Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 87 Trăm năm
Ắt rằng không một ai có thể đếm được rốt cuộc ngọn lửa lớn thiêu trụi Lạc Hoa Đài kia đã kéo dài trong bao lâu, kể cả bản thân Ô Hành Tuyết cũng không nhớ nổi.
Lửa bừng cuồng nộ, linh phách xé đôi, tiên nguyên tàn lụi… hết thảy những thứ này đều đổ ập lên cùng một cá thể, dẫu có là ai cũng không cách nào đón nhận mà còn giữ được tỉnh táo. Trong rối bời, chàng ngồi tĩnh lặng trong cấm địa.
Lửa cháy bao lâu, chàng ngồi bấy lâu.
Chàng không còn thân thể bất hoại mang thần tính quanh mình. Dưới sự suy nhược nặng nề thì đám lửa kia cũng sẽ để lại vết thương. Vết thương trên cổ, lưng, cánh tay, mắt cá chân… ở những vị trí càng trọng yếu và những vị trí nhạy cảm với cơn đau thì vết thương càng lộ rõ hơn cả.
Cuối cùng, trang phục trên người chàng thấm đẫm máu.
Sau này nhân gian tương truyền rằng, sau khi Lạc Hoa Đài bị thiêu thành đất hoang cằn cỗi, có quá nhiều người đã chết cháy, quá nhiều máu đã nhuộm sâu, nên tất cả những dòng sông chảy ngang qua đó đều trong xanh ở đầu nguồn nhưng khi thoát ra khỏi núi đã chuyển sang đỏ sẫm và uốn quanh toàn bộ cánh đồng Gia Minh. Từ đó về sau, đến gió thổi qua cánh đồng Gia Minh cũng mang theo mùi máu khô, lạnh lẽo như sắt rỉ.
Song không bất kỳ ai biết rằng, mùi máu tanh nồng được gió lan khắp đồng hoang đều đến từ cơ thể Linh Vương.
***
Nếu có thể xem việc ý thức mê man rối loạn là một giấc ngủ, thì có lẽ Ô Hành Tuyết đã ngủ một giấc rất dài tại Lạc Hoa Đài.
Đến khi chàng choàng mở mắt tỉnh lại, ngọn lửa lớn đã dừng từ lâu, mười hai dặm Lạc Hoa Đài cháy đến tàn lụi, để lại bóng hình chàng đơn côi. Những người trong tiên môn đến để chữa cháy cũng đã rời khỏi, phố núi lẫy lừng một thuở trong lời bá tánh giờ đây chỉ còn là những niềm thổn thức.
Ô Hành Tuyết giấu đi vết máu trên trang phục mình. Khi bước lên đường núi trống trải để rời đi, chàng loáng thoáng nhìn thấy thành trì phía xa. Bên ngoài thành có dăm ba quán trà quán rượu chống thân tre treo đèn lồ ng và cờ hiệu trước cửa. Mặt trên của những lá cờ hiệu kia đã đổi từ “Tuế Ninh" sang “Thanh Hà".
Cứ như chỉ “ngủ" một giấc mà tưởng chừng nhân gian đã đổi thay.
Ở góc rẽ bên ngoài rìa núi, chàng vô tình gặp phải một nhóm bá tánh có đầy đủ già trẻ trai gái. Họ đang đi theo một chiếc xe bò chất đồ rất nặng, cẩn trọng bước từng bước dưới chân núi, vừa đi vừa dáo dác nhìn khắp mọi nơi như thể e ngại yêu ma quỷ quái sẽ nhảy bổ ra từ ven đường.
Ngồi bên tấm ván xe bò là một cô gái với đôi mắt sắc lẻm, cô là người đầu tiên vừa nhìn đã phát hiện ra chàng qua lớp sương mù miệt núi. Thoạt đầu, cô giật mình, hốt hoảng hô lên, “Bên dưới Lạc Hoa Đài mà có người dám đi một mình à?"
Chiếc xe bò đang đi chầm chậm thắng lại đánh két, cả nhóm người lục đục ngừng bước đặng dời mắt sang nhìn chàng một cách khó tin. Họ nhìn nhau và xôn xao bàn tán, âm thanh xì xào phát ra liên tục. Người đánh xe có thân hình rắn rỏi, bên hông treo một thanh đao.
Người đó nhìn chòng chọc về phía này, tay chạm vào đao bên hông và hỏi, “Vị công tử này đến từ đâu, tại sao lại đi một mình trên đường núi này? Không lẽ huynh đài chưa nghe lời đồn về Lạc Hoa Đài hay sao? Chẳng nhẽ không biết thiên hoả từng xuất hiện ở Lạc Hoa Đài?"
Cô gái có ánh mắt sắt lẻm ở bên cạnh nói thêm một câu, “Công tử là người nơi khác đến đây à? Trước đây trong núi này từng có tà ma quấy phá!"
