã về tới.
Chưa kịp hiểu sự thực ra sao, Việt Kim đã nghe có nhiều tiếng vó ngựa đập lộp cộp, lạo xạo trên cát. Ánh đèn "pin" lấp loé soi rõ bóng người lố nhố đang phi ngựa lao tới. Un Sa Cơ dừng ngay lại giữa đám bụi mù. Việt Kim nói nhanh báo tin cho Hà Khâm, Á Minh biết, đồng thời trống ngực em đập thình thịch mà em chẳng hiểu tại sao. Liếc mắt nhìn nhanh, hơn mười bó đuốc lập loè như ma trơi nắm chắc trong tay của những người ăn mặc nhơm nhuếch bẩn thỉu, râu ria xồm xoàm, mặt mũi dữ tợn. Đúng là dân thảo khấu của một bộ lạc du mục nào đó rồi. Hai tên xấn tới lôi tuột Á Minh và Hà Khâm xuống khỏi lưng ngựa. Một tên thứ ba sáp lại bên Việt Kim thì bị em giật cương cho ngựa chồm tới hất hai chân trước lên. Em định cho ngựa đá tung vào mặt nó, nhưng vô ích, tên cướp mạnh và nhanh như con beo, nghiêng đầu né khỏi, vươn tay ra rất lẹ nắm cứng lấy đai da gần hàm thiếc ghì chặt đầu ngựa lại. Tay y hất mạnh một cái, Việt Kim đã mất đà ngã lộn xuống mặt cát. Rồi vai y chỉ hích nhẹ, em đã bị xô bắn lại phía Hà Khâm và Á Minh đang run rẩy đứng dựa lưng vào nhau.
Trong bóng đêm, Việt Kim liếc mắt có ý tìm xem Un Sa Cơ đâu. Thì ra tay lùn mập đang bị hai tên cướp mặc áo đen dài lụng thụng giữ hai cánh tay đẩy mạnh tiến lại gần một tên khác, bóng dáng hùng vĩ, ngồi oai nghiêm trên lưng một con ngựa trắng. Sắc của con ngựa cao lớn như vẽ thành một vệt sáng trong bóng đêm đen. Nhất định tên này phải là tên chỉ huy.
Việt Kim hỏi nhanh:
- Dân bộ lạc nào đây, Hà Khâm?
Giọng Hà Khâm mất hẳn vẻ bình tĩnh thường ngày.
- Chịu, không biết được, chị Kim! Có lẽ là người của một bộ lạc du mục trong số các bộ lạc tự trị không chịu thần phục đức Shah đó. Họ gạt bỏ, từ chối hết viện trợ của quốc vương Du-Ráp cho nên mức sống phải lầm than, lam lũ như vậy đó. Phải công nhận họ là một sắc tộc kiêu hùng nhưng thù dai như đỉa ấy. Tôi lo lắm!
Á Minh xích lại gần để Hà Khâm quàng tay lên vai cho em đỡ sợ. Hà Khâm nói sẽ vào tai em:
- Á Minh đừng nói là con gái của Thủ Tướng nhé!
"Búp bê" ngước đôi mắt thất đảm ngó vị hôn phu, không nói gì, sẽ gật.
Việt Kim vẫn không rời mắt khỏi Un Sa Cơ và tên chúa đảng, nhân vật cưỡi ngựa trắng. Gã này nói như quát, như thét, âm thanh nghe thật dữ dội phát sờn gai ốc. Việt Kim hạ giọng bảo Hà Khâm thông dịch lại cho nghe. Chàng trai khẽ lắc đầu: "Chịu, không hiểu gì hết đâu chị Kim! Họ nói thổ ngữ riêng của họ mà!"
Một lúc sau mà ba người tưởng chừng như lâu lắm, Un Sa Cơ đi lại: - Tên chỉ huy tự xưng là Áp Đun Bây, vua chính thức của Du-Ráp. Hắn nói là sẽ giữ tụi mình làm con tin tới khi nào đức quốc vương "Shah" công nhận quyền hạn của hắn mới thôi!
Á Minh:
- Ủa! Hắn điên sao chớ! Khi nào đức Shah lại chịu nhường ngôi cho hắn.
Un Sa Cơ:
- Chúng ta phải đi theo hắn về đại bản doanh.