Những người còn lại xôn xao gật đầu tán đồng, có người chỉ khoảnh trời thênh thang trên đỉnh đầu mà nói, “Chẳng biết tà ma đến từ nơi nào nữa, mà chắc mang nghiệp chướng nặng nề đến mức cực kỳ khó giải quyết, thế nên trên kia không chịu nổi bèn giáng thiên hoả làm hình phạt, lần đó lửa cháy nghi ngút chẳng rõ bao nhiêu ngày."
“Vào thời điểm bùng lên, lưỡi lửa cao chót vót! Cao đến độ đứng cách xa mấy chục dặm vẫn có thể thấy rõ cả một vùng trời đỏ quạch. Rất nhiều người nghe thấy tiếng khóc than bên trong. Phải gọi đó là… oán khí ngút trời. Mà oán khí dày đặc như vậy khó lòng phai nhạt trong sớm chiều, thế nên đến tận bây giờ, ở đây vẫn thường xảy ra chuyện!"
“Phải phải phải! Có rất nhiều người hay nói thấy lửa đỏ ở đây, không chỉ thế còn xuất hiện nhiều thứ đáng sợ nữa!"
“Đi một mình đến đây cực kỳ nguy hiểm, người ta muốn đến các thành trấn lân cận cũng phải đi đông người, dẫn theo xe ngựa chở hàng hoặc đi chung với người biết thuật pháp, còn công tử đây…"
“Công tử?"
Các bá tánh thay phiên nhau nói một lúc lâu mà mãi không thấy người trả lời, họ không khỏi thấp giọng đoán, “Không lẽ anh ta không nghe được?"
Đúng thật là lúc đó Ô Hành Tuyết không thể nghe rõ.
Cơn đau sót lại khắp cơ thể chàng còn chưa dứt, năm giác quan như tê liệt. Lời mấy vị bá tánh này lọt vào tai chàng như ngăn sông cách biển, mịt mờ mông lung. Thứ mà chàng nghe được rõ nhất là những câu chữ được lặp đi lặp lại rằng, tà ma quấy phá Lạc Hoa Đài và oán khí dày đặc với tiếng than khóc ngút trời.
Trong sương mù lạnh lẽo, chàng lẳng lặng đứng nghe lời đồn đã được truyền xa.
Cũng chính cô gái với đôi mắt sắc lẻm lên tiếng phủ nhận, “Chắc không đâu, trông anh ta không giống…"
“Không giống cái gì?"
“Không giống người không nghe được."
…
Trông chàng còn không giống bất kỳ một người nào nơi đây, khác biệt hoàn toàn với đường núi ám bụi xám xịt. Người chàng vận trang phục trắng muốt như tuyết. Đứng giữa vách núi cheo leo và sắc đá thẫm đỏ, trông chàng tái nhờ như sương mù mùa đông nơi triền núi, tưởng như sẽ tan biến ngay khoảnh khắc mặt trời ló dạng.
Cô gái nọ nhảy khỏi tấm ván xe, vô cùng gan dạ bước mấy bước về phía chàng và tỏ vẻ lân la, “Công tử này định đi đâu đấy? Nếu tiện đường thì có thể đi chung với bọn tôi… Công tử?"
Cô nàng cao giọng gọi hai lần mới thấy đối phương giật mình bần thần, mấp máy môi trả lời, “… Đi phía bắc, biển Vô Đoan."
Giọng nói người này có lẽ êm ái lắm, nhưng lại mang nét khàn khàn như thể đã không nói chuyện từ rất lâu.
Song không che đi được chất giọng êm ái.
Những người khác thấy chàng trả lời, bèn dần dà nguôi đi sự ngờ vực cẩn trọng. Người đánh xe vỗ lên lưng con bò, nâng thanh đao đeo bên hông và bước lại gần, nói, “Biển Vô Đoan? Thế thì cũng tương đối thuận đường đó, đến bến đò cũng phải đi hướng đấy. Nếu công tử đã có khả năng đi một mình thì ắt cũng chuẩn bị vài thuật pháp phòng thân. Thế thì lát nữa công tử có thể đi ở phía rìa. Công tử có dùng đao hay kiếm không?"
Vị công tử này có dáng người thoạt trông còn cao hơn hắn, khi hắn nói chuyện phải hơi ngước mắt lên một tẹo, thế nên hắn không chú ý đến xung quanh. Sau khi hỏi rồi, hắn mới liếc nhìn bên hông người nọ thì thấy nơi đó chỉ treo một món đồ như chiếc chuông làm bằng bạch ngọc. Còn đâu hoàn toàn không có bất kỳ một loại vũ khí bén nào.
Hắn hơi ngỡ ngàng, rồi nghe đối phương trả lời, “Tôi không có kiếm."
***
Trước đây, Linh Vương khá lười nhác, không ưng cầm đồ trên tay. Còn hai tiểu đồng tử trong cung phủ chàng mồm mép tía lia, lúc nào cũng bấu bấu víu víu hỏi có việc gì cho chúng làm không, cứ như nếu không chứng tỏ được sự hữu dụng của mình thì chúng hết còn lý do để sống trên Tiên Đô vậy.
Bởi thế, mỗi lần hai tiểu đồng tử xuống phàm, chàng đều giao chúng nhiệm vụ cầm kiếm, không chỉ thế mà còn đặt biệt danh cho bọn chúng là “đồng tử ôm kiếm".
Còn những khi không có tiểu đồng tử bên cạnh, thanh kiếm đó thường được giắt cùng một bên hông với chuông mộng bạch ngọc, mỗi khi chàng hành sự chúng sẽ chạm nhẹ vào nhau vang lên những âm thanh khe khẽ.
Trước đây, mỗi lần đến Nam Song Hạ, chàng còn chưa chạm gót lên mái hiên thì người trong sân đã ngước mắt nhìn lên.
Người ấy nói, “Ta đã nghe được tiếng ngọc thạch từ sớm."
Chàng hỏi, “Thần kỳ vậy sao. Sớm cỡ nào?"
Người ấy nói, “Vừa ra khỏi Toạ Xuân Phong đã nghe rồi."
…
Giờ đây, đã chẳng còn tiểu đồng tử tíu tít theo đuôi, và cũng chẳng còn ai chờ chàng trong sân đặng ngước nhìn mỗi khi nghe thấy tiếng ngọc.
Sau khi chẻ đôi linh phách thần mộc, cũng tương tự như tiên nguyên tiêu tan, thanh kiếm ấy trở về hình hài vốn dĩ trên nền đất đẫm máu — nó trở thành cành gãy được bao phủ trong tinh chất bạch ngọc.
Hai tay chàng trống không, bên hông trơ trọi, không còn một thanh kiếm nào nữa.
***
Người nam đánh xe và cô gái đang đứng rất gần chỗ chàng, rốt cuộc đã nhìn thấy vết bỏng to tướng một bên cổ chàng qua sương mù lờ nhờ trên núi.
Cô gái ấy là người giàu tình cảm, trông thấy thế thì cất giọng thảng thốt, “Ôi công tử bị thương à!"
Cô lần mò trên người mình, tìm được một tấm khăn sạch rồi rắc bột thuốc lên đấy và đưa sang, nói, “Vết thương rộng như vậy sẽ rất đau, tôi có thuốc bột này được người trong tiên môn cho, có thể giúp công tử cầm —"
Nói được nửa câu thì cô im bặt, người nam đánh xe thình lình giữ cô lại. Họ chong chong đôi mắt vào vết thương trên cổ Ô Hành Tuyết, mắt họ mỗi lúc một trợn to.
Vết thương đó đang dần lành lặn với tốc độ mà mắt thường có thể nhìn thấy được. Trong lúc da liền lại, từng đợt từng đợt khói đen nhẹ nhàng lởn vởn quanh miệng vết thương và bao bọc xung quanh cơ thể Ô Hành Tuyết…
Có lẽ những bá tánh này đã từng chịu khổ quá nhiều, nên chỉ loáng mắt họ đã nhận ra. Chân họ chững bước đột ngột, chỉ lặng đi trong một thoáng chốc liền lập tức hô thất thanh, “Tà ma! Ngươi… ngươi là tà ma!"
“Hắn là tà ma!!!"
“Chạy mau! Có tà ma!"
Đường núi yên tĩnh đã trở nên nhốn nháo chỉ trong chớp mắt.
Chỉ trong chớp mắt, trâu ngựa hí vang, cả đám người xôn xao như vỡ đê.
Chỉ trong chớp mắt, ai nấy đều la hét inh ỏi và bỏ chạy tán loạn.
Ô Hành Tuyết lắng nghe họ thét la, nhìn bóng dáng họ biến mất vào cuối đường núi, nhớ rõ ánh mắt họ khi ngoảnh đầu trong kinh hãi, ánh mắt ấy tràn đầy hoảng hốt, bất an, sợ hãi và kinh tởm.
Chàng đứng lặng hồi lâu trên con đường núi đã quay về tịch mịch, đoạn cúi người nhặt tấm khăn vải thấm thuốc bột bị đánh rơi trên đất.
Chàng đặt chiếc khăn vải lên một cành cây khô trên vách đá, sau chót thoáng đưa mắt nhìn Lạc Hoa Đài từng một thời nhộn nhịp đông vui, rồi cất bước một mình đi về phía bắc.
***
Cô gái kia có hỏi rằng chàng định đi nơi nào, khi đó chàng đã im lặng một lúc lâu mới trả lời cô.