Hà Khâm và Việt Kim quay nhìn thật lẹ chung quanh: toán quân bí mật giờ đây có tới hai chục người ngồi im lặng lầm lì trên mình ngựa, tiếng chân ngựa đập lên mặt cát nghe lạo xạo như ngầm báo cho cả bọn biết là: "chống cự vô ích, hơn thua đã thấy rõ".
Tiếng Un Sa Cơ:
- Không thể làm gì được nữa đâu! Thôi, cứ đi theo họ cho được việc!
Gần một chục tên sáp lại khoát tay ra hiệu cho bốn người lên ngựa. Rồi chúng thúc ngựa quay thành hình vuông, giựt cương cho tuấn mã nện vó, vây bọn bốn người ở giữa. Hết đường chạy trốn.
Chưa đầy mười phút sau đã tới bản doanh của bọn người bí mật.
Tụi vệ binh hất tay ra ra dấu bảo bốn người xuống ngựa, đẩy cả bọn, bắt đi vào một căn lều đen sì, mái che bằng da dê. Đoạn, vẫn nói bằng tay, họ ra lệnh cho đàn bà con gái ở lại đây. Còn đàn ông phải theo họ đi tới một chỗ khác.
Á Minh run vì sợ và vì tiết trời về đêm ở sa mạc rất lạnh, nằm cuộn tròn sát vào Việt Kim. Em vuốt tóc cô bạn bé nhỏ:
- Đừng lo ngại gì hết nghe, Á Minh! Chị hứa với em là thế nào chúng ta cũng sẽ thoát khỏi nơi đây.
Mệt nhọc và sợ hãi khiến thể xác hai cô gái mỏi rã rời. Một lúc sau, hai chị em đã chìm sâu vào trong một giấc ngủ nặng như chì.
Sáng hôm sau, trời mới hừng Đông, toàn khu trại đã ồn ào nhộn nhịp: gia súc kêu ỏm tỏi, con nít khóc oa oa, dê cừu "be be" nhức óc, soong chảo khua rổn rảng.
Việt Kim ngồi nhỏm trên giường, hết sức nhẹ tay để Á Minh ngủ ngon.
Em bước xuống, vươn vai, tiến ra cửa lều. Một tên đứng gác giương mắt ngó nhưng không có một cử chỉ hoặc một lời nào để ngăn giữ khi em bước ra ngoài. Un Sa Cơ ngồi gần đó từ bao giờ, bên một đống lửa. Hai phụ nữ đang bưng thức ăn đến cho ông ta. Thật lạ lùng! Coi bộ lão lùn nhởn nhơ bình thản, chẳng có vẻ gì là tù nhân cả. Ông ta giơ tay ngoắc Việt Kim ra hiệu bảo tới gần. Một người đàn bà đặt vào tay Việt Kim một ly lớn đựng đầy chất lỏng gì nóng hừng hực. Em đưa lên miệng uống ngon lành cái nước đó, nóng, ngọt, không béo ngậy như sữa nhưng mùi thơm rất dễ chịu... Un Sa Cơ ghé vào tai em, nói thật nhanh bầy cho em cách đào tẩu:
- Cô lén đi tới chỗ tàu ngựa, tháo lấy một con, phóng ngược lên hướng Bắc! Lẹ đi, làm ngay đi! Còn Hà Khâm và Á Minh để tôi lo thu xếp cho trốn sau!
Liếc nhanh nhìn tàu ngựa, Việt Kim thấy có tới gần một chục người vệ binh đứng gác. Em trực cảm thấy rõ ràng lão lùn này định xúi em vào chổ chết đây. Định trả lời đốp chát vào bộ mặt nham hiểm của tên lùn mập, nhưng em lại nín kịp, vờ nở một nụ cười làm bộ như không hiểu lão nói gì. Bộ răng chó sói nhe ra, Un Sa Cơ cười sằng sặc:
- À, cô nói tiếng Pháp kém quá hả? Tôi nói thế mà không hiểu hả? Dốt quá vậy?