Quả thực, chàng có muốn đến một nơi nằm ở tận cùng biển Vô Đoan, nơi ấy được gọi là Thương Lang Bắc Vực.
Linh phách thần mộc bị bổ làm đôi cần phải được an vị ở đâu đó, chàng đã nghĩ đến nhiều chốn trên nhân gian nhưng chỉ có nơi này là phù hợp nhất.
Thế nhưng hiện tại đó lại là nơi mà chàng không muốn đến nhất.
Chàng hãy còn chưa thích ứng được tà ma khí lảng vảng quanh người mình, nên nếu không cẩn trọng thì không thể giấu chúng đi được.
Chàng có thể mường tượng ra phản ứng của bất kỳ một ai khi nhìn thấy tình cảnh mình như thế này. Khả năng cao là họ đều phản ứng giống hệt những người trên đường núi ban nãy, sẽ hét lên thất thanh hoặc vung kiếm xuất chiêu trong nỗi sợ hãi, kinh tởm, hoặc hoảng loạn…
Chàng cũng có thể mường tượng ra khung cảnh đối mặt những người bạn cũ, mường tượng đến khung cảnh gặp những người trên Tiên Đô rồi sẽ ra sao.
Chỉ không cách nào mường tượng đến Tiêu Phục Huyên.
***
Năm đó là năm Thanh Hà thứ nhất.
Ô Hành Tuyết đi đến bờ biển Vô Đoan nhưng không vượt biển.
Chàng tìm một thung lũng băng tuyết ở ven biển Vô Đoan để tĩnh toạ mười tháng ròng, tận đến lúc chàng có thể dễ dàng che giấu tà ma khí dày đặc bên trong cơ thể mình không để lộ một chút nào ra ngoài, tận đến lúc chàng có thể ngưng tụ được một bộ linh phách ảo hoàn chỉnh cho thân thể mình để đánh tráo thật giả. Bấy giờ, chàng mới rời khỏi nơi không người kia.
Chàng thay đổi gương mặt mình, đắp lên một dáng vẻ có kiểm tra cách nào cũng không tìm thấy sơ hở. Không chỉ vậy, chàng còn đảo ngược quá trình vận chuyển khí kình, sửa lại thói quen xuất chiêu đã quen thuộc từ trước…
Chàng đã tính đến không biết là bao nhiêu trường hợp, đã chuẩn bị đủ đường. Thế rồi đến lúc sắp sửa băng qua biển Vô Đoan mới chợt nghe được một chuyện…
Ngày hôm ấy nhân gian đang độ giữa đông, tuyết đổ dày trên bờ biển Vô Đoan. Bên trên nóc những chiếc tàu neo trên bến treo đèn lồ ng cản gió, bóng những chiếc đèn đung đưa hắt sáng cả một vùng mép nước. Giữa vùng sáng ấy, Ô Hành Tuyết nheo mắt, chớp rũ hạt tuyết bên đuôi mắt.
Khi chàng ngước mắt lên lại thì chợt nghe mấy người trong tiên môn ở bên cạnh nói với nhau, “Nghe đâu Thiên Túc thượng tiên Tiêu Phục Huyên đã không ở Tiên đô rất lâu rồi…"
Ô Hành Tuyết ngẩn người, bất chợt quay ngoắt sang.
Chàng đứng giữa gió tuyết, lắng nghe lời họ nói.
Bọn họ nói rằng Tiêu Phục Huyên không ở trên Tiên Đô.
Bọn họ nói rằng thiên chiếu ban y lệnh cấm, bắt y ở bên ngoài cực bắc một trăm năm.
Một trăm năm trời, người đó sẽ không xuất hiện ở nhân gian.
Một trăm năm trời, hai người họ không có cơ hội gặp gỡ, dẫu là số phận định sẵn hay tình cờ vô ý, dẫu có ở Thương Lang Bắc Vực hay bất kỳ nơi đâu…
Chàng còn vỡ lẽ một việc giữa những tin đồn nghe được — hoá ra vào thời điểm chàng chẻ đôi thần mộc, bị tan vỡ tiên nguyên và trở thành tà ma, tất cả mọi người trên thế gian đều đã quên chàng.
Chưa từng có một ai nhảy xuống từ tán cây thần mộc trên cao.
Chưa từng có một Linh Vương trên Tiên Đô.
Chàng không cần phải mường tượng đến khung cảnh đối mặt với Tiêu Phục Huyên ra sao…
Cho dù sau trăm năm nữa, dẫu cho họ bước ngang mặt nhau giữa con đường rộng lớn nhất, dẫu bốn mắt giao nhau, thì cũng chẳng chuyện gì xảy ra cả.
Hai người họ không khác gì những người xa lạ không ngừng lướt qua nhau trên phố.
Mười tháng của chần chừ và do dự sao chẳng khác nào một trò đùa.
❄︎
Lời tác giả:
Ngủ ngon QAQ
Lửa bừng cuồng nộ, linh phách xé đôi, tiên nguyên tàn lụi… hết thảy những thứ này đều đổ ập lên cùng một cá thể, dẫu có là ai cũng không cách nào đón nhận mà còn giữ được tỉnh táo. Trong rối bời, chàng ngồi tĩnh lặng trong cấm địa.
Lửa cháy bao lâu, chàng ngồi bấy lâu.
Chàng không còn thân thể bất hoại mang thần tính quanh mình. Dưới sự suy nhược nặng nề thì đám lửa kia cũng sẽ để lại vết thương. Vết thương trên cổ, lưng, cánh tay, mắt cá chân… ở những vị trí càng trọng yếu và những vị trí nhạy cảm với cơn đau thì vết thương càng lộ rõ hơn cả.
Cuối cùng, trang phục trên người chàng thấm đẫm máu.
Sau này nhân gian tương truyền rằng, sau khi Lạc Hoa Đài bị thiêu thành đất hoang cằn cỗi, có quá nhiều người đã chết cháy, quá nhiều máu đã nhuộm sâu, nên tất cả những dòng sông chảy ngang qua đó đều trong xanh ở đầu nguồn nhưng khi thoát ra khỏi núi đã chuyển sang đỏ sẫm và uốn quanh toàn bộ cánh đồng Gia Minh. Từ đó về sau, đến gió thổi qua cánh đồng Gia Minh cũng mang theo mùi máu khô, lạnh lẽo như sắt rỉ.
Song không bất kỳ ai biết rằng, mùi máu tanh nồng được gió lan khắp đồng hoang đều đến từ cơ thể Linh Vương.
***
Nếu có thể xem việc ý thức mê man rối loạn là một giấc ngủ, thì có lẽ Ô Hành Tuyết đã ngủ một giấc rất dài tại Lạc Hoa Đài.
Đến khi chàng choàng mở mắt tỉnh lại, ngọn lửa lớn đã dừng từ lâu, mười hai dặm Lạc Hoa Đài cháy đến tàn lụi, để lại bóng hình chàng đơn côi. Những người trong tiên môn đến để chữa cháy cũng đã rời khỏi, phố núi lẫy lừng một thuở trong lời bá tánh giờ đây chỉ còn là những niềm thổn thức.
Ô Hành Tuyết giấu đi vết máu trên trang phục mình. Khi bước lên đường núi trống trải để rời đi, chàng loáng thoáng nhìn thấy thành trì phía xa. Bên ngoài thành có dăm ba quán trà quán rượu chống thân tre treo đèn lồ ng và cờ hiệu trước cửa. Mặt trên của những lá cờ hiệu kia đã đổi từ “Tuế Ninh" sang “Thanh Hà".
Cứ như chỉ “ngủ" một giấc mà tưởng chừng nhân gian đã đổi thay.
Ở góc rẽ bên ngoài rìa núi, chàng vô tình gặp phải một nhóm bá tánh có đầy đủ già trẻ trai gái. Họ đang đi theo một chiếc xe bò chất đồ rất nặng, cẩn trọng bước từng bước dưới chân núi, vừa đi vừa dáo dác nhìn khắp mọi nơi như thể e ngại yêu ma quỷ quái sẽ nhảy bổ ra từ ven đường.
Ngồi bên tấm ván xe bò là một cô gái với đôi mắt sắc lẻm, cô là người đầu tiên vừa nhìn đã phát hiện ra chàng qua lớp sương mù miệt núi. Thoạt đầu, cô giật mình, hốt hoảng hô lên, “Bên dưới Lạc Hoa Đài mà có người dám đi một mình à?"
Chiếc xe bò đang đi chầm chậm thắng lại đánh két, cả nhóm người lục đục ngừng bước đặng dời mắt sang nhìn chàng một cách khó tin. Họ nhìn nhau và xôn xao bàn tán, âm thanh xì xào phát ra liên tục. Người đánh xe có thân hình rắn rỏi, bên hông treo một thanh đao.
Người đó nhìn chòng chọc về phía này, tay chạm vào đao bên hông và hỏi, “Vị công tử này đến từ đâu, tại sao lại đi một mình trên đường núi này? Không lẽ huynh đài chưa nghe lời đồn về Lạc Hoa Đài hay sao? Chẳng nhẽ không biết thiên hoả từng xuất hiện ở Lạc Hoa Đài?"
Cô gái có ánh mắt sắt lẻm ở bên cạnh nói thêm một câu, “Công tử là người nơi khác đến đây à? Trước đây trong núi này từng có tà ma quấy phá!"