Việt Kim thản nhiên ngồi ăn điểm tâm, không bắt chuyện. Xong, đứng dậy, em thả bước đi loanh quanh trong khu trại có ý thăm dò xem bọn này cho phép các "tù binh" được tự do tới mức nào. Em sán gần tới bên dìa khu trại, nơi nhốt rất nhiều dê cái. Loáng tia mắt thật nhanh, em nhận thấy không một ai buồn để ý tới em hết. Một chú nhỏ chừng sáu, bẩy tuổi, trông thấy Việt Kim đang vuốt ve một con dê con, nhoẻn miệng, nhe bộ răng sún ra cười. Có lẽ khu cấm địa duy nhất chắc chỉ là... tàu ngựa.
Thời gian như ngưng lại. Ngày giờ kéo dài ra. Ba người bạn cứ loanh quanh tha thẩn giữa đám người trong bộ lạc bán khai này, chẳng biết làm gì cho đỡ sốt ruột. Ăn uống, được cung cấp đầy đủ. Có điều đặc biệt những người đến gần đối thoại với ba người chỉ toàn là... phụ nữ. Tuyệt đối không một người của phái khoẻ.
Khi chiều xế, Việt Kim ngạc nhiên vì không thấy bóng dáng Un Sa Cơ đâu. Em sực nhớ là y đã vắng mặt từ lúc trưa rồi chứ không phải mới đây đâu. Hỏi, Hà Khâm cho biết:
- Hơn một giờ trước đây tôi thấy ông ta loanh quanh gần tàu ngựa mà!
Việt Kim la khẽ:
- Ủa, sao lại thế được! Vậy ra ông ta được phép lai vãng tới chổ đó sao?
Mấy phút sau, ông mập lùn, tóc bàn chải, ở đâu chạy sồng sộc vào trong lều. Hai tay ông ta xách khệ nệ ba cái túi lớn của Việt Kim, Hà Khâm và Á Minh.
- Úi chà! Nặng quá! Tôi cố na về phòng xem ai có cần dùng gì chăng
Á Minh láu táu mừng rỡ ra mặt:
- Trời! Ông tốt quá! Tôi cần cái lược chải đầu mà tìm mượn cả ngày trời không được. Thú quá!
Việt Kim đưa tay với lấy cái "sắc" Du-Ráp đẹp Hà Khâm tặng em, nét mặt thản nhiên lạnh lùng như không. Em thầm nghĩ: "Ờ, ờ! Thú thật! Tốt thật! Nhưng kể cũng hơi lạ. Un Sa Cơ được phép lảng vảng tới khu cấm địa, không những thế mà lại còn đi sâu mãi vào phía trong để lấy được cả mấy cái của ba người ra. Tại sao ông ta lại được hưởng cái đặc ân đó chứ?"
Nhưng rồi, tuổi trẻ dễ buồn mà cũng dễ vui. Mấy cái túi đồ khiến ba người thích thú. Lấy ít đồng tiềng cắc và hơn chục cái khuy nhỏ, Việt Kim bày ra một bàn cờ chiếu tướng. Em vẽ ô lên miếng bìa bao ngoài xấp giấy viết thơ và dạy Hà Khâm, Á Minh cách đi quân.
Phút sau, hai người đã thạo các nước cờ như những người chuyên nghiệp. Hà Khâm thỉnh thoảng lại thét lên, suýt soa tiếc rẻ, mỗi khi Á Minh chặt mất quân.
Để hai bạn ham mê chặt quân, chiếu tướng, Việt Kim thừa lúc không ai để ý, cất lẻn ra đi, có ý rình rập Un Sa Cơ. Tên ngũ đoản, hai tay thọc túi quần, mặt cúi nhìn mũi giầy, thẫn thờ đặt bước như một kẻ nhàn du. Đột nhiên chử chỉ ông ta thay đổi khác hẳn. Quay đầu liếc thật nhanh về phía lều ba người, Un Sa Cơ lớn bước đi như chạy về phía đầu khu trại đằng kia, nơi có tới hơn một chục chiếc lều khác, vây quanh một chiếc to cao hơn tất cả, màu trắng toát. Căn lều đặc biệt của tên chỉ huy. Việt Kim đứng ở một góc khuất tầm mắt lão Un quyết định rất lẹ: tìm hiểu bằng được tay lùn mập tới đó làm gì!