Những người còn lại xôn xao gật đầu tán đồng, có người chỉ khoảnh trời thênh thang trên đỉnh đầu mà nói, “Chẳng biết tà ma đến từ nơi nào nữa, mà chắc mang nghiệp chướng nặng nề đến mức cực kỳ khó giải quyết, thế nên trên kia không chịu nổi bèn giáng thiên hoả làm hình phạt, lần đó lửa cháy nghi ngút chẳng rõ bao nhiêu ngày."
“Vào thời điểm bùng lên, lưỡi lửa cao chót vót! Cao đến độ đứng cách xa mấy chục dặm vẫn có thể thấy rõ cả một vùng trời đỏ quạch. Rất nhiều người nghe thấy tiếng khóc than bên trong. Phải gọi đó là… oán khí ngút trời. Mà oán khí dày đặc như vậy khó lòng phai nhạt trong sớm chiều, thế nên đến tận bây giờ, ở đây vẫn thường xảy ra chuyện!"
“Phải phải phải! Có rất nhiều người hay nói thấy lửa đỏ ở đây, không chỉ thế còn xuất hiện nhiều thứ đáng sợ nữa!"
“Đi một mình đến đây cực kỳ nguy hiểm, người ta muốn đến các thành trấn lân cận cũng phải đi đông người, dẫn theo xe ngựa chở hàng hoặc đi chung với người biết thuật pháp, còn công tử đây…"
“Công tử?"
Các bá tánh thay phiên nhau nói một lúc lâu mà mãi không thấy người trả lời, họ không khỏi thấp giọng đoán, “Không lẽ anh ta không nghe được?"
Đúng thật là lúc đó Ô Hành Tuyết không thể nghe rõ.
Cơn đau sót lại khắp cơ thể chàng còn chưa dứt, năm giác quan như tê liệt. Lời mấy vị bá tánh này lọt vào tai chàng như ngăn sông cách biển, mịt mờ mông lung. Thứ mà chàng nghe được rõ nhất là những câu chữ được lặp đi lặp lại rằng, tà ma quấy phá Lạc Hoa Đài và oán khí dày đặc với tiếng than khóc ngút trời.
Trong sương mù lạnh lẽo, chàng lẳng lặng đứng nghe lời đồn đã được truyền xa.
Cũng chính cô gái với đôi mắt sắc lẻm lên tiếng phủ nhận, “Chắc không đâu, trông anh ta không giống…"
“Không giống cái gì?"
“Không giống người không nghe được."
…
Trông chàng còn không giống bất kỳ một người nào nơi đây, khác biệt hoàn toàn với đường núi ám bụi xám xịt. Người chàng vận trang phục trắng muốt như tuyết. Đứng giữa vách núi cheo leo và sắc đá thẫm đỏ, trông chàng tái nhờ như sương mù mùa đông nơi triền núi, tưởng như sẽ tan biến ngay khoảnh khắc mặt trời ló dạng.
Cô gái nọ nhảy khỏi tấm ván xe, vô cùng gan dạ bước mấy bước về phía chàng và tỏ vẻ lân la, “Công tử này định đi đâu đấy? Nếu tiện đường thì có thể đi chung với bọn tôi… Công tử?"
Cô nàng cao giọng gọi hai lần mới thấy đối phương giật mình bần thần, mấp máy môi trả lời, “… Đi phía bắc, biển Vô Đoan."
Giọng nói người này có lẽ êm ái lắm, nhưng lại mang nét khàn khàn như thể đã không nói chuyện từ rất lâu.
Song không che đi được chất giọng êm ái.
Những người khác thấy chàng trả lời, bèn dần dà nguôi đi sự ngờ vực cẩn trọng. Người đánh xe vỗ lên lưng con bò, nâng thanh đao đeo bên hông và bước lại gần, nói, “Biển Vô Đoan? Thế thì cũng tương đối thuận đường đó, đến bến đò cũng phải đi hướng đấy. Nếu công tử đã có khả năng đi một mình thì ắt cũng chuẩn bị vài thuật pháp phòng thân. Thế thì lát nữa công tử có thể đi ở phía rìa. Công tử có dùng đao hay kiếm không?"
Vị công tử này có dáng người thoạt trông còn cao hơn hắn, khi hắn nói chuyện phải hơi ngước mắt lên một tẹo, thế nên hắn không chú ý đến xung quanh. Sau khi hỏi rồi, hắn mới liếc nhìn bên hông người nọ thì thấy nơi đó chỉ treo một món đồ như chiếc chuông làm bằng bạch ngọc. Còn đâu hoàn toàn không có bất kỳ một loại vũ khí bén nào.
Hắn hơi ngỡ ngàng, rồi nghe đối phương trả lời, “Tôi không có kiếm."
***
Trước đây, Linh Vương khá lười nhác, không ưng cầm đồ trên tay. Còn hai tiểu đồng tử trong cung phủ chàng mồm mép tía lia, lúc nào cũng bấu bấu víu víu hỏi có việc gì cho chúng làm không, cứ như nếu không chứng tỏ được sự hữu dụng của mình thì chúng hết còn lý do để sống trên Tiên Đô vậy.
Bởi thế, mỗi lần hai tiểu đồng tử xuống phàm, chàng đều giao chúng nhiệm vụ cầm kiếm, không chỉ thế mà còn đặt biệt danh cho bọn chúng là “đồng tử ôm kiếm".
Còn những khi không có tiểu đồng tử bên cạnh, thanh kiếm đó thường được giắt cùng một bên hông với chuông mộng bạch ngọc, mỗi khi chàng hành sự chúng sẽ chạm nhẹ vào nhau vang lên những âm thanh khe khẽ.
Trước đây, mỗi lần đến Nam Song Hạ, chàng còn chưa chạm gót lên mái hiên thì người trong sân đã ngước mắt nhìn lên.
Người ấy nói, “Ta đã nghe được tiếng ngọc thạch từ sớm."
Chàng hỏi, “Thần kỳ vậy sao. Sớm cỡ nào?"
Người ấy nói, “Vừa ra khỏi Toạ Xuân Phong đã nghe rồi."
…
Giờ đây, đã chẳng còn tiểu đồng tử tíu tít theo đuôi, và cũng chẳng còn ai chờ chàng trong sân đặng ngước nhìn mỗi khi nghe thấy tiếng ngọc.
Sau khi chẻ đôi linh phách thần mộc, cũng tương tự như tiên nguyên tiêu tan, thanh kiếm ấy trở về hình hài vốn dĩ trên nền đất đẫm máu — nó trở thành cành gãy được bao phủ trong tinh chất bạch ngọc.
Hai tay chàng trống không, bên hông trơ trọi, không còn một thanh kiếm nào nữa.
***
Người nam đánh xe và cô gái đang đứng rất gần chỗ chàng, rốt cuộc đã nhìn thấy vết bỏng to tướng một bên cổ chàng qua sương mù lờ nhờ trên núi.
Cô gái ấy là người giàu tình cảm, trông thấy thế thì cất giọng thảng thốt, “Ôi công tử bị thương à!"
Cô lần mò trên người mình, tìm được một tấm khăn sạch rồi rắc bột thuốc lên đấy và đưa sang, nói, “Vết thương rộng như vậy sẽ rất đau, tôi có thuốc bột này được người trong tiên môn cho, có thể giúp công tử cầm —"
Nói được nửa câu thì cô im bặt, người nam đánh xe thình lình giữ cô lại. Họ chong chong đôi mắt vào vết thương trên cổ Ô Hành Tuyết, mắt họ mỗi lúc một trợn to.
Vết thương đó đang dần lành lặn với tốc độ mà mắt thường có thể nhìn thấy được. Trong lúc da liền lại, từng đợt từng đợt khói đen nhẹ nhàng lởn vởn quanh miệng vết thương và bao bọc xung quanh cơ thể Ô Hành Tuyết…
Có lẽ những bá tánh này đã từng chịu khổ quá nhiều, nên chỉ loáng mắt họ đã nhận ra. Chân họ chững bước đột ngột, chỉ lặng đi trong một thoáng chốc liền lập tức hô thất thanh, “Tà ma! Ngươi… ngươi là tà ma!"
“Hắn là tà ma!!!"
“Chạy mau! Có tà ma!"
Đường núi yên tĩnh đã trở nên nhốn nháo chỉ trong chớp mắt.
Chỉ trong chớp mắt, trâu ngựa hí vang, cả đám người xôn xao như vỡ đê.
Chỉ trong chớp mắt, ai nấy đều la hét inh ỏi và bỏ chạy tán loạn.
Ô Hành Tuyết lắng nghe họ thét la, nhìn bóng dáng họ biến mất vào cuối đường núi, nhớ rõ ánh mắt họ khi ngoảnh đầu trong kinh hãi, ánh mắt ấy tràn đầy hoảng hốt, bất an, sợ hãi và kinh tởm.
Chàng đứng lặng hồi lâu trên con đường núi đã quay về tịch mịch, đoạn cúi người nhặt tấm khăn vải thấm thuốc bột bị đánh rơi trên đất.
Chàng đặt chiếc khăn vải lên một cành cây khô trên vách đá, sau chót thoáng đưa mắt nhìn Lạc Hoa Đài từng một thời nhộn nhịp đông vui, rồi cất bước một mình đi về phía bắc.
***
Cô gái kia có hỏi rằng chàng định đi nơi nào, khi đó chàng đã im lặng một lúc lâu mới trả lời cô.
Quả thực, chàng có muốn đến một nơi nằm ở tận cùng biển Vô Đoan, nơi ấy được gọi là Thương Lang Bắc Vực.