Em rút nhẹ một tấm mền len cũ của ai vắt trước cửa một căn lều, quàng đại lên đầu, cho nó rủ xuống che kín toàn thân như các thiếu phụ khác trong bộ lạc. Rồi bắt chước họ có thói quen vừa đi vừa nhảy tưng, em hết sức nhẹ nhàng khéo léo để không ai chú ý đến mình, tiến lại gần căn lều vải trắng. Đến nơi, em nằm rạp xuống mặt cát áp tai vào khe hở thầm nghe ngóng.
Tên tù trưởng nói bằng tiếng Pháp ngọng nghịu vấp váp, giọng ôn tồn:
- Sao ông đến trễ quá vậy?
Tiếng Un Sa Cơ:
- Phải nấn ná thong thả như thế tụi nó mới không nghi ngờ. Lúc nào cũng cần phải làm sao cho họ đinh ninh là tôi cũng bị bắt làm con tin như họ mới được. Sơ ý là họ nghi ngờ có liên lạc mật thiết với ông là hỏng hết, không còn làm được cái gì ở Ba-ga-ra nữa đâu. Phải cẩn thận, dè dặt đề phòng dữ lắm, nếu không là nguy đó. À, này, nhất là cái con nhỏ người Việt Nam đó. Tai và mắt nó nhanh như chớp ấy, coi chừng nó cho kỹ mới được, nghe ông!
Viên tù trưởng giọng khắc khoải:
- Sao? Ông đã tìm thấy được gì chưa?
Việt Kim hết sức đợi chờ Un Sa Cơ trả lời:
- Chắc chắn rồi! Tôi đã kiếm ra được giếng dầu! Xứ sở của tôi sẵn sàng nổi dậy nếu được ông và bộ lạc ông giúp sức. Nhưng các ông đã sẵn sàng chưa?
Tên tù trưởng gật đầu:
- Hiện tôi đang chờ ba vị tù trưởng nữa. Bao giờ họ tề tựu đông đủ, tôi sẽ bàn luận với họ rồi sẽ cho lệnh rõ rệt.
Un Sa Cơ mừng rỡ:
- Vậy thì tốt lắm! Và bây giờ ông cho người áp giải tôi về chỗ tụi nó. Bảo họ giả vờ xô đẩy quát tháo thật dữ vào nghe!...
Núp dưới tấm khăn choàng, Việt Kim nghe tiếng giằng co xô đẩy, rồi tiếng người nguyền rủa, quát tháo ầm ĩ. Hé mắt qua khe hở khăn choàng, em thấy rõ hai tên túm áo Un Sa Cơ giữ chặt tưởng chừng như sắp đánh lộn vậy. Em vội vàng bò nhanh tới căn lều kế bên, liệng trả tấm mền, cắm đầu cắm cổ chạy về chỗ Hà Khâm và Á Minh trước Un Sa Cơ. Tên ngũ đoản vừa đi vừa vùng vằng nguyền rủa hai tên vệ binh ầm ĩ.
Á Minh, Hà Khâm thò cổ qua cửa lều thì thấy hai du mục thẳng tay xô mạnh Un Sa Cơ ngã dúi xuống trước cửa căn lều. Chưa ai kịp hỏi gì, ông lùn mập đã liến láu cái miệng:
- Tụi nó bắt giữ tôi khi tôi mon men đến gần căn lều lãnh tụ của chúng. Tôi có ý định gặp tên chỉ huy này xem có thể nói chuyện ôn hòa được không. Không biết làm cách nào để tụi nó trả tự do cho anh em mình đây chứ.
Việt Kim hỏi mát:
- Chắc ông cũng đã dự tính kế hoạch cho bọn mình thoát hiểm ra sao rồi chứ?
Miệng hỏi, nhưng trong thâm tâm em nguyền rủa tên phản trắc này chẳng tiếc lời. Đồng thời em quyết định sẽ vờ như bị mắc mưu của hắn cho hắn khỏi áy náy nghi ngờ gì hết. Và cũng sẽ im lìm không cho Hà Khâm biết vội, e lộ hết.
Việt Kim nghiến răng tự nhủ:
- Thế nào cũng phải tìm cách trốn khỏi nơi đây để báo tin cho chính phủ Ba-ga-ra và đức vua biết ngay mới được.
Tác giả :
Nam Quân