Linh phách thần mộc bị bổ làm đôi cần phải được an vị ở đâu đó, chàng đã nghĩ đến nhiều chốn trên nhân gian nhưng chỉ có nơi này là phù hợp nhất.
Thế nhưng hiện tại đó lại là nơi mà chàng không muốn đến nhất.
Chàng hãy còn chưa thích ứng được tà ma khí lảng vảng quanh người mình, nên nếu không cẩn trọng thì không thể giấu chúng đi được.
Chàng có thể mường tượng ra phản ứng của bất kỳ một ai khi nhìn thấy tình cảnh mình như thế này. Khả năng cao là họ đều phản ứng giống hệt những người trên đường núi ban nãy, sẽ hét lên thất thanh hoặc vung kiếm xuất chiêu trong nỗi sợ hãi, kinh tởm, hoặc hoảng loạn…
Chàng cũng có thể mường tượng ra khung cảnh đối mặt những người bạn cũ, mường tượng đến khung cảnh gặp những người trên Tiên Đô rồi sẽ ra sao.
Chỉ không cách nào mường tượng đến Tiêu Phục Huyên.
***
Năm đó là năm Thanh Hà thứ nhất.
Ô Hành Tuyết đi đến bờ biển Vô Đoan nhưng không vượt biển.
Chàng tìm một thung lũng băng tuyết ở ven biển Vô Đoan để tĩnh toạ mười tháng ròng, tận đến lúc chàng có thể dễ dàng che giấu tà ma khí dày đặc bên trong cơ thể mình không để lộ một chút nào ra ngoài, tận đến lúc chàng có thể ngưng tụ được một bộ linh phách ảo hoàn chỉnh cho thân thể mình để đánh tráo thật giả. Bấy giờ, chàng mới rời khỏi nơi không người kia.
Chàng thay đổi gương mặt mình, đắp lên một dáng vẻ có kiểm tra cách nào cũng không tìm thấy sơ hở. Không chỉ vậy, chàng còn đảo ngược quá trình vận chuyển khí kình, sửa lại thói quen xuất chiêu đã quen thuộc từ trước…
Chàng đã tính đến không biết là bao nhiêu trường hợp, đã chuẩn bị đủ đường. Thế rồi đến lúc sắp sửa băng qua biển Vô Đoan mới chợt nghe được một chuyện…
Ngày hôm ấy nhân gian đang độ giữa đông, tuyết đổ dày trên bờ biển Vô Đoan. Bên trên nóc những chiếc tàu neo trên bến treo đèn lồ ng cản gió, bóng những chiếc đèn đung đưa hắt sáng cả một vùng mép nước. Giữa vùng sáng ấy, Ô Hành Tuyết nheo mắt, chớp rũ hạt tuyết bên đuôi mắt.
Khi chàng ngước mắt lên lại thì chợt nghe mấy người trong tiên môn ở bên cạnh nói với nhau, “Nghe đâu Thiên Túc thượng tiên Tiêu Phục Huyên đã không ở Tiên đô rất lâu rồi…"
Ô Hành Tuyết ngẩn người, bất chợt quay ngoắt sang.
Chàng đứng giữa gió tuyết, lắng nghe lời họ nói.
Bọn họ nói rằng Tiêu Phục Huyên không ở trên Tiên Đô.
Bọn họ nói rằng thiên chiếu ban y lệnh cấm, bắt y ở bên ngoài cực bắc một trăm năm.
Một trăm năm trời, người đó sẽ không xuất hiện ở nhân gian.
Một trăm năm trời, hai người họ không có cơ hội gặp gỡ, dẫu là số phận định sẵn hay tình cờ vô ý, dẫu có ở Thương Lang Bắc Vực hay bất kỳ nơi đâu…
Chàng còn vỡ lẽ một việc giữa những tin đồn nghe được — hoá ra vào thời điểm chàng chẻ đôi thần mộc, bị tan vỡ tiên nguyên và trở thành tà ma, tất cả mọi người trên thế gian đều đã quên chàng.
Chưa từng có một ai nhảy xuống từ tán cây thần mộc trên cao.
Chưa từng có một Linh Vương trên Tiên Đô.
Chàng không cần phải mường tượng đến khung cảnh đối mặt với Tiêu Phục Huyên ra sao…
Cho dù sau trăm năm nữa, dẫu cho họ bước ngang mặt nhau giữa con đường rộng lớn nhất, dẫu bốn mắt giao nhau, thì cũng chẳng chuyện gì xảy ra cả.
Hai người họ không khác gì những người xa lạ không ngừng lướt qua nhau trên phố.
Mười tháng của chần chừ và do dự sao chẳng khác nào một trò đùa.
❄︎
Lời tác giả:
Ngủ ngon QAQ
Tác giả :
Mộc Tô Lí